Phân tích bài thơ Vịnh cây vông

Vịnh cây vông là một bài thơ của tác giả Nguyễn Công Trứ. Bài thơ đã mượn hình ảnh cây vông mang ý nghĩa biểu tượng, là hình ảnh ẩn dụ cho Quan lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng. Đó là bộ máy quan lại bất tài, vô dụng. Sau đây là một số thông tin tìm hiểu về tác phẩm Vịnh cây vông cùng với dàn ý phân tích bài thơ Vịnh cây vông, mời các bạn cùng tham khảo.

Phân tích bài Vịnh cây vông

1. Tác giả tác phẩm Vịnh cây vông

1. Tác giả

- Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một phong cách phóng khoáng, ngang tàng, tự do tự tại.

2. Tác phẩm

Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.

Đối tượng của tiếng cười trào phúng trong Vịnh cây vông

- Quan lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840).

- Cùng, thông, đắc, táng, bỉ thương mặc phó kì quyền.

Nghĩa là: Cùng,thông, thua, được, trời xanh giao phó quyền hành.

Câu này cũng có chữ “quyền” ở sau cùng, và cũng để thách thức Hà Tôn Quyền đối lại, nhưng Nguyễn Công Trứ còn có thâm ý nói rằng Hà Tôn Quyền khéo nịnh nên mới được nhà vua giao phó cho quyền hành.

Nhân có con vừa thi đậu Cử nhân, Hà Tôn Quyền mở tiệc ăn mừng, có mời cả Nguyễn Công Trứ cùng dự. Giữa bữa tiệc, mượn hơi rượu, Hà Tôn Quyền chỉ ra cây vông đang nở hoa ngoài sân, ra một đề thơ “Vịnh cây vông” yêu cầu các quan khách cùng vịnh chơi, tất nhiên người mà ông chủ nhắm vào đầu tiên là Cụ Trứ. Để bắt bí, ông ta lại hạn bài thơ phải lấy vần “ông/bông”.

Trong số quan khách không thiếu những người hay chữ, nhiều người đã tham gia cuộc chơi, nhưng rốt cuộc bài của Nguyễn Công Trứ được mọi người công nhận là hay nhất.

Hai câu luận 5 và câu 6 chỉ rõ Hà Tôn Quyền không phải là lương đống quốc gia mà chỉ là hạng người nương tựa uy thế nhà vua mà thôi. Nhưng đặc biệt nặng đòn và hợp cảnh là hai câu kết “Đã biết nòi nào thì giống nấy / Khen cho rứa cũng trổ ra bông!”

2. Lập dàn ý bài Vịnh cây vông

A. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ mượn hình ảnh cây vông để tạo ra một hình ảnh biểu tượng và từ đó châm biếm, đả kích bộ máy quan lại trong triều đình. Bài thơ “Vịnh cây vông” không chỉ đơn thuần là sự khen ngợi cây vông mà thực chất là một biểu tượng sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa ẩn.

B. Thân bài

- Tác phẩm tương truyền bài này làm để nhạo quan Lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840), trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu.

- Hai câu đề:

+ Đặt vấn đề về giá trị kém cỏi của cây vông so với những loài cây khác như biển, nam, khởi, tử. Cây vông được miêu tả là to lớn nhưng gỗ của nó lại xốp và mềm yếu. Trong khi đó, biển, nam, khởi, tử đều là những loài cây gỗ tốt. Cho thấy sự kém cỏi của cây vông.

- Hai câu thực:

+ Nói về công việc rào và giậu đây là một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo người làm phải có tài năng và trách nhiệm với công việc đó.

+ Vì tính tài năng và trách nhiệm với công việc mà tác giả nhắc khéo những người làm việc đó không nên tự cao, tự phụ.

- Hai câu luận:

+ Tuổi tác càng già, già xốp xáp, ruột gan không có, có gai chông cho thấy sự yếu đuối và bất lực của họ. Tác giả cũng ám chỉ rằng họ không đáng kể, và việc họ làm không mang lại giá trị nhiều cho xã hội.

- Hai câu kết:

+ Bản chất của người làm rào và giậu và cây vông đều kém giá trị và bất tài.

+ Việc khen ngợi họ là không đúng, vì họ không xứng đáng được khen ngợi.

C. Kết bài

-  Đánh giá chung.

3. Phân tích bài thơ Vịnh cây vông

Nguyễn Công Trứ là nhà thơ tiêu biểu trong nền văn học  trung đại Việt Nam. Thơ văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Các bài thơ của ông thường tập trung vào 3 đề tài chính bao gồm chí nam nhi, nhân tình thế thái hay triết lí hưởng lạc. Trong các  tác phẩm của ông, bài thơ Vịnh cây vông là một bài thơ mang tính trào phúng châm biếm hay đặc sắc. Mượn hình ảnh cây vông, Nguyễn Công Trứ đã phê  phán những con người không có giá trị thực sự trong xã hội.

Hai câu thơ đề giới thiệu về loài cây vông và tương quan giá trị giữa cây vông với một số loài cây khác.

Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,

Cao lớn làm chi những thứ vông.

“Biển, nam, khởi, tử” là bốn loài cây gỗ quý, có giá trị cao đối với con người. Bên cạnh đó, vông một loại cây to lớn nhưng gỗ xốp, mềm, cao lớn nhanh nhưng dễ bị mối, mọt, chịu lực kém, thuộc loại ngô đồng. Cây vông về hình thức giống với bốn loại cây được nêu ở câu thơ đầu tuy nhiên so về công dụng thì cây vông kém hẳn về giá trị. Chính vì thế, Nguyễn Công Trứ đã dùng cụm từ “chẳng vun trồng” để nhắc tới biền, nam, khởi, tử trong khi lại dùng “những thứ vông” để nói về cây vông. Phép đảo ngữ “ cao lớn làm chi – những thứ vông” nhấn mạnh thái độ chê bai, xem thường của tác giả đối với loài cây này, đồng thời mỉa mai người trồng không biết chọn loại cây quý, có giá trị để nuôi dưỡng.

Tuổi tác càng già, già xốp xáp,

Ruột gan không có, có gai chông.

Nếu hai câu đề giới thiệu cây vông thì hai câu thực tập trung miêu tả đặc điểm của cây. Theo lẽ thường, các loài cây gỗ càng nhiều năm tuổi càng có giá trị cao tuy nhiên cây vông lại trái ngược. Phép đối “tuổi tác càng già - già xốp xáp”; Ruột gan không có - có gai chông” nhấn mạnh đặc tính xốp, mềm, chịu lực kém của cây vông. Từ láy “xốp xáp” gợi sự xốp rỗng, yếu ớt của thân cây, không những không có sức chịu đựng tốt còn đầy rẫy gai nhọn, gây hại cho con người. Hai câu thơ gợi liên tưởng đến quan lại họ Hà mục ruỗng, rỗng tuếch, vừa không có đạo đức, không làm đúng bổn phận của mình vừa tàn ác, bóc lột dân nghèo.

Ra tài lương đống không nên mặt,

Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.

Nguyễn Công Trứ đã lấy công dụng ít ỏi của cây vông để ví với vai trò bộ máy quan lại Hà Tôn Quyền ở hai câu luận. Trong khi các loại cây: biển, nam, khởi, tử được dùng làm cột trụ, bệ chống chắc chắn thì với đặc điểm “xốp xáp” của cây vông thì chỉ có thể làm bờ rào, phên giậu. Cũng như quan lại họ Hà, mặc dù Mang danh “lương đống”, trụ cột triều đình nhưng không làm tròn nhiệm vụ, chỉ biết dựa vào chống lưng, quyền lực để duy trì chế độ cai trị của mình. Tác giả sử dụng từ “lương đống, phiên ly” thay vì dùng rường cột, phên giậu khi nói về tác dụng của cây vông bởi hai từ Hán Việt mang sắc thái nghiêm trang, trang trọng trong khi các từ “không nên mặt, chút nỡ lòng ” lại mang nghĩa phủ định, đánh giá thấp. Sự tương phản, đối lập này càng làm cho câu thơ mang tính châm biếm, đả kích sâu hơn.

Đã biết nòi nào thì giống nấy,

Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

Hai câu kết là lời chê bai, khinh rẻ, xem thường của tác giả đối với cây vông hay trực tiếp là cha con nhà họ Hà. “Nòi nào thì giống nấy – cũng trổ ra bông” - vừa chế giễu giống cây kém giá trị nhưng vẫn trổ bông phát triển mạnh mẽ, vừa mỉa mai hai cha con nhà họ Hà nòi nào giống nấy vô dụng nhưng mới có chút khen ngợi đã hãnh diện, ngày càng duy trì cường quyền. Mặc dù “khen” nhưng thực chất là sự chê bai, khinh thường. Trong hoàn cảnh bấy giờ không thể trực tiếp đứng ra vạch trần sự vô dụng, xấu xa của bọn quan lại, Nguyễn Công Trứ đã gián tiếp mượn hình ảnh cây vông để thể hiện sự phẫn nộ, khinh bỉ của tác giả và của nhân dân đối với quan lại chỉ biết dựa vào chống lưng làm càn.

Bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với niêm, luật chặt chẽ, vận dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo tạo sự đa nghĩa, có sự kết hợp với ngôn ngữ Hán Việt, giọng thơ châm biếm, mỉa mai... Nguyễn Công Trứ đã chỉ trích thực trạng hàng ngũ quan lại vô tài vô đức cũng như việc dùng người mù quãng của triều đình nhà Nguyễn.

4. Phân tích bài thơ Vịnh cây vông ngắn gọn

Bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm nghệ thuật mang tính chất trào phúng, được viết dưới hình thức vịnh câu đối. Bài thơ miêu tả về cây vông và sử dụng cây vông như một biểu tượng để phê phán những người không có giá trị thực sự trong xã hội.

Trong bài thơ, tác giả miêu tả cây vông như một loại cây không đáng để trồng và chăm sóc. Cây vông cao lớn nhưng không có giá trị, khi già trở nên xốp xáp và không còn ruột gan, chỉ còn lại gai chông. Tác giả cũng phê phán những người ra tài nhưng không đáng để ngưỡng mộ, chỉ dựa vào chốn phiên ly để đỡ lòng. Bài thơ cũng nhấn mạnh rằng, mỗi người sinh ra đã có nòi nào thì giống nấy, không thể thay đổi được. Ngay cả khi khen ngợi cho những người như cây vông, cũng chỉ là trổ ra những bông hoa không có ý nghĩa thực sự. Từ ngôn ngữ và hình ảnh trong bài thơ, tác giả sử dụng những từ ngữ tươi sáng, tươi vui để miêu tả cây vông và những người không đáng để ngưỡng mộ. Tuy nhiên, qua sự tương phản giữa sự tươi vui của cây vông và sự tàn phá của thời gian, tác giả cũng biểu đạt tâm trạng và tình cảm của người thơ. Từ bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy ý nghĩa về sự tàn phá của thời gian và sự đổi thay của cuộc sống. Bài thơ cũng nhắc nhở chúng ta không nên chỉ nhìn vào bề ngoài mà quan trọng hơn là giá trị thực sự của mỗi người và mỗi vật.

Tóm lại, bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm trào phúng, phê phán những người không có giá trị thực sự trong xã hội. Từ bài thơ, chúng ta có thể rút ra được ý nghĩa về sự tàn phá của thời gian và sự đổi thay của cuộc sống.

5. Phân tích bài Vịnh cây vông lớp 8

"Bài Vịnh Cây Vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm văn xuôi nổi tiếng thuộc thể loại quan ngôn, viết vào thế kỷ XVII, thời kỳ phong kiến Việt Nam. Tác phẩm này không chỉ là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam mà còn là biểu tượng của sự tài năng và tầm vóc của Nguyễn Công Trứ - một nhà văn, nhà thơ, và quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam.

Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,
Cao lớn làm chi những thứ vông.

Bài thơ được viết với sự sáng tạo trong mô tả về cảnh thiên nhiên, đặc biệt là hình ảnh của cây Vông. Cây Vông trong bài thơ không chỉ là một đối tượng mô tả mà còn là biểu tượng của sức sống, lòng kiên nhẫn và sự mạnh mẽ. Hình ảnh cây Vông được tô điểm bằng những từ ngữ tinh tế, tạo nên bức tranh sống động và sâu sắc về vẻ đẹp tự nhiên.

Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông.

Nguyễn Công Trứ biểu hiện tâm trạng của mình qua từng câu thơ, những nỗi niềm, lo lắng và hy vọng của ông hiện rõ trong từng dòng chữ. Bài thơ không chỉ là nơi Nguyễn Công Trứ diễn đạt những suy nghĩ cá nhân mà còn là một cách ông kết nối với độc giả, chia sẻ những cảm xúc tinh tế và sâu sắc về cuộc sống và tình người.

Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.

Bài thơ Vịnh Cây Vông chứa đựng sự chân thành và triết lý của Nguyễn Công Trứ. Những câu thơ lôi cuốn người đọc không chỉ bởi vẻ đẹp ngôn ngữ mà còn bởi sự chân thành, chân thật của tác giả. Nguyễn Công Trứ không ngần ngại thể hiện quan điểm cá nhân và triết lý sống qua từng dòng thơ, tạo nên một tác phẩm văn học độc đáo và đầy ảnh hưởng.

Đã biết nòi nào thì giống nấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

Câu thơ mang tính chất tự do, chủ thể của nó có vẻ là tác giả đang phát ngôn, đưa ra quan điểm của mình.Từ "Đã biết nòi nào thì giống nấy" thể hiện quan điểm về tính chất di truyền, ám chỉ rằng con người thường kế thừa những đặc tính từ bậc cha mẹ hoặc tổ tiên.Tác giả sử dụng ngôn từ dân dụ và gần gũi với đời sống hàng ngày. "Nòi" ở đây có thể hiểu là dòng họ, gia tộc. Việc sử dụng "giống nấy" nhấn mạnh sự đồng nhất, giống hệt, không thay đổi. Câu thơ mang yếu tố hài hước và mỉa mai. Tác giả có thể đang muốn nhấn mạnh sự hiển nhiên, không cần thiết phải khen ngợi về những điều đương nhiên, những đặc tính di truyền. Hình ảnh này có thể được hiểu như việc khen ngợi là không cần thiết, giống như việc khen ngợi cho một thứ gì đó đã rất quen thuộc và tự nhiên, giống như việc hoa bông tự mọc trổ ra mà không cần sự giúp đỡ hay đánh giá từ bên ngoài. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sáng tạo, với hình ảnh sinh động và ngôn từ giản dị nhưng mang đầy ý nghĩa.

Bài thơ không chỉ là một sáng tác văn học nổi bật mà còn là một phản ánh của tâm hồn dân tộc Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Nó là một tài liệu quý giá giúp hiểu rõ hơn về tư duy, tình cảm, và tri thức của người Việt Nam thời đó. "Bài Vịnh Cây Vông" của Nguyễn Công Trứ là một kiệt tác văn học kết hợp giữa tài năng sáng tác và sự tri thức sâu rộng của tác giả. Bài thơ này không chỉ làm giàu thêm di sản văn hóa Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thế hệ về sau.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
41 13.046
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm