Phân tích Nam quốc sơn hà lớp 8

Nam quốc sơn hà là một bài thơ được sáng tác khoảng năm 1077 trong cuộc kháng chiến chống Tống do Lí Thường Kiệt chỉ huy dưới thời vua Lí Nhân Tông. Là bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Tác phẩm Nam quốc sơn hà đã gắn liền với tên tuổi của Lí Thường Kiệt và trận chiến chống quân Tống xâm lược ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Sau đây là dàn ý phân tích Nam quốc sơn hà kèm theo các bài văn mẫu phân tích tác phẩm Nam quốc sơn hà hay và chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

1. Dàn ý phân tích Nam quốc sơn hà lớp 8

Dàn ý phân tích Nam quốc sơn hà lớp 8

2. Phân tích Nam quốc sơn hà học sinh giỏi

Chủ quyền dân tộc là vấn đề không chỉ được quan tâm ở mảng chính luận mà còn là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả. Cùng với dòng chảy của lịch sử, biết bao tác phẩm chứa đậm tình yêu đất nước đã ra đời và sống mãi đến ngày nay. Trong đó, “Nam quốc sơn hà” là áng thơ bất hủ của văn học Việt Nam. Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà, ta sẽ thấy được niềm tự hào, tự tôn dân tộc lớn lao của dân tộc.

Phân tích bài thơ “Nam quốc sơn hà” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, tác giả thực sự của bài thơ vẫn chưa được làm rõ, nhưng theo những tư liệu xưa, bài thơ được xem là do Lý Thường Kiệt sáng tác. Bài thơ được xem là “thơ thần” bởi lẽ nó không chỉ khẳng định được vấn đề về chủ quyền lãnh thổ, nền độc lập của nước ta, mà còn thể hiện được tính thần lực, lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ của vị chủ tướng tài ba Lý Thường Kiệt cũng như những người dân Việt Nam. Bài thơ cũng là lời tuyên bố, khẳng định đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm phạm vào lãnh thổ nước ta, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc Việt Nam anh hùng.

Theo giai thoại, trong cuộc chiến đấu chống quân Tống của quân dân Đại Việt, chủ tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát – hai vị thần của sông Như Nguyệt. Bài thơ thần đã vang lên vào thời điểm đêm khuya, lại được vọng ra hùng tráng, đanh thép từ một ngôi đền thiêng liêng. Vì thế đã làm cho quân Tống vô cùng khiếp sợ. Bọn chúng đã vô cùng hoảng loạn, lo lắng, nhuệ khí của quân giặc bị suy giảm một cách nhanh chóng. Cũng nhờ đó mà quân dân ta có thể tạo ra một chiến thắng lừng lẫy, oai hùng sau đó, tạo được tiếng vang làm biết bao đế chế phải khiếp sợ.

Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà phần mở đầu bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt. Đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt từ ngàn đời nay. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi “thiên thư” (sách trời) quy định. Tức sự độc lập, chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

Theo tác giả, sông núi nước Nam, bất cứ sự vật nào trên đất Nam đều là những vật thuộc quyền sở hữu của người Nam. Đây không chỉ là những hình ảnh biểu tượng cho ranh giới, chủ quyền của dân tộc Việt Nam mà còn khẳng định một cách chắc chắn quyền sở hữu của “sơn hà” ấy là của người Việt Nam. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ văn, vấn đề chủ quyền dân tộc được khẳng định. Và mặc dù là tác phẩm đầu tiên, lời thơ vẫn vang lên vô cùng mạnh mẽ, hào sảng. Dân tộc Việt Nam không chỉ là dân tộc có chủ quyền, có lãnh thổ mà dân tộc ấy còn có người đứng đầu, người quản lí, làm chủ người dân của quốc gia ấy. Đó chính là “Nam đế”. Tác giả cũng mạnh mẽ khẳng định vị thế của người đứng đầu đất nước. Không phải là vương, là chư hầu nhỏ bé mà là “đế”, là vị vua ngang hàng với bất cứ vị vua nào. Chủ quyền ấy, lãnh thổ cương vực ấy không phải do người Nam tự quyết định lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy chỉ sinh sống, làm ăn sinh hoạt từ rất lâu đời, do sự định phận của “sách trời”, đó là đấng cao quý vì vậy mọi sự quy định, chỉ dẫn của “trời” đều rất có giá trị, đều rất đáng trân trọng.

Hai từ “tiệt nhiên” (rành rành) là dùng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu mà ai cũng có thể nhận biết và phân biệt được. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả Lý Thường Kiệt đã đưa ra lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia. tác giả cũng khẳng định chủ quyền, quyền làm chủ của nhân dân Đại Việt với quốc gia, dân tộc mình. Hơn thế, tác giả còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục. Đó là sự thật mà không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Ngay từ những lời đầu tiên, bài thơ đã làm nổi bật sự hào hùng, mạnh mẽ và rất đỗi tự hào của tác giả về chủ quyền của dân tộc mình. Và hơn cả, đó cũng chính là niềm tự hào, tự tôn chung của cả dân tộc Việt Nam.

Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà từ sự khẳng định mạnh mẽ vấn đề chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh cáo đến kẻ thù. Chúng sẽ phải nhận những kết cục bi thảm nếu biết rõ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây ra những mất mát, đau thương cho nhân dân Đại Việt:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Sự thật hiển nhiên rằng, “Nam quốc sơn hà” là do người Nam ở, người Nam làm chủ. Thế nhưng lũ giặc lại không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng cố tình xâm phạm Đại Việt, cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của luật trời: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” hành động ngông cuồng, phi nghĩa. Hành động này của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những hình thức thích đáng nhất. Và ở trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng đã đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường đạo lí: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”(Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Với tất cả sức mạnh cũng như lòng tự tôn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy nhất, một kết quả không thể tránh khỏi. Bọn chúng không chỉ thua một cách ê chề, nhục nhã mà còn phải cúi đầu trước một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường, dũng cảm và kiên quyết chiến đấu cho độc lập, chủ quyền của dân tộc. Dù sau này có biết bao tác phẩm khác nói về chủ đề này, thì “Nam quốc sơn hà” vẫn là áng thơ bất hủ, sống mãi trong trái tim của người Việt Nam. Là niềm tự hào bất diệt của một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường.

Với giọng điệu hào sảng, lập luận sắc bén, chỉ với bốn câu thơ, tinh thần và ý chí của nhân dân Việt Nam hiện lên rất rõ ràng. Đó là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, là lời quyết tâm bảo vệ đất nước của người chủ tướng, cũng là đại diện cho hàng triệu triệu người dân. Qua bài thơ, lòng tự tôn dân tộc, tình yêu đất nước được thể hiện mạnh mẽ, đại diện cho truyền thống yêu nước ngàn đời của nhân dân ta. Bài thơ cũng là lời nhắn nhủ thế hệ sau phải trân trọng, gìn giữ gấm vóc non sông, xứng đáng với những gì cha ông đã đánh đổi và bảo vệ tới cùng.

3. Phân tích Nam quốc sơn hà siêu ngắn

Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt gắn liền với chiến thắng sông cầu năm 1076 của quân dân Đại Việt đánh bại giặc Tống xâm lược.

Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách Trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Hai câu thơ đầu nói về núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi Nam đế cư (vua Nam ở). Hai chữ Nam đế đối sánh với Bắc đế. Nam đế hùng cứ một phương chứ không phải chư hầu của Thiên triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao cho Đại Việt, cho nhân dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam đế, có kinh thành Thăng Long, có nền độc lập vững bền... Không những thế, núi sông nước Nam đã được định phận, đã được ghi rõ ở sách Trời, đã được sách Trời chia xứ sở, nghĩa là có lãnh thể riêng, biên giới, bờ cõi riêng.

Hai chữ sách Trời (thiên thư) trong câu thơ thứ hai gợi ra màu sắc thiêng liêng với bao niềm tin mãnh liệt trong lòng người. Vần thơ vang lên như một lời tuyên ngôn về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách Trời chia xứ sở.
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư).

Từ nhận thức và niềm tin ấy về sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt căm thù lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Chúng âm mưu biến sông núi nước Nam thành quận, huyện của Trung Quốc. Hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc dã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
(Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?)

Vị anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh cáo lũ giặc phương Bắc và chỉ rõ, chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã:

Chúng mày nhất định phải tan vỡ
(Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)

Hai câu 3, 4 với giọng thơ đanh thép hùng hồn dã thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta quyết tâm giáng trả quân Tống xâm lược những đòn chí mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng sông cầu – (sông Như Nguyệt) năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng hơn 20 vạn quân Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi.

Nam quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lăng. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi sức mạnh chiến đấu để bảo vệ đất nước Đại Việt. Với nội dung ấy, bài thơ Nam quốc sơn hà mang ý nghĩa lịch sử như một Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

4. Phân tích Nam quốc sơn hà hay

Dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống và lòng yêu nước từ bao đời. Truyền thống ấy đã đi vào biết bao bài ca, lời thơ một cách tự nhiên và bình dị như thế. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt cũng không nằm ngoài lẽ đó, tác phẩm đã ánh lên biết bao ý chí sắt son và lòng yêu lãnh thổ đất Việt thương yêu. “Nam quốc sơn hà” được viết vào những năm dân tộc ta chống quân Tống xâm lược và được xem như một bản tuyên ngôn độc lập sáng ngời tình thần yêu nước.

Trước hết, tinh thần ấy được thể hiện qua sự tự ý thức về chủ quyền của dân tộc ta. Đó là sự tự hào, lời khẳng định về chủ quyền, lãnh thổ của đất Nam, trời Nam:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở”

Một tuyên bố đinh ninh, chắc chắn về sông núi nước Nam chính là của vua Nam mà không phải của bất kì ai khác. Nếu ở phương Bắc có vua Bắc thì đất Nam cũng có vua Nam trị vì, hai phương hai lãnh thổ hai chủ quyền sánh ngang, không ai xâm phạm ai. Đất Nam là của vua Nam, của con dân nước Nam.

"Rành rành định phận tại sách trời"

Địa phận đã chia, Nam Bắc hai vùng trời, đó là lẽ tự nhiên, không ai có thể chối cãi được, không bất cứ thế lực hay quốc gia nào có thể phủ nhận điều đó. Tinh thần yêu nước ấy sáng ngời bởi lòng tự tôn dân tộc, một ý thức về chủ quyền của quốc gia độc lập. Từng ngọn cỏ, bờ đê, từng tấc đất, đồng ruộng,... đều là của nước Nam, không một ai, không một dân tộc nào có quyền được xâm phạm vào bờ ấy. Đó là sự thật được thiên định, thuận ý trời được lòng người, là cốt lõi của chủ quyền dân tộc.

Thứ hai, tinh thần yêu nước ấy còn thể hiện ở niềm tin vào chính nghĩa, vào chiến thắng tất yếu của trời Nam trước quân xâm lược. Niềm tin vào ý chí chiến đấu của dân tộc tất sẽ thắng quân phi nghĩa kia. Bọn giặc hoành hành ngang nhiên, bất chấp đạo lí, bất chấp cả ý trời.

" Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?”

Một câu hỏi như một lời nhắc nhở, cảnh cáo về hành động phi nghĩa. Đất Nam đang yên lành, nhân dân đang tự do, cớ sao lũ giặc lại bạo ngược sang chiếm lãnh thổ, một hành động toan tính, tàn ác, không được sự ủng hộ của bất kì ai. Xâm phạm vào đất của sông nước Nam là xâm phạm vào độc lập chủ quyền, vào lòng tự tôn của dân tộc luôn yêu chuộng hoà bình, đoàn kết và nhân ái. Là trái với lẽ tự nhiên, là đi ngược với ý trời. Nếu chúng vẫn cứ tiếp tục hành động tàn bạo như thế thì đó là tội ác không thể chấp nhận được, chắc chắn phải tự nhận, tự đem về mình thất bại thảm thương mà thôi:

"Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời"

Tội ác của quân xâm lược khiến "trời không dung, đất không tha", rồi lũ giặc ngạo mạn kia sẽ phải chịu khuất phục trước tình thần chiến đấu quật cường, trước sự đoàn kết và ý chí không gì lay chuyển nổi của nhân dân nước Nam mà thôi. Chính nghĩa mãi mãi sẽ luôn thắng gian tà, kẻ bại trận phải chấp nhận những đắng cay mà tội ác chúng gây ra. Đó là một niềm tin chiến thắng ngày mai cho đất nước, một sự tin tưởng mãnh liệt và thiết tha vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Đồng thời, đó còn là lời tuyên ngôn kêu gọi tinh thần anh dũng đấu tranh của nhân dân.

Có thể nói tinh thần yêu nước luôn được đề cao và là kim chỉ nam trong mọi cuộc chiến. Tinh thần ấy có khi không nhất thiết phải súng đạn, gươm giáo, đao to, búa lớn,… mà chỉ bằng những lời thơ, những trang văn đã trở thành những vũ khí sắc bén khơi dậy lòng yêu nước, khiến cho quân giặc phải hoảng sợ, lung lay. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng điệu hào hùng, lời lẽ đanh thép, hùng hồn, văn phong cô đọng súc tích, Lí Thường Kiệt đã viết nên một áng văn bất hủ, xứng danh đời đời. Tác phẩm mãi là bài học cho con cháu về lòng yêu Tổ quốc, đất nước hiện tại và mai sau.

5. Phân tích Nam quốc sơn hà ngắn gọn

Chủ quyền dân tộc luôn là một vấn đề nóng bỏng không chỉ của thời điểm hiện tại mà ngay cả trong những ngày quá khứ xa xưa. Sông núi nước Nam có thể coi là bản tuyên ngôn về độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Bài thơ thể hiện ý chí kiên cường và quyết tâm bảo về chủ quyền lãnh thổ của ông cha.

Về xuất xứ của bài Sông núi nước Nam có rất nhiều ghi chép khác nhau, nhưng chúng đều có điểm chung đó là: bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của dân tộc. Vì có nhiều giả thuyết khác nhau về sự ra đời của tác phẩm nên bài thơ thường được để khuyết danh. Sông núi nước Nam có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, mang hai nội dung lớn: khẳng định độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó. Hai câu đầu khẳng định độc lập dân tộc trên cở sở cương vực lãnh thổ và chủ quyền:

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Trước hết về chủ quyền, Đại Việt là đất nước có chủ quyền riêng, điều này được thể hiện rõ qua cụm từ “Nam đế cư”. Trong phần dịch thơ được dịch là “vua Nam ở”. Ở đây chúng ta cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đế và vua, vì đây là hai khái niệm rất khác nhau. Đế là duy nhất, toàn quyền, có quyền lực cao nhất; Vua thì có nhiều, phụ thuộc vào đế, quyền lực xếp sau đế. Bởi vậy, khi sử dụng chữ đế trong bài đã khẳng định mạnh mẽ quyền của vua Nam với nước Nam, đồng thời khi sử dụng “Nam đế” thì mới sánh ngang hàng với “Bắc đế”, độc lập và không phụ thuộc vào Bắc đế.

Về cương vực lãnh thổ, nước ta có cương vực riêng đã được quy định ở sách trời. Căn cứ vào thiên thư nước ta nằm ở phía nam núi Ngũ Lĩnh thuộc địa phận sao Dực và sao Chẩn. Dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền của đất nước rất phù hợp với tâm lí, niềm tin của con người ngày xưa (tin vào số phận, mệnh trời) bởi vậy càng có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. Đồng thời sách trời ở đây cũng tương ứng với chân lí khách quan, qua đó tác giả cũng ngầm khẳng định sự độc lập của đất nước ta là chân lí khách quan chứ không phải ý muốn chủ quan.

Hai câu sau khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trong hai câu thơ này tác giả sử dụng những từ ngữ mang ý nghĩa kinh miệt “nghịch lỗ” – lũ giặc làm điều trái ngược, để gọi những kẻ đi xâm lược. Ngoài ra để vạch trần tính chất phi nghĩa cuộc chiến tranh, tác giả còn đưa ra hình thức câu hỏi “như hà” (cớ sao). Bởi điều chúng làm là phi phĩa, đi ngược lại chân lí khách quan nên tất yếu sẽ chuốc lại bại vong. Câu thơ cuối vừa có tính chất khẳng định, vừa như là lời răn đe, cảnh báo trước hành động xâm lược của chúng: các người sẽ chuốc lấy bại vong hoàn toàn khi xâm lược Đại Việt.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc và cô đọng. Tác phẩm chỉ có 28 chữ nhưng lại ẩn chứa những tư tưởng và tình cảm lớn: khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc và nêu lên quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đó. Ngôn từ cô đọng, giàu sức gợi cảm: nam đế cư, nghịch lỗ, như hà,… Kết hợp hài hòa giữa biểu cảm và biểu ý: bài thơ thiên về nghị luận trình bày nhưng ẩn sâu bên trong là những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của tác giả. Giọng thơ trang trọng, hào hùng, đầy tự tin.

Bài thơ ngắn gọn, hàm súc mà chưa đựng những tư tưởng tình cảm lớn lao, cao đẹp. Văn bản là bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc ta về độc lập, chủ quyền của đất nước. Tác phẩm đã tạo niềm tin, sức mạnh chính nghĩa cho nhân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
28 18.902
0 Bình luận
Sắp xếp theo