(Siêu hay) Kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta

Kể chuyện lớp 5 tuần 2: Kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta là đề bài Kể chuyện đã đọc, đã nghe SGK Tiếng Việt 5 tập 1 trang 18. Sau đây HoaTieu.vn xin gửi tới các em học sinh TOP 10 câu chuyện kể về người anh hùng, danh nhân nổi tiếng trong lịch sử nước ta hay, ấn tượng nhất. Mời các em cùng tham khảo để học tốt tiết kể chuyện trên lớp nhé!

1. Tên những vị anh hùng, danh nhân nổi tiếng của nước ta

Những vị anh hùng, danh nhân nổi tiếng của nước ta
Những vị anh hùng, danh nhân nổi tiếng của nước ta

14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam

Danh sách 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam xếp theo thứ tự thời gian bao gồm: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tên những người anh hùng, danh nhân nổi tiếng của Việt Nam

Nữ tướng Lê Chân,  Nguyễn Thị Chiên, Trần Quốc Toản, Thánh Gióng, Nguyễn Hiền, Vua Lê Thánh Tông, vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi, đại tướng Võ Nguyên Giáp,...

2. Dàn ý kể chuyện về một anh hùng, danh nhân của nước ta

1. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện về danh nhân văn hóa mà em đã được nghe, được đọc.

– Câu chuyện em được nghe kể hay đọc qua sách báo?

– Câu chuyện kể về danh nhân văn hóa nào?

2. Thân bài:

– Khái quát tiểu sử của danh nhân văn hóa:

+ Tên, tuổi, quê quán

– Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân văn hóa

+ Những hoạt động và đóng góp

+ Vinh danh danh nhân văn hóa

– Kể lại câu chuyện về danh nhân văn hóa.

3. Kết bài: Cảm nghĩ của em về câu chuyện của danh nhân văn hóa:

- Những danh nhân văn hóa là tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi một quốc gia, dân tộc, cần tôn vinh và học tập noi theo.

3. Kể chuyện về một anh hùng, danh nhân của nước ta lớp 5

3.1. Kể chuyện về nữ anh hùng Đinh Thị Vân

Nội dung đoạn văn dưới đây được thực hiện bởi HoaTieu.vn. Các trang khác lấy bài xin ghi nguồn.

Nhà em ở gần số 8, Cửa Đông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, nơi có căn hộ của nữ anh hùng tình báo Đinh Thị Vân. Bà đã thanh thản ra đi mãi mãi, để lại những câu chuyện như huyền thoại về một nữ điệp viên cộng sản cả đời hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

Những mẩu chuyện như việc bà “lấy vợ cho chồng”, gạt bỏ mọi nỗi niềm riêng để hoạt động trong lòng địch, hay trước mọi đòn roi tra tấn của quân thù, bà đã nêu cao khí tiết “uy vũ bất năng khuất” của người cách mạng… giờ đây vẫn được người đời kể lại với lòng kính nể, sự tiếc thương vô hạn.

Bà Đinh Thị Vân hoạt động tình báo trong Chiến tranh Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tính cách thông minh, nhanh nhẹn và kiên trung của bà đã giúp xây dựng một mạng lưới tình báo vững chắc, cung cấp thông tin quan trọng cho Trung ương Đảng về các đợt càn quét của Mỹ tại miền Đông Nam bộ. Hệ thống tình báo của bà Đinh Thị Vân đã đóng một vai trò quan trọng trong các kế hoạch tấn công của quân đội Việt Nam từ Tết Mậu Thân 1968 cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng vào năm 1975.

Tinh thần bất khuất và dũng cảm của bà Vân đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, khích lệ chúng em tiếp tục viết nên những trang sử vang dội về cuộc chiến tranh đầy hào hùng của dân tộc. Cảm phục trước tấm gương nữ anh hùng dũng cảm, kiên trung, học sinh chúng em tự hứa sẽ cố gắng học tập chăm chỉ để trở thành những người công dân tốt, góp sức xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh và tươi đẹp hơn.

3.2. Kể chuyện về danh tướng Yết Kiêu

Nội dung bài viết được thực hiện bởi HoaTieu.vn. Các trang khác lấy bài xin ghi nguồn.

Trong các danh nhân là anh hùng chống giặc ngoại xâm, cm ấn tượng nhất với danh tướng Yết Kiêu. Ông là một trong những vị tướng tài nổi tiếng với biệt tài bơi lội không ai sánh bằng.

Năm ấy, giặc Nguyên Mông tràn sang nước ta, chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn Ninh. Nhà vua sai sứ giả đi tìm người đánh giặc. Yết Kiêu đã xin tiên phong đi đánh giặc. Chàng chỉ xin vua nhà Trần cho mình vụ khí là một cái dùi sắt, một chiếc búa. Khi màn đêm buông xuống, Yết Kiêu vượt qua hàng lính bảo vệ thuyền giặc rồi nhẹ nhàng đục thuyền giặc. Mỗi thuyền chàng phải đục khoảng trên 20 lỗ, đục được lỗ nào lại phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút lút lại. Những cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Trong một đêm mà Yết Kiêu đục được khoảng 30 thuyền giặc. Đến gần sáng khi đục đủ số thuyền đã định, Yết Kiêu liền kéo dây khiến những nút giẻ trôi ra khỏi thuyền, khiến hàng chục thuyền giặc bị đắm. Hoàn thành nhiệm vụ, ông lại nhẹ nhàng bơi về địa điểm an toàn. Có lần, Yết Kiêu bị vây bắt ở bãi sông. Khi bị chúng tra khảo, Yết Kiêu cũng không hề nao núng mà thông minh đối đáp rằng nước Nam còn rất nhiều người có tài lặn giỏi khiến quân địch vô cùng sợ hãi. Bị giặc dụ dỗ, ông lừa chúng mất cảnh giác để nhảy xuống sông và trốn thoát.

Tài năng, trí thông minh, sự dũng cảm không sợ hiểm nguy của Yết Kiêu khiến em cảm phục, yêu mến.

3.3. Kể về anh hùng chống ngoại xâm Quang Trung

Vua Quang Trung đại phá quân Thanh
Vua Quang Trung đại phá quân Thanh

Là một học sinh, em đã được học, được nghe kể về nhiều người anh hùng dân tộc, như Trần Hưng Đạo, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi… Trong đó, em kính phục tài trí, tấm lòng của người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ dành cho đất nước nhất. Bà em từng đọc những vần thơ về Người:

“ Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối”
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”

( “ Bính Ngô đại cáo”- Nguyễn Trãi)

Người anh hùng tướng mạo phi phàm vì mến nghĩa mà dựng cờ dấy binh ở núi Lam Sơn hoang dã. Khi nghĩa quân nổi dậy là lúc thế giặc đang mạnh. Sự chênh lệch giữa ta và địch họa thay hiền tài khuất bóng, nghĩa quân bao lần bị kẻ thù bao vây: quân không một bóng, lương hết một tuần,…mọi khó khăn không thể quật ngã ý chí quyết tâm của người anh hùng ấy.Nguyễn Huệ là linh hồn của cả nghĩa quân. Nhuệ khí nghĩa quân tăng lên gấp bội khi Quang Trung lên ngôi hoàng đế, chiêu mộ người tài, sự chân thành, lòng ái quốc làm thu phục lòng người.

Sức mạnh của phụ tử nghi binh dưới sự lãnh đạo, tài thao lược xuất chúng giúp nghĩa quân chính nghĩa đánh đâu thắng đó. Quang Trung hoàng đế lần lượt thống nhất đất nước, tạo được những kỳ tích bởi thần tốc, xét suy cẩn trọng. Hoàng đế chấm dứt tình trạng Đàng Trong- Đàng Ngoài, đánh đuổi quân Xiêm La trong trận Rạch Gầm, đánh bại quân Thanh tàn bạo khỏi bờ cõi. Sau một loạt chiến thắng, người anh hùng còn đưa ra nhiều cải cách về giáo dục, chính trị, kinh tế nhưng sự ra đi đột ngột tạo nên mất mát lớn cho dân tộc.

Em tự hào khi đất nước ta có những người con ưu tú, tài ba như hoàng đế Quang Trung. Người còn là tấm gương sáng hậu thế noi theo.

3.4. Kể câu chuyện về nữ tướng Lê Chân

Ngày nay, du khách gần xa đến tham quan thành phố Hải Phòng sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng nữ tướng Lê Chân đặt tại dải vườn hoa Trung tâm nội đô. Tượng bằng đồng cao 6m vô cùng tráng lộ, kì vĩ. Thanh bảo kiếm bên mình, Lê Chân uy nghiêm hướng về biển Đông với cặp mắt sáng ngời đầy uy dũng.

Sử sách còn ghi rõ: Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức nổi tiếng khắp vùng. Bà quê ở làng An Biên (tục gọi là làng vẻn) thuộc phủ Kinh Môn, nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh.

Năm 16 tuổi, Lê Chân nổi tiếng tài sắc, giỏi võ nghệ, có chí lớn phi thường. Thái thú Giao Chỉ lúc ấy là một tên cực kì tham tàn, bạo ngược. Không ép được bà làm tì thiếp, hắn đã khép ông Lê Đạo vào tội phản nghịch đem giết đi! Lê Chân phải trốn về vùng ven biển An Dương nung nấu mối thù nhà nợ nước, quyết không đội trời chung với giặc Hán xâm lược.

Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, cùng với bao anh hùng nữ kiệt khắp nơi nổi dậy hưởng ứng, Lê Chân chỉ huy đội nghĩa binh làng An Biên tiến về Luy Lâu vây đánh quân Đông Hán. Lửa cháy rực trời, ngựa hí quân reo, chiêng trống dậy đất của nghĩa quân làm cho bọn giặc bạt vía kinh hồn. Chính quyền đô hộ tan vỡ, sụp đổ tan tành; Thái thú Tô Định vội bỏ thành trì, ấn tín, cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về phương Bắc. Đó là giữa tháng 3 năm 40. Lê Chân chiêu mộ trai tráng, di dân lập ấp. Một vùng duyên hải dọc ngang trấn giữ được đặt tên là An Biên, đúng như tên quê cha đất tổ của bà. Nghề nông trang, nghề chài lưới đánh cá, đóng thuyền ngày một phát triển. Lương thảo được tích trữ, cung tên giáo mác được tập rèn, chỉ mấy năm sau, Lê Chân đã có hàng nghìn dũng sĩ chờ đợi thời cơ, mưu đồ đại sự.

Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, 65 thành trì được giải phóng, Hai Bà lên làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Nước ta giành được độc lập.

Gần một trăm anh hùng nữ tướng được phong thưởng, được giao nhiều trọng trách. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng giữ mặt bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân phòng vệ mặt nam, nữ tướng Lê Chân được phong 'Chưởng quản binh quyền nội bộ" đóng bản doanh ở Giao Chỉ, v.v..

Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện mang đại binh sang xâm lược nước ta. Bà Trưng cùng các chiến tướng đem quân ra cự địch. Nhiều trận đánh lớn đã diễn ra ở Lãng Bạc, cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5-43, Hai Bà Trưng thất thế phải gieo minh xuống sông Hát Giang tự tận. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã anh dũng hi sinh. Nữ tướng Lê Chân đã lấp suối, ngăn sông, chẹn đánh quyết liệt thủy binh giặc. Mãi đến cuối năm 43, Lê Chân anh dũng hi sinh tại chiến trường vùng Lạt Sơn, Kim Bảng (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay) nêu cao khí phách anh hùng của người phụ nữ Việt Nam.

Để ghi nhớ công ơn to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân An Biên đã lập đền thờ gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử cổ kính, trang nghiêm của thành phố Cửa Biển.

3.5. Kể chuyện về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh. Rất nhiều vị anh hùng đã góp phần làm nên lịch sử của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, nên từ nhỏ đã được giáo dục về lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương, đất nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao cho nắm giữ trọng trách quan trọng. Chuyện kể rằng cuối năm 1954, Ban Thường vụ T.Ư quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trước khi ra mặt trận, Bác Hồ có hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gì trở ngại?”. Đại tướng trả lời: “Thưa Bác, chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề gì quan trọng, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị!”. Bác bảo: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh!”.

Nhờ có sự tin tưởng tuyệt đối của Bác Hồ đã củng cố quyết tâm thực hiện phương châm tác chiến phải “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng. Kết quả là chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi vẻ vang.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời để thế hệ sau noi theo.

3.6. Kể chuyện về người anh hùng Thánh Gióng

Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân của nước ta
Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân của nước ta

Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có con. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.

Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.

Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xông thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.

Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẩn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.

Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.

3.7. Kể chuyện về ông trạng Nguyễn Hiền

Trong những truyện đã đọc ở tiểu học, tôi thích nhân vật Nguyễn Hiền trong câu chuyện Ồng Trạng thả diều, tôi kể các bạn nghe nhé!

"Ngày xưa, có một gia đình nghèo sinh ra một chú bé tên là Nguyễn Hiền.

Từ bé, chú đã biết tự dán lấy diều để chơi. Chú thích chơi diều đến nỗi người làng bảo chú là sinh ra với cánh diều.

Năm lên sáu tuổi, chú được bố mẹ cho theo học một ông thầy ở trong làng. Chú có một trí nhớ khác thường. Nghe giảng bài đến dâu chú nhớ và thuộc ngay đến đấy. Một hôm, thầy kinh ngạc thấy chú học thuộc mỗi ngày những hai mươi trang sách mà chú vẫn có thì giờ thả diều.

Được ít lâu, gia đình quá túng thiếu, chú đành phải thôi học, ở nhà giúp đỡ bố mẹ.

Từ đó, ngày nào chú cũng dậy sớm, làm hết công việc trong nhà rồi tranh thủ đi cắt cỏ, cho trâu ăn no, để kịp giờ đến lớp học ở trường làng nghe nhờ. Bất cứ trời mưa nắng thế nào, thầy giáo cũng thấy một chú bé chặn trâu đứng ngoài cửa lớp chăm chú nghe giảng.

Ban ngày thì thế, tôi đến dọn dẹp xong việc nhà, chú tìm đến nhà bạn, đợi bạn học thuộc bài rồi mượn sách để học. Những đêm không trăng, người, ta thấy chú cầm đèn soi từng dòng chữ. Đèn của chú, chú tự làm lấy bằng chiếc vỏ trứng gà và mấy con đom đóm.

Ngoài cuốn vở học bằng mảnh lá chuôi phơi khô, chú còn rất nhiều vở tập viết khác, lúc là lưng trâu, lúc là nền tro, nền cát san bằng. Bút của chú cũng chỉ là ngón tay, chiếc que hay mảnh gạch vỡ.

Mỗi khi có kì thi ở trường, chú cũng làm bài và nhờ bạn nộp xin thầy chấm. Bài của chú viết trên lá chuối khô, xem xong thầy sửng sốt thấy chữ chú đã đẹp, văn chú lại hay, vượt xa tất cả những học trò của thầy.

Bận làm, bận học như thế, nhưng trên bầu trời quê hương chú, luôn có cánh diều của chú thả. Chú tìm nhựa cây, nhựa sung phết cánh diều rất khéo, luộc tre nối dây rất chắc, cho nên diều của chú vừa to, vừa bay cao. Đặc biệt chú khoét sáo rất khéo nên tiếng sáo diều của chú vừa trong trẻo vừa véo von trầm bổng.

Tiếng tăm chú bé học giỏi được đồn đại ngày một xa. Tuy thế, mọi người vẫn rất ngạc nhiên khi được tin trong một khoa thi, chú đỗ Trạng Nguyên.

Năm đó ông trạng Nguyễn Hiền - chú bé nổi tiếng ham học mà mê thả diều mới mười ba tuổi."

Câu chuyện Ông trạng thả diều nhằm ca ngợi một danh nhân ở nước ta đó là ông Nguyễn Hiền, người học giỏi, biết cách vui chơi, mới mười ba tuổi đã đỗ Trạng Nguyên (đời Trần Nhân Tông).

3.8. Kể về nữ anh hùng chống ngoại xâm Hai Bà Trưng

Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dưới sự xâm lược của triều đại phong kiến phương Bắc. Nhiều vị anh hùng đã đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù. Trong đó em ngưỡng mộ nhất là Hai Bà Trưng. Hai bà là hai chị em ruột, người chị tên là Trưng Trắc, người em tên là Trưng Nhị. Hai bà quê ở huyện Mê Linh, từ nhỏ đã nổi tiếng là hai người con gái tài giỏi. Cha hai bà mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ. Thuở ấy, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Chúng đàn áp dân lành hết sức tàn bạo. Chúng thẳng tay chém giết dân ta, cướp hết ruộng đất của dân. Nhân dân ta mang lòng oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp để vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng mang trong mình chí hướng giành lại non sông. Quan Thái thú của giặc là Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Khi nghe tin chồng bị giặc giết chết, Bà Trưng Trắc đã cùng với em gái mình là Trưng Nhị lãnh đạo nghĩa quân đến thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Đi đến đâu, tiếng trống đồng của quân ta dội vàng đất trời tới đó. Cuối cùng, thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới đoàn quân khởi nghĩa. Tướng giặc sợ hãi, ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Em rất ngưỡng mộ Hai Bà Trưng.

3.9. Kể về người anh hùng Trần Quốc Toản

Đất nước Việt Nam có rất nhiều vị anh hùng nổi tiếng. Nhưng em cảm thấy ngưỡng mộ và khâm phục nhất là Trần Quốc Toản.

Vốn là dòng dõi con nhà võ, từ thuở nhỏ Trần Quốc Toản đã làu thông sử sách và rất giỏi võ công mưu lược. Năm Trần Quốc Toản 15 tuổi, vua Trần triệu tập “Hội nghị Bình Than” - (Nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), gồm toàn thể các quan đại thần và các tướng lĩnh để bàn kế đánh giặc Nguyên Mông. Vì tuổi còn nhỏ nên Trần Quốc Toản đến nhưng vua không cho vào dự họp bàn lại còn an ủi ban thưởng cho một quả cam... Trần Quốc Toản lấy làm xấu hổ, nghĩ vua vẫn coi mình như là con nít. Rồi với lòng buồn tủi và căm thù giặc uất nghẹn trào lên, cậu bé Quốc Toản đã bóp nát quả cam trong tay mình lúc nào mà không hay biết!

Trở về, Trần Quốc Toản “bí mật” huy động gia nô tùy tùng, bạn bè thân hữu (đa phần là tuổi thiếu niên) khoảng hơn nghìn người, tổ chức đúc rèn binh khí, đóng chiến thuyền và dựng một lá cờ to thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo Hoàng ân” để chờ ngày xuất binh.

Đầu năm 1285, giặc Nguyên Mông ồ ạt kéo sang xâm lược nước Nam. Trần Quốc Toản chỉ huy “đội quân thiếu niên” của mình, sát cánh với đội quân của thượng tướng Trần Quang Khải “đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy đều phải tránh lại, không kẻ nào dám đối địch”... Đến tháng 6 năm đó, giặc Nguyên Mông bị quân dân ta căng ra đánh ở khắp nơi khiến cho chúng hao tổn lực lượng và thất bại liên tiếp. Thừa thắng, Hoài văn hầu Trần Quốc Toản cùng với tướng quân Nguyễn Khoái đem binh đi chặn đón đánh giặc ở Tây Kết. Trận này giặc thua to, tan rã ra từng mảng, tìm đường tháo chạy về nước. Khi giặc Nguyên Mông rút chạy đến sông Như Nguyệt (đoạn ở Thị Cầu bây giờ) vua Trần Thánh Tông đã sai Hoài văn hầu Trần Quốc Toản đến chặn đánh. Trận đánh ấy diễn ra rất căng thẳng gay go. Bọn giặc tuy bị thua chạy nhưng chúng chống trả rất quyết liệt! Và... Hoài văn hầu Trần Quốc Toản đã anh dũng hy sinh trong trận đánh này lúc vừa tròn 18 tuổi. Đó là vào trung tuần tháng 6 năm Ất Dậu (1285). Được tin, vua Trần Thánh Tông vô cùng thương xót, tự mình làm văn tế lễ và truy phong tước vương để ghi nhận công lao đánh giặc.

Hoài đức vương Trần Bà Liệt (bố đẻ của Trần Quốc Toản) khi qua đời, thi hài được mang về an táng tại quê mẹ ở làng Sặt nay là khu phố Trang Liệt (tức trang trại của Trần Bà Liệt). Nơi đây còn khu ruộng diện tích gồm 41 mẫu Bắc bộ trước kia có ghi ở trong “địa bạ” mà người dân địa phương vẫn thường gọi là “Trần triều sơn lăng”. Khu đồng này trong hương ước làng đã quy định: Chỉ dành riêng để trồng cây Lim lấy gỗ phục vụ cho việc tu sửa và kiến thiết xây dựng đình, đền, chùa. Nên từ xa xưa mới có tên gọi là “Rừng Sặt”, “Làng Sặt”... Đình làng Trang Liệt phụng thờ thượng tướng quân Trần Quang Khải với bài thơ nổi tiếng của ông được làm sơn mài rất trang trọng tôn nghiêm:

“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san”

Dịch nghĩa:

Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước mãi ngàn thu!

3.10. Kể về một danh nhân nổi tiếng "Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi

Một trong những câu chuyện về danh nhân Việt Nam nổi tiếng thế giới mà em rất ngưỡng mộ và tự hào, chính là “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi.

Câu chuyện có tựa đề chính là danh xưng mà người dân đặt cho Bạch Thai Bưởi. Ông vốn mồ côi cha từ nhỏ, phải theo mẹ đi bán hàng rong ở khắp nơi. Lớn thêm một chút nữa, ông được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học. Với trí thông minh và sự chăm chỉ của mình, Bạch Thái Bưởi trở thành thư kí cho một hãng buôn năm 21 tuổi. Sau một thơi gian học tập, ông đã tách ra tự mình kinh doạn, trải đủ mọi nghề. Có lúc, ông thất bại đến trắng tay, nhưng chưa bao giờ thoái chí, bỏ cuộc. Bằng sự nhanh nhạy hơn người, Bạch Thái Bưởi đã tìm ra một hướng đi mới cho mình, đó là thành lập một công ty vận tải đường thủy. Ông đã khéo léo gợi lên tinh thần dân tộc bằng tấm băng rôn có dòng chữ “Người ta thì đi tàu ta” trên thân các con tàu. Nhờ vậy, với sự ủng hộ của người dân và tài kinh doanh của mình, công ty của Bạch Thái Bưởi ngày càng lớn mạnh. Đến mức nhiều chủ tàu người Hoa, người Pháp phải bán lại tàu cho ông. Lúc thịnh vượng nhất, Bạch Thái Bưởi sở hữu tới ba mươi chiếc tàu lớn nhỏ. Và được người đời gọi là “Vua tàu thủy” - một bậc anh hùng kinh tế.

Đọc câu chuyện về danh nhân Bạch Thái Bưởi, em rất ngưỡng mộ sự kiên trì, thông minh và nhạy bén với thời cuộc của ông. Cùng với đó là sự tự hào khi đất nước ta có một danh nhân nổi tiếng như ông.

Mời các em học sinh truy cập group Bạn Đã Học Bài Chưa? để đặt câu hỏi và chia sẻ những kiến thức học tập chất lượng nhé. Group là cơ hội để các bạn học sinh trên mọi miền đất nước cùng giao lưu, trao đổi học tập, kết bạn, hướng dẫn nhau kinh nghiệm học,...

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên nhóm Tiếng Việt 5 - Lớp 5 chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
50 11.165
0 Bình luận
Sắp xếp theo