Phân tích bài thơ Nguyên tiêu lớp 8 siêu hay

Phân tích bài thơ Nguyên tiêu là một trong những dạng bài viết thuộc đề bài Viết bài văn phân tích một bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật lớp 8. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến bạn đọc mẫu dàn ý phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng cùng với các bài văn mẫu phân tích bài thơ Rằm tháng giêng hay và chi tiết giúp các em nắm được cách phân tích bài thơ tứ tuyệt Đường luật.

Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng lớp 8

1. Dàn ý phân tích bài Rằm tháng Giêng

Mở bài

- Giới thiệu những nét chính về tác giả, tác phẩm, cảm nhận khái quát về giá trị tác phẩm:

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh – cái tên mà mỗi nhắc đến trong lòng mỗi chúng ta lại có những cảm xúc riêng. Bác không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu giàu lòng nhân ái mà Bác còn là nhà thơ, nhà văn lỗi lạc của dân tộc Việt Nam ta.

+ Trong thơ Bác, trăng luôn là đề tài bất tận để tạo nên vẻ đẹp riêng trong thơ Người.

+ Rằm tháng giêng là bài thơ ngập tràn ánh trăng như thế

- Nêu ý kiến chung về bài thơ: Qua bài thơ, ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên hoà quyện với tình yêu quê hương, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc

Thân bài

1. Giới thiệu khái quát về cảm hứng, đề tài, thể thơ:

- Rằm tháng giêng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật được viết bằng chữ Hán.

- Tác phẩm viết về đề tài thiên nhiên, cảm hứng sáng tác bài thơ bắt nguồn từ cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. - Bài thơ được viết năm 1948 xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ.

2. Phân tích đặc điểm về nội dung

- Hai câu thơ đầu mở ra khung cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu với không - thời gian ngập tràn sắc xuân:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

( Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

+ Trong thời điểm “rằm xuân”, mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm vạn vật trong đêm nguyên tiêu

+ Quê hương, đất nước bao trùm là một màu xanh bát ngát của xuân giang, dòng sông lúc này như được tiếp thêm thứ sức sống mới dưới không khí mát lành của mùa xuân và tiếp nối đó màu xanh của xuân thiên

+ Dưới ánh trăng, điệp từ "xuân" gợi hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống của mùa xuân : cây cối, sông nước, bầu trời, mây gió,... trong đêm rằm đầu năm .

+ Chỉ với một chữ “tiếp” mà câu thơ như bừng sáng, trở nên có hồn và sống động hơn

=> Cả dòng sông và bầu trời như đang nối liền với nhau tạo ra không gian bao la đến vô tận.
- Cảnh vừa có chiều cao của ánh trăng vừa có chiều rộng của sông nước " tiếp" giáp với bầu trời tạo ra không gian bao la vô tận

=> 2 câu thơ không tả mà giàu sức gợi hình ảnh, gợi màu sắc dù nó là bức tranh về cảnh khuya có 2 gam màu trắng và đen, sáng tối, người đọc thích thú khi hình dung cảnh đêm xuân đẹp bao nhiêu thì càng cảm phục cái tài thơ của Bác bấy nhiêu ...
b. Hai câu thơ cuối cho ta cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn con người trên nền thiên nhiên tuyệt diệu:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

( Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.)

+ Trên một chiếc thuyền nhỏ trôi lênh đênh giữa dòng sông, Bác đang cùng với những người chiến sĩ của mình bàn bạc việc nước

+ Hình ảnh “Yên ba thâm xứ” gợi lên không gian sông nước mênh mang, sâu thẳm mịt mù khói sóng được kết hợp với “đàm quân sự” đã hoàn toàn xóa đi nỗi sầu li hương, khoảnh khắc nhớ nhà của những tao nhân mặc khách khi nhắc đến “khói sóng” trong thơ xưa

=> Tình yêu thiên nhiên hòa lẫn tình yêu và trách nhiệm với quê hương, đất nước, ta đủ nhận ra được tinh thần trách nhiệm và mong muốn đất nước được độc lập có Bác lớn lao như thế nào.

+ Đêm đã khuya nhưng vầng trăng vẫn luôn dõi theo Bác, đợi Bác trở về, ánh sáng của trăng vẫn tràn ngập khắp nơi, trăng như đang đồng hành cùng với thi nhân

+ Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” thật đẹp và kì lạ, ánh trăng đang soi dòng nước hay ánh trăng đã rơi xuống mạn thuyền để cùng với thi nhân bạc bạc việc chung của đất nước.

+ Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết thưởng thức vẻ đẹp của trăng và chính người nghệ sĩ phải có tâm hồn giao hoà, lãng mạn thì mới có thể nhìn thấy trăng đang đồng hành với mình.

+ Chỉ sau khi bàn bạc việc nước xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất

=> Như vậy, chúng ta có thể thấy được một tâm hồn thi sĩ cao đẹp của Bác Hồ

3. Phân tích một số nét đặc sắc về nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang phong vị Đường thi đã dựng xây nên bức tranh thiên nhiên trong đêm trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp vừa cổ điển, lãng mạn lại vừa hiện đại, đồng thời đã làm nổi bật hình tượng Bác giao hoà giữa vẻ đẹp của người chiến sĩ với thi sĩ

- Biện pháp điệp ngữ và những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ngôn ngữ giàu nhạc điệu, gợi cảm cộng hưởng với phong cách thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, Bác đã vẽ nên bức tranh trăng trên sông nức tràn đầy sắc xuân.

- Qua đây, ta cũng nhận ra được tâm hồn yêu thiên nhiên và phong thái lahc quan của người chiến sĩ cộng sản.

Kết bài

- Khẳng định vị trí, ý nghĩa bài thơ:

+ Tóm lại, Rằm tháng giêng có thể được xem là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật đặc sắc, giàu ý nghĩa

+ Suy nghĩ bản thân: Bài thơ cho ta hình dung một cách cụ thể bức tranh đêm trăng trên sông nước thật đẹp, hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, phong thái ung dung, tự tại, lạc quan của vị cha già kính yêu của dân tộc…

2. Phân tích một tác phẩm thơ tứ tuyệt Đường luật - Nguyên tiêu

Chủ tịch Hồ Chí Minh – cái tên mà mỗi nhắc đến trong lòng mỗi chúng ta lại có những cảm xúc riêng. Bác không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu giàu lòng nhân ái mà Bác còn là nhà thơ, nhà văn lỗi lạc của dân tộc Việt Nam ta. Trong thơ Bác, trăng luôn là đề tài bất tận để tạo nên vẻ đẹp riêng trong thơ Người. Và Rằm tháng giêng là một bài thơ như vậy. Qua bài thơ, ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên hoà quyện với tình yêu quê hương, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Rằm tháng giêng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm viết về đề tài thiên nhiên, cảm hứng sáng tác bài thơ bắt nguồn từ cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được viết năm 1948 xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Thời gian và không gian trong 2 câu thơ đầu tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

( Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

Ánh trăng đêm rằm tháng giêng mang vẻ đẹp khác thường vì trời đất lúc này đang vào xuân. Trong đêm rằm, mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm lên vạn vật. Ánh trăng khiến cho cảnh vật mang vẻ đẹp thật hữu tình và ta có cảm giác như trăng chưa bao giờ đẹp và tròn như vậy. Quê hương, đất nước bao trùm là một màu xanh bát ngát của xuân giang, dòng sông lúc này như được tiếp thêm thứ sức sống mới dưới không khí mát lành của mùa xuân và tiếp nối đó màu xanh của xuân thiên. Mùa xuân là mùa của lộc non. Xuân phơi phới có ở muôn nẻo, xuân của dòng sông, dòng nước và xuân trong cả không gian cao rộng của bầu trời. Từ “xuân” được điệp lại ba lần làm nổi bật lên vẻ đẹp của cây cối, sông nước, bầu trời, mây gió,... trong đêm rằm đầu năm. Chỉ với một chữ “tiếp” mà câu thơ như bừng sáng. Câu thơ trở nên có hồn và sống động hơn. Cả dòng sông và bầu trời như đang nối liền với nhau tạo ra không gian bao la đến vô tận. Hai câu thơ không tả mà giàu sức gợi hình ảnh, gợi màu sắc dù nó là bức tranh về cảnh khuya có hai gam màu trắng và đen, sáng và tối. Người đọc thích thú khi hình dung cảnh đêm xuân đẹp bao nhiêu thì càng cảm phục cái tài thơ của Bác bấy nhiêu.

Trên khung cảnh thiên nhiên vào đêm rằm tháng giêng hình ảnh con người xuất hiện thật thú vị, ta có thể cảm nhận rõ nét vẻ đẹp tâm hồn con người trên nền thiên nhiên tuyệt diệu:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

( Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.)

Trên một chiếc thuyền nhỏ trôi lênh đênh giữa dòng sông, Bác đang cùng với những người chiến sĩ của mình bàn bạc việc nước. Hình ảnh “Yên ba thâm xứ” gợi lên không gian sông nước mênh mang, sâu thẳm mịt mù khói sóng. Từ ngàn xưa, khói sóng thường là không gian gợi nỗi sầu li hương, khoảnh khắc nhớ nhà của những tao nhân mặc khách. Thế nhưng trong câu thơ này “yên ba thâm sứ” được kết hợp với “đàm quân sự” đã hoàn toàn xóa đi nội dung của ý thơ xưa. Tình yêu thiên nhiên hòa lẫn tình yêu và trách nhiệm với quê hương, đất nước. Ánh trăng kia như đang đồng cảm cho nỗi vất vả, lo toan của người thi nhân- người chiến sĩ cộng sản. Có lẽ từ đây, ta đã đủ nhận ra được tinh thàn trách nhiệm và mong muốn đất nước được độc lập có Bác lớn lao như thế nào. Đêm đã khuya nhưng vầng trăng vẫn luôn dõi theo Bác, đợi Bác trở về:

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

Trời khuya vậy mà ánh sáng của trăng vẫn tràn ngập khắp nơi, trăng như đang đồng hành cùng với thi nhân. Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” thật đẹp và kì lạ, ánh trăng đang soi dòng nước hay ánh trăng đã rơi xuống mạn thuyền để cùng với thi nhân bạc bạc việc chung của đất nước. Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết thưởng thức vẻ đẹp của trăng và chính người nghệ sĩ phải có tâm hồn giao hoà, lãng mạn thì mới có thể nhìn thấy trăng đang đồng hành với mình. Và chỉ sau khi bàn bạc việc nước xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Như vậy, chúng ta có thể thấy được một tâm hồn thi sĩ cao đẹp của Bác Hồ. Hai câu thơ vừa mang nét hiện đại vừa mang nét cổ điển, chất hiện đại đó chính là tinh thần thép, là chất chiến đấu của Bác:

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong

(Nhật kí trong tù)

Bài thơ đã khép lại nhưng ấn tượng về bức tranh thiên nhiên trong đêm nguyên tiêu cùng tâm hồn yêu thiên nhiên, trách nhiệm tinh thần với dân tộc, đất nước của Bác vẫn vẹn nguyên trong lòng mỗi độc giả.

Như vậy, chỉ qua bốn câu thơ ngắn gọn được viết theo thể thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang phong vị Đường thi đã dựng xây nên bức tranh thiên nhiên trong đêm trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp vừa cổ điển, lãng mạn lại vừa hiện đại, đồng thời đã làm nổi bật hình tượng Bác giao hoà giữa vẻ đẹp của người chiến sĩ với thi sĩ. Bằng biện pháp điệp ngữ và những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ngôn ngữ giàu nhạc điệu, gợi cảm cộng hưởng với phong cách thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, Bác đã vẽ nên bức tranh trăng trên sông nước tràn đầy sắc xuân. Qua đây, ta cũng nhận ra được tâm hồn yêu thiên nhiên và phong thái lạc quan của người chiến sĩ cộng sản.

Tóm lại, Rằm tháng giêng có thể được xem là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật đặc sắc, giàu ý nghĩa. Bài thơ giúp ta hình dung một cách cụ thể bức tranh đêm trăng trên sông nước thật đẹp, hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, phong thái ung dung, tự tại, lạc quan của vị cha già kính yêu của dân tộc.

3. Phân tích bài Rằm tháng Giêng ngắn gọn

Rằm tháng giêng là bài thơ nổi tiếng của Bác, được viết vào đúng rằm tháng giêng năm 1948 ở chiến khu Việt Bắc. Bài thơ đã cho thấy sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, và tâm hồn thi sĩ hòa quyện với tâm hồn của người chiến sĩ.

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên

Ta có thể hình dung khung cảnh bầu trời cao rộng trong trẻo, nổi bật là nền trời ấy là ánh trăng tỏa rạng, sáng ngời. Bức tranh của Bác gợi nhiều hơn tả, khung cảnh được vẽ rộng mênh mông, với vài nét phác họa đơn sơ, Người chú ý đến toàn cảnh mà ít đi vào miêu tả chi tiết, cụ thể, đây cũng là cách miêu tả phổ biến trong thơ ca cổ điển. Cả dòng thơ thứ hai tràn ngập sức sống mùa xuân, câu thơ mở rộng ở cả hai chiều, chiều rộng xuân giang, chiều cao xuân thiên, khiến cho khung cảnh càng trở nên rộng rãi, khoáng đạt hơn. Đồng thời sử dụng liên tiếp ba chữ xuân cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi. Bác như một tao nhân mặc khách, ung dung thưởng tức không khí xuân nhẹ nhàng, yên bình.

Nhưng thật bất ngờ, trong bầu không khí ấy lại đang diễn ra cuộc họp bàn việc quân sự, bàn việc đất nước: Yên ba thâm xứ đàm quân sự. Đối chiếu với nguyên tác ta có thể thấy phần dịch thơ đã không dịch hai chữ “yên ba” có nghĩa là khói sóng. Lược bỏ đi đã làm mất đi cái hư thực, huyền bí của không gian đêm khuya. Ba chữ “đàm quân sự” rất hiện đại và mang âm hưởng của thời đại.

"Xuân" trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất Trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.


Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa". Có "Trăng vào cửa sổ đòi thơ" trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: "Xem sách, chim rừng vào cửa đậu - Phê văn hóa núi ghé nghiêng soi", yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến... Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Trong bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên đi một nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi công việc hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo. Chính vì vậy, những người chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn thời điểm trong đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Vì quá say sưa bàn luận mà họ dường như quên mất đi thời gian, để đến khi công việc đã xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Và ánh trăng lúc này cũng là sáng nhất. Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như thắng lợi của cách mạng không còn xa nữa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc.

Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến "trăng, hoa, tuyết, nguyệt..." nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu Trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung.

Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. "Nguyên tiêu" là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.

4. Phân tích bài Rằm tháng Giêng phần dịch thơ

"Nguyên tiêu" nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: "Nguyên Tiêu",... Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương.

Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ của Bác Hồ xuất hiện trên báo "Cứu quốc" như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát:

"Rằm xuân lồng lộn trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền"

Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm tin dào dạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.

Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu Trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên).Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của "xuân giang", màu xanh ngọc bích của "xuân thuỷ" tiếp nối với màu xanh thiên thanh của "xuân thiên". Ba từ "xuân" trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái "thần" của cảnh vật sông, nước và bầu Trời:

"Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"
(Sông xuân nước lẫn mầu trời thêm "Xuân")

"Xuân" trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất Trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.

Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa". Có "Trăng vào cửa sổ đòi thơ" trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: "Xem sách, chim rừng vào cửa đậu - Phê văn hóa núi ghé nghiên soi", yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến... Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển.

Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:

"Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền"

Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào nhà ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang "đàm quân sự" (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu.

Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay "đăng lâu vọng nguyệt"... mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi "yên ba thâm xứ" - cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!. Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang "bàn bạc quân" để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: "Yên ba thâm xứ đàm quân sự". "Yên ba" là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác Hồ vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ "Nguyên tiêu" mang phong vị Đường thi. Ba chữ "Đàm quân sự" đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho văn thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.

Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, Trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền trở thành con thuyền trăng, nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:

"Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền"
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

"Nguyệt mãn thuyền" là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình nó làm ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:

- "Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?"
Trăng nước như xưa chín với mười"

(Triệu Hỗ - Đường thi)

- "Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông..."

(Bạch Cư Dị)

- "Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu"

(Nguyễn Trãi)

Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy Trời quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

Qua bài thơ "Nguyên tiêu", ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.

"Nguyên tiêu" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, Trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh... Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thường trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ "đàm quân sự".

Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.

Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến "trăng, hoa, tuyết, nguyệt.." nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu Trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung.

Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. "Nguyên tiêu" là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
5 9.190
0 Bình luận
Sắp xếp theo