Phân tích bài thơ Lai Tân lớp 8
Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
Lai Tân là bài thơ thứ 97, trích Nhật kí trong tù Hồ Chí Minh. Bài thơ được sáng tác trong khoảng bốn tháng đầu của thời gian HCM bị giam giữ tại các nhà tù của bọn Quốc dân đảng Trung Quốc ở Quảng Tây. Bài thơ là một tiếng cười chua cay về hiện thưc xã hội Lai Tân lúc bấy giờ. Sau đây là dàn ý phân tích bài thơ Lai Tân kèm theo các bài văn mẫu phân tích tác phẩm Lai Tân hay và chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích bài thơ Lai Tân lớp 8
2. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng bài Lai Tân
Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một tập thơ được viết trong hơn một năm trong thời gian Bác bị giam cầm tại các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tập thơ này ban đầu được Bác viết cho chính mình, với mục đích duy trì sự bình an trong tâm hồn và sức mạnh tinh thần khi phải chịu đựng cảnh ngục tù. Đồng thời, đây cũng là nguồn động lực giúp Bác kiên cường vượt qua khó khăn, với niềm tin vào ngày được tự do, như Bác đã ghi trong bài “Khai quyển đầu cuốn sổ tay.
Lai Tân là bài thơ thứ 97 trong tập nhật kí này, và Bác đã viết nó sau khi bị chuyển từ Thiên Giang đến Lai Tân. Bức tranh hiện thực trong bài thơ này, mặ despite sự khách quan của nó, thể hiện rõ sự mỉa mai, châm biếm và phê phán của Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị tại Lai Tân, và đồng thời cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.
Phiên âm chữ Hán:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Bài thơ này tạo ra một bức tranh sắc nét về hiện thực trong nhà tù Lai Tân và một phần nhỏ của xã hội Trung Quốc thời điểm đó. Bức tranh này được Hồ Chí Minh phản ánh một cách sống động, sử dụng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa.
Bài thơ thành công chủ yếu nhờ vào nghệ thuật châm biếm sắc sảo và độc đáo, kết hợp với giọng điệu tự sự và trữ tình, cùng với một cấu trúc chặt chẽ và hợp lý. Cấu trúc của bài thơ gồm hai phần, nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật. Phần thứ nhất bao gồm ba câu, trong khi phần thứ hai chỉ có một câu duy nhất. Ba câu đầu tiên đơn thuần kể chuyện, trong khi câu thứ tư là điểm nút, là nơi tất cả tư tưởng của bài thơ được tập trung và nó làm bung vỡ tất cả các ý châm biếm và mỉa mai của Hồ Chí Minh đối với đám quan chức thuộc giai cấp thống trị.
Phần thứ nhất của bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh đã khắc họa một cách sắc sảo thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng.” Trong đó, ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc hàng ngày, trong khi đánh bạc bên ngoài bị quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn và hút thuốc phiện. Những người này đại diện cho chính quyền và luật pháp, nhưng lại hoàn toàn vi phạm pháp luật. Điều này đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành biểu tượng cho cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó, khi quan trên thảnh thơi, vô trách nhiệm và tham lam, trong khi cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, không quan tâm đến các tệ nạn đang hoành hành. Hơn nữa, những hành vi tham lam và nhũng nhiễu của họ thậm chí còn đóng góp “tích cực” vào việc gia tăng tệ nạn xã hội.
Ba nhân vật này hoạt động trong một màn hài kịch câm, và cả ba đang đóng vai trò “nghiêm túc” trong khung cảnh thái bình (??!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ ngắn gọn và hàm súc này tố cáo tình trạng hỗn độn, bát nháo của xã hội Trung Quốc thời điểm đó.
Phần thứ hai của bài thơ, câu cuối cùng, chứa nhận xét thâm thúy và trào lộng của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng bộ máy cai trị tại Lai Tân. Đọc đến đoạn này, người ta có thể trông đợi một lời lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, tác giả đã không làm như vậy, mà thay vào đó, ông đưa ra một câu nhận xét có vẻ rất khách quan: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.” Câu này thực sự đánh đồng với tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân, và nó thể hiện một sự mỉa mai, châm biếm sâu sắc.
Hiệu quả của câu thơ này là gì? Nó làm cho tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân trở nên bình thường đến mức nó trở thành bản chất của họ. Bản chất này thậm chí đã trở thành một phần “nề nếp” được chấp nhận trong xã hội từ lâu.
Câu kết luận trong bài thơ, dường như rất bình thản, lại ẩn chứa một lời châm biếm, mỉa mai và tiết lộ bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Từ “thái bình” có thể được coi là “thần tự,” “nhãn tự” của bài thơ này. Điều này cho thấy tác giả đã sử dụng một cách tài tình từ “thái bình” để lôi kéo tất cả các hoạt động bất hợp pháp và thối nát ra ánh sáng, và châm biếm bản chất của họ Tưởng Giới Thạch đang lẩn trốn sau vẻ ngoài thái bình. Bằng cách này, câu thơ “Lai Tân” in đậm bút pháp nghệ thuật của Hồ Chí Minh, tạo nên một tác phẩm thơ châm biếm sắc sảo và đầy ẩn ý.
3. Phân tích bài thơ Lai Tân ngắn gọn
Tháng 8/ 1942, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ của thế giới cho cách mạng Việt Nam, nhưng đến Quảng Tây- Trung Quốc, Người bị tình nghi là Hán gian, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam suốt mười ba tháng, bị giải đi hơn mười tám nhà lao của mười ba huyện.
Trong những ngày tháng này, Người đã chứng kiến được hết những bể chìm của sự mục ruỗng ở chính những người được cho là đại diện cho chính quyền. Trong tác phẩm của mình, Người đã nhiều lần phản ánh và đả kích điều này, một trong những bài thơ như thế là “Lai Tân”.
Bài thơ chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng ba câu thơ đầu ngắn gọn với sự khát quát về ba nhân vật khác nhau đã cho thấy được phần nào một xã hội lúc bấy giờ;
Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Ba câu thơ ngắn như ba câu tự sự vắn tắt về những hành động thường nhật của những quan quản lí ngục thất đã bộc lộ rất rõ bản chất tệ hại của chúng. Ban trưởng thì là một kẻ cờ bạc đã đến hạng “chuyên” tức là thường thường, ngày ngày không bao giờ dứt ra khỏi chiếu bạc, thử hỏi một trưởng ban như vậy thì còn thì giờ đâu để cai quản ngục thất?
Còn tên cảnh trưởng tuy có “chuyên tâm” vào việc giải phạm nhân nhưng vốn trông vào đó để kiếm lời qua nhận hối lộ, người như vậy không thể đảm bảo được sự công bằng và đem lại không ít khổ cực trong một nơi đã không nhiều vui sướng này. Đến tên huyện trưởng, ngày ngày “chong đèn”, nghe có vẻ như là một người chăm chỉ bận công việc nhưng thực chất đó không phải là ngọn đèn dầu đêm thắp lên vì nhiều việc bận mà là bàn đèn thuốc phiện.
Huyện trưởng chính là một con nghiện, vừa kém sức khỏe, kém trách nhiệm thậm chí sa đọa, không bằng được cả những tù nhân mà mình đang quản lí. Ở nguyên tác, Hồ Chủ Tịch để tên ba nhân vật “đáng khen” này ở ngay đầu câu thơ thậm chí cố ý xếp chức hiệu của chúng từ cao đến thấp như có ý nhấn mạnh vào những tên mang mác quan lại, những tên tuy không phái là quan to chức lớn nhưng cũng mang ý nghĩa đại biểu cho chính quyền ở tại nhà lao lúc bấy giờ.
Vậy mà từ tên có chức vị cao đến tên chức vị thấp đều đáng chê cười. Nếu không phải là ăn chơi, sa đọa thì là hám tiền, vô đạo đức. Bao nhiêu đó thôi đủ để thấy bộ mặt của cả một xã hội, của cả chính quyền lúc bấy giờ, để mà Người phải thốt lên: Lai Tân y cựu thái bình thiên. Dịch thơ: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Có những tên quan cai quản như vậy mà trời đất Lai Tân này vẫn thái bình được ư? Rõ ràng Người dùng từ “thái bình” này với ý mỉa mai diễu cợt, ở Lai Tân, chắc chắn một điều là loạn lạc bởi những tên quan phụ mẫu sa đọa, tham lam, vô đạo đức này.
Lúc này, hoàn cảnh Trung Hoa không phải là yên bình, Nhật đang muốn thâu tóm lãnh thổ, bao nhiêu tráng sĩ đổ máu ngoài sa trường mong giữ vững độc lập, tự do cho tổ quốc, đảm bảo ấm no cho nhân dân vậy mà những tên được gọi là “quan” này lại dửng dung như không, thậm chí không làm tròn bổn phận của mình, khiến nhân dân đã cực nay còn cực hơn.
Chỉ với bốn câu thơ nhưng đã bộc lộ sâu sắc tình hình trong nước của Trung Hoa lúc bấy giờ, một sự mục ruỗng thậm tệ của chính quyền phong kiến đáng mỉa mai, đả kích, một xã hội như vậy chỉ có thể loại bỏ nhân dân mới mong có được thái bình. Những câu thơ đọc lên không có gì là dụng công nhưng lại tạo hiệu quả sâu sắc đến thế bởi tài năng của Hồ Chủ Tịch.
4. Phân tích bài thơ Lai Tân học sinh giỏi
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tôi “trữ tình” và “hiện thực”, Lai Tân là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:
Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
(Phố Hàng Song)
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngộc ngách bôn trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả Lai Tân đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng cái chức “trưởng” của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chữ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải”.
Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý” để làm những việc “bất công lý” một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đổ phạm”. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.
Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự” vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”. Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “lo việc riêng”, “chong đèn” hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích toả sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả Lai Tân đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người”. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mỉa kéo dài bắt đầu từ chữ “vẫn” ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao một quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.
Với “nghệ thuật vẽ đường tròn đồng tâm” tác giả Lai Tân đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương... đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ “Lai Tân” dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thống; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa, bỉ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tố cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lên” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.
Không phải chỉ ở Lai Tân mà ở rất nhiều bài thơ khác của Nhật kí trong tù Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như Trưng binh gia quyến, Đổ, Đổ phạm. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thuý mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẫm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.
Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế:
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên
(Đùa ông phủ)
Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. Lai Tân là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.
5. Phân tích bài thơ Lai Tân hay
Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ - thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
Thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục cửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn được quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.
Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.
Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quắt chốn này?”
Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!
Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:
“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.
Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục cửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:
“Mới đến nhà lao phải nộp tiền
Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên
Nếu anh không có tiền đem nộp
Mỗi bước anh đi một bước phiền”
Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.
“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”
Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn - một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.
Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.
Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!
6. Phân tích bài thơ Lai Tân Hồ Chí Minh
Tập thơ "Nhật kí trong tù" (1942 - 1943) của Hồ Chí Minh là một tác phẩm nghệ thuật nổi bật, phản ánh sự chiến đấu quyết liệt, sự sâu sắc về tư duy và tâm hồn trữ tình của Người. Với hình thức ghi chép như một nhật kí, tập thơ này phong phú về kỹ thuật và giọng điệu, trong đó sử dụng phong cách tự sự trào phúng chủ yếu để chỉ trích, châm biếm và lên án cả nhà tù lẫn chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Bài thơ "Lai Tân" trong tập này đặc trưng với phong cách tự sự trào phúng kết hợp sự sâu sắc và trí tuệ.
Ba câu thơ đầu thuật chuyện các nhân vật:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc
Tác giả không đề cập trực tiếp đến tên của từng nhân vật, thay vào đó, Người điểm danh từng cá nhân, mỗi người mang trách nhiệm xã hội trong bộ máy công quyền, nơi mà họ nên làm mẫu cho việc thực thi pháp luật. Cách diễn đạt thông qua việc điểm danh và minh họa những hành động cụ thể tạo nên một tuyến nhỏ.Tuy nhiên, những nhân vật này lại thực hiện những hành vi gì?
Ban trưởng nhà lao công thì nổi bật với việc tham gia đánh bạc. Mặc dù đánh bạc là hành vi phạm pháp, nhưng trong nhà tù, nó lại trở nên công khai. Những quan coi ngục không chỉ không tôn trọng luật pháp mà còn coi thường nó. Cảnh sát trưởng, thay vì bảo vệ những người vô tội, lại tận dụng để hối lộ, nắm bắt, và làm những việc không đứng đắn. Hành vi này đằng sau vẻ ranh ma, thật sự đen tối và đê tiện.
Huyện trưởng chong đèn làm việc thâu đêm mà mọi người không rõ công việc của ông ta là gì. Có phải ông ta đang hút thuốc phiện? Mức độ đồi bại đến mức đáng kinh ngạc! Trong khi có thể ông ta soạn công văn, thì lại không quan tâm đến việc cấp dưới của mình thao túng, lũng đoạn và nhũng nhiễu dân chúng. Ông ta chỉ là một viên quan làm vì mình, dốt nát đến nỗi dễ bị cấp dưới lừa dối. Sự bất tài và thiếu trách nhiệm của ông ta là rất đáng lẽ.
Cả bức tranh của những nhân vật này được mô tả như một vở kịch câm, một dãy công việc thực hiện một cách mạch lạc, rành mạch và tạo nên một bức tranh sống động như một màn kịch câm. Công việc của họ đã trở thành thói quen đến mức gần như tự động, không còn cảm nhận được nữa.
Bộ máy cai trị vẫn tiếp tục chạy đều, và cuộc sống vẫn diễn ra bình thường. Trong quy luật sinh học, cái gì đột biến và phổ biến thì trở thành điều bình thường. Điều bất thường, khi lặp đi lặp lại, hóa ra trở thành điều bình thường. Tại Lai Tân, những hành vi thối nát đã đạt đến mức cực kỳ bình thường, trở thành một phần của lối sống quy củ, và họ tài tình che đậy để cuộc sống vẫn trôi chảy êm đềm. Điều đó mới là đáng sợ nhất. Tiếng cười phê phán và châm biếm, có chiều sâu trí tuệ, xuất phát từ đây.
Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã nêu rõ sự thối nát của ban trưởng và cảnh sát trưởng. Câu thứ ba, dù không nói rõ, lại mang đến một ý vị mỉa mai sâu sắc. Câu cuối cùng, dù trước đó tác giả đã phê phán, nhưng kết luận lại đưa ra một quan điểm ngược lại.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của HoaTieu.vn.
- Chia sẻ:
Trần Thu Trang
- Ngày:
Tham khảo thêm
Bài thơ Lai Tân thuộc thể thơ nào?
Soạn Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Đất Vị Hoàng - Trần Tế Xương
Hơi ấm ổ rơm đọc hiểu
Thực hành tiếng Việt 8 - Sắc thái nghĩa của từ ngữ và việc lựa chọn từ ngữ
Em hãy nêu nhận xét của mình về vị tướng già Trần Quốc Tuấn
Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Năm mới chúc nhau
Soạn bài Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng lớp 8
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

- Bài 1: Câu chuyện của lịch sử
- Soạn bài Lá cờ thêu sáu chữ vàng
- Phân tích nhân vật Trần Quốc Toản
- Xuất thân của Trần Quốc Toản
- Phân tích tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng
- Tóm tắt văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng
- Viết đoạn văn phân tích chi tiết Trần Quốc Toản bóp nát quả cam
- Thực hành tiếng Việt trang 16
- Soạn bài Quang Trung đại phá quân Thanh
- Tóm tắt bài Quang trung đại phá quân Thanh ngắn gọn dễ nhớ
- Liệt kê những nhân vật và sự kiện trong bài Quang Trung đại phá quân Thanh
- Đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh có thể chia thành mấy phần?
- Viết đoạn văn cảm nhận về một chi tiết trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh để lại cho em ấn tượng sâu sắc
- Thực hành tiếng Việt Từ ngữ địa phương
- Soạn bài Ta đi tới
- Ta đi giữa ban ngày đọc hiểu
- Phân tích bài thơ Ta đi tới
- Nhận xét về cách đặt nhan đề bài thơ Ta đi tới
- Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử văn hóa
- Kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Hồ Gươm lớp 8
- Phân tích bài viết tham khảo Chuyến tham quan khu lưu niệm Nguyễn Du trang 29
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về 1 cuốn sách (cuốn truyện lịch sử) lớp 8
- Củng cố mở rộng trang 34
- Soạn bài thực hành đọc Minh sư trang 35
- Bài 2: Vẻ đẹp cổ điển
- Soạn bài Thu điếu Kết nối tri thức ngắn nhất
- Nêu chủ đề của bài thơ Thu điếu
- Chỉ ra đặc điểm thi luật trong bài Thu điếu
- Viết đoạn văn phân tích hai câu thơ khiến em có ấn tượng nhất trong bài thơ Thu điếu
- Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ Thu điếu
- Thực hành tiếng Việt từ tượng hình và từ tượng thanh lớp 8
- Soạn Thực hành tiếng Việt 8 trang 45 tập 1 Kết nối tri thức
- Soạn bài Thiên trường vãn vọng lớp 8 ngắn nhất
- Hãy xác định thể thơ bài Thiên Trường vãn vọng
- Câu kết trong Thiên Trường vãn vọng gợi cho em cảm xúc gì?
- Phân tích bài thơ Thiên trường vãn vọng lớp 8
- Soạn bài Ca Huế trên sông Hương lớp 8 siêu ngắn
- Đêm ca Huế có gì đặc về thời gian, không gian?
- Nhận xét về tình cảm tác giả dành cho ca Huế, xứ Huế trang 48
- Đoạn văn cảm nhận về nhan đề hoặc một hình ảnh đặc sắc trong bài thơ Thiên Trường vãn vọng
- Các điệu hò xứ Huế gắn bó như thế nào với cuộc sống của con người?
- Theo văn bản, ca Huế được hình thành từ đâu?
- Viết bài văn phân tích một bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật lớp 8
- Phân tích bài thơ Nguyên tiêu lớp 8 siêu hay
- Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang ngắn gọn nhất (không chép mạng)
- Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến
- Phân tích bài Chiều hôm nhớ nhà
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (một sản phẩm văn hóa truyền thống trong cuộc sống hiện tại) lớp 8
- Củng cố và mở rộng trang 55 Ngữ văn 8 tập 1 Kết nối tri thức
- Soạn bài Qua đèo ngang lớp 8 trang 56
- Bài 3: Lời sông núi
- Soạn bài Hịch tướng sĩ lớp 8 Kết nối tri thức siêu ngắn
- Em hãy nêu nhận xét của mình về vị tướng già Trần Quốc Tuấn
- Từ bài hịch, em rút ra được bài học gì cho bản thân khi viết một bài văn nghị luận?
- Bài hịch được Trần Quốc Tuấn viết ra nhằm mục đích gì?
- Xác định bố cục bài Hịch tướng sĩ lớp 8 KNTT
- Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) về một truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam
- Thực hành tiếng Việt 8 Đoạn văn diễn dịch và đoạn văn quy nạp
- Soạn bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta lớp 8
- Phải chăng lòng yêu nước của mỗi người chỉ thể hiện khi Tổ quốc bị xâm lăng?
- Thực hành tiếng Việt 8: Đoạn văn song song và đoạn văn phối hợp
- Viết một đoạn văn song song và một đoạn văn phối hợp theo chủ đề tự chọn
- Soạn bài Nam quốc sơn hà lớp 8 trang 69
- Phân tích Nam quốc sơn hà lớp 8
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước)
- Phân tích bài viết tham khảo Hiểu biết về lịch sử
- Nghị luận giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua việc tổ chức một lễ hội ở quê em
- Nghị luận về trách nhiệm của con người với nơi mình sinh sống siêu hay
- Nghị luận Học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt lớp 8 (chuẩn cấu trức)
- Nghị luận Học sinh với vấn đề xây dựng trường học thân thiện lớp 8 (chuẩn)
- Nói và nghe trang 75 Ngữ văn 8 tập 1 Kết nối tri thức
- Thảo luận về vấn đề Học sinh có trách nhiệm như thế nào với vấn đề trật tự an toàn giao thông lớp 8 KNTT
- Thảo luận về vấn đề Học sinh cần quan tâm những vấn đề của đất nước
- Soạn bài Củng cố mở rộng trang 77 lớp 8 tập 1 Kết nối tri thức
- Soạn bài Chiếu dời đô trang 78
- Soạn bài Đọc mở rộng trang 79 Văn 8 Kết nối tri thức
- Bài 4: Tiếng cười trào phúng trong thơ
- Soạn bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8 siêu ngắn
- Phân tích lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
- Bố cục bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu gồm mấy phần?
- Đoạn văn phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng trong bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
- Thực hành tiếng Việt 8 Nghĩa của một số từ, thành ngữ Hán Việt
- Soạn bài Lai Tân lớp 8 siêu ngắn
- Phân tích bài thơ Lai Tân lớp 8
- Bài thơ Lai Tân thuộc thể thơ nào?
- Đoạn văn làm rõ chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay của bài thơ Lai Tân
- Thực hành tiếng Việt 8 - Sắc thái nghĩa của từ ngữ và việc lựa chọn từ ngữ
- Soạn bài Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng lớp 8
- Soạn Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
- Phân tích bài thơ Chế học trò ngủ gật
- Phân tích bài thơ Tự trào
- Phân tích bài thơ Giễu người thi đỗ
- Phân tích bài thơ Hội tây
- Phân tích bài thơ Sông lấp
- Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Đất Vị Hoàng - Trần Tế Xương
- Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Năm mới chúc nhau
- Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Ông phỗng đá (chuẩn)
- Ông phỗng đá đọc hiểu
- Soạn bài Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội ý nghĩa của tiếng cười trong đời sống
- Củng cố và mở rộng lớp 8 trang 97 tập 1 Kết nối
- Soạn bài Vịnh cây vông siêu ngắn
- Phân tích bài thơ Vịnh cây vông
- Bài 5: Những câu chuyện hài
- Soạn bài Trưởng giả học làm sang lớp 8
- Trình bày suy nghĩ của em về chi tiết phó may may áo ngược
- Thực hành tiếng Việt 8 trang 107 Kết nối
- Soạn bài Chùm truyện cười dân gian Việt Nam ngắn gọn
- Trình bày suy nghĩ của em về một tính cách đáng phê phán trong những truyện cười trên
- Soạn bài Chùm ca dao trào phúng lớp 8
- Thực hành tiếng Việt Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn của câu
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại)
- Nghị luận về lối sống ảo mà một số người đang theo đuổi
- Nghị luận về một vấn đề đời sống thói ích kỉ lớp 8 KNTT
- Nghị luận về sự tùy tiện khi tham gia giao thông của một số người dân lớp 8
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại)
- Soạn bài Củng cố mở rộng lớp 8 trang 120 Kết nối tri thức tập 1
- Suy nghĩ về ý kiến Cười là một hình thức chế ngự cái xấu
- Thực hành đọc Giá không có ruồi
- Soạn bài Ôn tập học kì 1 Văn 8 Kết nối tri thức (chuẩn)
- Phiếu học tập số 2 lớp 8 Kết nối tri thức trang 127
- Kiêu căng và hiếu thắng – những thói xấu cần tránh lớp 8
- Lập dàn ý và viết phần mở bài cho đề tài: Một chuyến tham quan thú vị
- Phiếu học tập số 1 lớp 8 Kết nối tri thức trang 125
- Giữ gìn tiếng nói của cha ông phải chăng cũng là một cách thể hiện lòng yêu nước?
- Đoạn văn phân tích cảnh và tình trong bài Chiều hôm nhớ nhà
- Bài 6: Chân dung cuộc sống
- Soạn bài Mắt sói lớp 8
- Nêu cảm nhận của em về nhân vật Phi Châu
- Tóm tắt văn bản Mắt sói
- Kể lại sự kiện Phi Châu và Báo đã trở thành đôi bạn thân thiết
- Thực hành tiếng Việt lớp 8 Kết nối tri thức Trợ từ
- Đoạn văn trình bày cảm nhận của em về một nhân vật, sự việc ấn tượng trong văn bản Mắt sói
- Soạn bài Lặng lẽ Sa Pa lớp 8 Kết nối
- Phân tích Lặng lẽ Sa Pa hay nhất (7 mẫu)
- Tưởng tượng em là nhân vật ông họa sĩ ghi lại cảm nghĩ về cuộc gặp gỡ với anh thanh niên
- 15+ mẫu tóm tắt Lặng lẽ Sapa ngắn gọn xúc tích
- Nêu suy nghĩ của em về những người đang sống ở nơi xa xôi, hẻo lánh và làm các công việc vất vả, âm thầm
- Thực hành tiếng Việt 8 Kết nối tri thức thán từ
- Soạn bài Bếp lửa lớp 8 ngắn gọn
- Bài thơ Bếp lửa là lời của nhân vật nào nói về ai và về điều gì?
- Soạn Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện lớp 8 trang 26
- Phân tích truyện ngắn chiếc lá cuối cùng lớp 8
- Phân tích tác phẩm Mắt sói lớp 8
- Phân tích truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa
- Phân tích truyện ngắn bầy chim chìa vôi của Nguyễn Quang Thiều
- Nói và nghe Giới thiệu về một cuốn sách truyện trang 31
- Củng cố mở rộng trang 32 ngữ văn 8 tập 2 KNTT
- Thực hành đọc Chiếc lá cuối cùng
- Bài 7: Tin yêu và ước vọng
- Soạn bài Đồng chí lớp 8 ngắn nhất
- Trình bày suy nghĩ của em về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ
- Thực hành tiếng Việt 8 KNTT tập 2 trang 40
- Soạn bài Lá đỏ lớp 8 ngắn gọn dễ hiểu
- Nhận xét các chi tiết miêu tả hình ảnh “em gái tiền phương” trong bài thơ
- Trình bày suy nghĩ của em về hình ảnh “em gái tiền phương” trong bài thơ
- Soạn bài Những ngôi sao xa xôi lớp 8
- Thực hành tiếng Việt 8 trang 48 tập 2
- Soạn Tập làm một bài thơ tự do lớp 8
- Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do trang 51
- Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi ngắn nhất lớp 8
- Củng cố mở rộng trang 56 lớp 8 tập 2
- Soạn Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 8 KNTT
- Bài 8: Nhà văn và trang viết
- Soạn bài Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam ngắn nhất
- Cảm nhận về một hình ảnh đặc sắc trong một bài thơ thu của Nguyễn Khuyến
- Thực hành tiếng Việt 8 Thành phần biệt lập trang 66
- Soạn Đọc văn - cuộc chơi tìm ý nghĩa lớp 8 tập 2
- Vì sao có thể nói “không ai có thể đọc tác phẩm một lần là xong”?
- Luận điểm chính của văn bản Đọc văn cuộc chơi tìm ý nghĩa
- Luận đề của văn bản Đọc văn – cuộc chơi tìm ý nghĩa là gì?
- Thực hành tiếng Việt 8 Thành phần biệt lập trang 69 - Thành phần gọi đáp
- Soạn bài Xe đêm lớp 8 siêu ngắn
- An-đéc-xen đã tiên đoán như thế nào về tương lai của các cô gái mới quen?
- Chân dung nhân vật An-đéc-xen hiện lên qua những chi tiết nào?
- Soạn Viết bài văn phân tích một tác phẩm (truyện) Kết nối tri thức
- Viết bài văn phân tích truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi
- Phân tích Giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Đi lấy mật
- Những nét đặc sắc của truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê
- Soạn Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội văn học trong đời sống hiện nay lớp 8 KNTT
- Soạn bài Củng cố mở rộng lớp 8 trang 82 tập 2
- Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa văn bản nghị luận xã hội và văn bản nghị luận văn học
- Thực hành đọc: Nắng mới – sự thành thực của một tâm hồn giàu mơ mộng
- Bài 9: Hôm nay và ngày mai
- (Chuẩn) Soạn Miền châu thổ sông Cửu Long cần chuyển đổi từ sống chung sang chào đón lũ
- Nêu những thu nhận bổ ích qua văn bản Miền châu thổ sông Cửu Long
- Tác giả Viết văn bản lũ ở miền châu thổ Cửu Long nhằm mục đích gì?
- Thực hành tiếng Việt 8 Các kiểu câu chia theo mục đích nói
- Soạn bài Choáng ngợp và đau đớn những cảnh báo từ loạt phim hành tinh của chúng ta
- Đoạn văn hưởng ứng với thông điệp được nêu lên trong loạt phim Hành tinh của chúng ta
- Tóm tắt những thông tin cơ bản về loạt phim Hành tinh của chúng ta lớp 8
- Soạn bài Diễn từ ứng khẩu của thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn
- Thực hành tiếng Việt 8 KNTT Câu phủ định và câu khẳng định
- Viết bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên lớp 8 KNTT
- Viết văn bản thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên lũ lụt
- Thuyết minh về hiện tượng biến đổi khí hậu
- (Cực hay) Thuyết minh về hiện tượng động đất lớp 8
- (Không chép mạng) Thuyết minh về hiện tượng trái đất nóng lên
- (Chuẩn) Viết bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng thiên văn thường gặp lớp 8 KNTT
- Viết bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng địa chất, thủy văn lớp 8 KNTT
- Viết văn bản kiến nghị về một vấn đề của đời sống lớp 8 Kết nối
- Viết văn bản kiến nghị về vấn đề nâng cấp nhà vệ sinh để đảm bảo các yêu cầu về y tế, môi trường
- (Chuẩn) Viết văn bản kiến nghị về vấn đề chấn chỉnh hoạt động của thư viện trường
- Viết văn bản kiến nghị về vấn đề ngăn chặn các sự cố về an ninh xảy ra trong trường học
- Thảo luận về một vấn đề đời sống tổ chức hợp lí nề nếp sinh hoạt của bản thân
- Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 111 tập 2
- Đoạn văn giới thiệu một bộ phim có nội dung về những vấn đề bức thiết của môi trường sống trên Trái Đất
- Viết đoạn văn giải thích về một hiện tượng tự nhiên đáng quan tâm mà em từng gặp
- Bài 10: Sách – người bạn đồng hành
- (Chuẩn) Soạn bài Đọc như một hành trình lớp 8
- Tìm đọc một cuốn sách có liên quan đến chủ đề hoặc thể loại trong bài học của Ngữ văn 8
- Soạn bài Đọc như một cuộc thám hiểm lớp 8
- Soạn bài Đọc để đồng hành và chia sẻ lớp 8
- Viết bài thuyết minh giới thiệu cuốn sách yêu thích lớp 8
- Nói và nghe Ngày hội với sách lớp 8
- Phiếu học tập số 1 Văn 8 tập 2 Kết nối tri thức
- Phiếu học tập số 2 Văn 8 tập 2 Kết nối tri thức
- Suy nghĩ về một phẩm chất tốt đẹp cần trau dồi hoặc một thói xấu đáng phê phán của con người
- Soạn Ôn tập học kì 2 Văn 8 Kết nối tri thức
- Không tìm thấy
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Mẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Top 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Thực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2025 mới cập nhật
Bộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2025
Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2025
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Tờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2025
Mẫu hợp đồng ngoại thương bằng Tiếng Anh
Mẫu hợp đồng góp vốn
Bài phát biểu của lãnh đạo tại Đại hội nông dân xã nhiệm kỳ 2023-2028

Bài viết hay Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
Phiếu học tập số 1 Văn 8 tập 2 Kết nối tri thức
Cảm nhận về một hình ảnh đặc sắc trong một bài thơ thu của Nguyễn Khuyến (3 mẫu)
Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của nhà thơ Nguyễn Khuyến
Thực hành đọc Chiếc lá cuối cùng
Viết văn bản kiến nghị về một vấn đề của đời sống lớp 8 Kết nối
Bài hịch được Trần Quốc Tuấn viết ra nhằm mục đích gì?