Phân tích bài thơ Sông lấp

Sông Lấp là một bài thơ được nhiều độc giả yêu mến của nhà thơ Trần Tú Xương. Với câu từ giản dị, bài thơ đã thể hiện tâm sự đau đớn, xót xa; hoặc mỉa mai, ngạo đời một cách chua chát cũng như tấm lòng yêu nước thương nòi một cách kín đáo và sâu sắc của tác giả. Sau đây là một số bài văn mẫu phân tích tác phẩm Sông lấp, cảm nghĩ về bài thơ Sông lấp hay và ngắn gọn giúp các em hiểu rõ hơn về ý nghĩa bài thơ Sông lấp.

1. Phân tích tác phẩm Sông lấp

Trong nền văn học Trung đại Việt Nam, Trần Tế Xương được biết đến là một cây bút trào phúng đầy sắc xảo, đả phá sâu cay những hiện thực xã hội đen tối, khốc liệt. Bên cạnh đó, ông cũng mang trong mình một tâm hồn chan chứa tình cảm khi viết về quê hương, đất nước. Xúc cảm trước nỗi đau đất nước bị rơi vào tay kẻ thù, hồn thơ trữ tình trong ông trỗi dậy, một nỗi băn khoăn, trăn trở, sót xa. Tất cả những tâm sự sâu lắng ấy được dồn nén qua bài thơ “Sông lấp”.

“Sông kia rày đã nên đồng,

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.”

Dòng sông luôn gắn liền với hình ảnh của quê hương, và nằm lặng một góc trong trái tim của người yêu quê. Khi thấy sống Vị Hoàng, dòng sông thân thương của mảnh đất Nam Định bị lấp, Tế Xương đã không khỏi suy tư. Chỉ vẻn vẹn bốn câu lục bát, ta đã nghe được trọn cả một tiếng lòng.

“Sông kia rày đã nên đồng

“Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai”.

Ngay câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã diễn tả khung cảnh trực tiếp bằng cái nhìn thị giác. Với những từ ngữ bình dị nhất, ông đã gợi ra sự thay đổi của con sông sau những cuộc bể dâu. Dòng sông ngày nào giờ đã trở thành “Đồng”, mạch máu của người dân đã bị thực dân Pháp lấp lại để lấy đất trồng cây, làm nhà. Từ “rày” vang lên nặng nề như nỗi lòng Tế Xương, khiến cả câu thơ trầm lằng trong nỗi uất hận, nghẹn ngào. Lớp phù sa không chỉ lấp đi con sông Vị Hoàng, mà đã lấp đi cả quá khứ, cả tuổi thơ của Tế Xương. Phải chăng sự thay đổi đó đã gieo vào lòng nhà thơ một nỗi đau quá lớn, khắc khoải đến mức bộc bạch thành thơ?

Sang đến câu thơ thứ hai, nhịp thơ có vẻ day dứt, nuối tiếc, dằn xé hơn, khi ông sử dụng điệp từ “chỗ” ở đầu hai vế của câu thơ. Qua đó, hiện thực của con sông không chỉ hiện lên rõ ràng hơn, mà nhà thơ còn ngầm nói đến sự thay đổi của cả đất nước. Dưới sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam nửa Tây nửa ta với bao nhiêu những cái lố lăng, xấu xa, quái gở. Những sự thay đổi nhanh chóng và hỗn loạn ấy khiến một tâm hồn yêu nước không khỏi bất bình. Tế Xương cũng từng mê đắm nét thi vị của dòng sông Vị Hoàng, nhưng dòng sông đó nay không còn nữa, dòng nước trong mát không còn hiền hòa uống lượn, soi bóng hai hàng cây. Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tả thực và trữ tình, nhà thơ đã kêu gào một nỗi xót xa trước hiện thực đầy tiếc nuối. Đồng thời nêu lên thực trạng xã hội thối nát lúc bấy giờ. Có lần, Tế Xương đã phải căm phẫn mà thốt lên:

“Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông

Nha kia lỗi phép con khinh bố

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”

Con sông Vị Hoàng không còn nữa, và còn nhiều dòng sông khác bị bàn tay đẫm máu của bọn thực dân tàn phá, chẳng khác nào đánh mất đi linh hồn đất nước vào tay kẻ thù. Sở dĩ ông u uất như vậy, là vì sự thay đổi trước mắt không phải để đổi lấy đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân, càng không làm cho đất nước phát triển, mà đỏ chỉ là sự ích kỷ, thị oai, ác độc, xấu xa của bọn thực dân. Trong lòng nhà thơ không chỉ là sự tiếc nuối, xót thương mà còn cuộn trào nỗi căm hận đối với kẻ thù. Dòng sông thân thương chỉ còn lại trong dĩ vãng, trong hoài niệm của nhà thơ, vậy nên hai câu thơ cuối, ông viết:

“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”.

Trước mắt là nhà cửa, ngô khoai, nhưng dường như trong lòng Tế Xương không muốn chấp nhận con sông đã biến thành “đồng”. Hai câu thơ với trường liên tưởng mạnh mẽ, mở ra trong mắt người đọc một khung cảnh đồng quê buổi đêm vắng vẻ, hiu quạnh, tịch mịch đến mức nghe rõ tiếng ếch kêu, lại tạo cho người đọc một cảm giác buồn man mác, khiến chúng ta từng chút một đồng cảm với nhà thơ. Lời thơ bình dị nhưng cảm xúc, không vội vã ồn ào mà tĩnh lặng, suy tư, gom hết bao nhiêu nỗi trăn trở của nhà thơ. Từ “vẳng” khiến người đọc liên tưởng đến một không gian rộng nhưng mơ hồ, âm thanh chẳng biết từ nơi đâu vọng lại, phải chăng chỉ là tiếng cảnh vật va vào nhau. Đứng trước “dòng sông” hôm nay, nhưng Tế Xương lại luôn không khỏi hoài niệm về những ngày thanh bình thuở trước, tiếng ếch quen thuộc của một tuổi thơ chăn trâu cắt cỏ ven sông, khiến ông không khỏi nao lòng khi nhớ lại. Câu thơ như là tiếng lòng, là nỗi hoài niệm của nhà thơ, giống như Bà Huyện Thanh Quan từng viết:

“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.

Và tâm trạng tiếc thương dòng sông cũ lại càng được bộc bạch rõ hơn khi nhà thơ nghe nhầm “tiếng ếch” kêu thành “tiếng ai gọi đò”. Nhà thơ không chỉ tiếc quá khứ bị lớp đất kia chôn vùi, mà còn tiếc cho cả một thuở thanh bình của đất nước. Ông không chấp nhận thực tại thối nát ấy, nên vọng tượng về xa xưa. Nhưng lại chằng có cách nào chối bỏ thực tại đang bày ra trước mắt, nên ông “giật mình” thoát khỏi cơn mộng, mà vẫn còn vương vấn dòng suy nghĩ của ký ức. Chữ “tưởng” lơ lửng giữa câu thơ lại càng nói lên tâm trạng tiếc thương đầy xót xa. Cảm động thay một tiếng lòng yêu nước, yêu quê hương luôn được giữ vẹn tròn dù trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu.

Câu thơ cũng chính là sự tuyệt vọng của Tế Xương khi biết rằng những thứ trong quá khứ sẽ không bao giờ quay trở lại được. “Tiếng gọi đò” thân thương cũng chỉ còn là những hồi tưởng trong ký ức, trong giấc mơ lúc ẩn lúc hiện, lúc rõ lúc không, lúc xa lúc gần. Mà nhà thơ sẽ không còn cơ hội để nghe âm thành ấy thêm một lần nào nữa. “Tiếng ếch kêu”, “tiếng gọi đò” vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí tác giả, có lẽ rõ ràng đến mức thuộc từng giai điệu âm thanh. Sự nuối tiếc quá khứ ấy càng lớn, tác giả càng đau khi phải trở về với thực tại, với sự thay đổi quá lớn. Trên hết đó là nỗi đau nước mất nhà tan.

Đứng trước cảnh mất nước, mấy ai mà không chua xót. Tế Xương cũng không ngoại lệ. Hiện thực ấy đã khiến một giọng thơ trào phúng, từng bật lên những tiếng cười khinh ghét, cay độc nay phải ngậm ngùi cay đắng, một tâm sự vừa day dứt vừa thâm sâu, thấm vào từng câu chữ. Sự nhầm lẫn ở câu thơ cuối đã cho nhà thơ sống lại một thời ký ức tươi đẹp, trữ tình ngày trước. Dù chỉ vài giây, nhưng có lẽ với ông, bấy nhiêu thôi cũng đủ mãn nguyện rồi. Tiếng gọi đò ấy còn là tiếng vọng lại của một thời đã qua, là sự hoài niệm luôn âm ỷ trong lòng tác giả. Hình ảnh về quê hương, về con sông Vị Hoàng ngày trước, sao có thể phai mờ trong tâm trí người con đã từng yêu quê bằng những câu thơ đẹp nhất như Tế Xương.

Bốn câu thơ vẽ nên một bức tranh vừa tả thực lại đậm chất trữ tình. Người đọc có thể chỉ thấy được cảnh vật hiện hữu bên trên, nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi niềm tiếc thương, đau xót khi thấy cảnh đẹp quê hương bị tàn phá đến mất đi nét thơ mộng ban đầu. Đó là một nỗi niềm luyến tiếc sâu lắng, thiết tha. Cũng yêu nước, yêu quê hương và Tế Xương đã thể hiện nó qua những âm thanh, hình ảnh vô cùng bình dị, quen thuộc, nhưng lại dùng chính những thứ đó để bộc bạch nỗi nhớ và tình yêu cháy bỏng, khôn nguôi.

Nói đến Tế Xương, ông đúng là một nhà thơ đa tài. Giọng điệu thơ của ông vừa có thể trào phúng vừa có thể sâu lắng. Thơ của Tế Xương, đặc biệt là bài thơ “Sông lấp” ấy được coi là một điển hình cho cái thời của ông. Cái đáng quý mà ai cũng thấy được là tình cảm chân thành mà ông dành cho quê hương đất nước. Trong ký ức và hoài niệm của Tế Xương, dòng sông Vị Hoàng sẽ mãi chảy, bao bọc lấy mảnh đất Nam Định cho đến tận mai sau.

2. Cảm nghĩ về bài thơ Sông lấp

Trần Tú Xương là một gương mặt nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại, nhà thơ được biết đến là một cây bút trào phúng nổi tiếng bậc nhất với ngòi bút sắc xảo, đả phá sâu cay những hiện thực xã hội đen tối như nạn mua quan bán tước, cường hào áp bức dân lành, và lối sống nửa tây nửa ta. Tuy nhiên, bên cạnh một hồn thơ đầy cá tính mạnh mẽ là một Trần Tú Xương, chan chứa tình cảm khi viết về người vợ tần tảo, thân thương đầy tha thiết, dạt dào khi viết về quê hương, đất nước. Mảnh đất Nam Định, nơi “chôn nhau cắt rốn” của nhà thơ đã rất nhiều lần xuất hiện trong các tác phẩm thơ văn của ông, một trong số đó có thể kể đến bài thơ “Sông lấp”.

Trần Tú Xương là một tác giả lớn của văn học trung đại Việt Nam, vì vậy mà trong chương trình ngữ văn lớp mười chúng ta đã được học một tác phẩm thơ nổi tiếng của ông, đó là bài thơ thương vợ. Khác với giọng thơ sâu cay khi đả phá những tầng lớp vua quan, xã hội thực dân nửa phong kiến, bài thơ mang giọng điệu tha thiết, dạt dào thể hiện tình cảm của mình dành cho người vợ tần tảo. Đến chương trình ngữ văn của lớp mười một, chúng ta lại được tìm hiểu thêm một tác phẩm nữa của nhà thơ Trần Tú Xương, đó là bài thơ “Sông lấp”, đây là bài thơ thể hiện được cảm giác trống vắng trước sự thay đổi của cảnh vật, nỗi niềm hoài niệm về những kí ức xưa, khi dòng sông thân thương vẫn gắn liền với cuộc sống của nhà thơ cũng như người dân của quê hương ông.

“Sông kia rày đã nên đồng”

Không vòng vo, thể hiện dông dài về hoàn cảnh hay gợi mở khung cảnh của thực tại mà nhà thơ đã đi thẳng vào chủ đề, thể hiện trực tiếp những gì mà nhà thơ đón nhận được bằng cái nhìn thị giác và gợi ra cảm xúc của chính nhà thơ trước sự đổi thay ấy. “Sông” là một vật thể của tự nhiên, đặc biệt là những vùng nông thôn Việt Nam thì hình ảnh những con sông đã trở nên rất thân thuộc, gần gũi. Bởi với những người chân quê thì họ không chỉ đơn thuần coi con sông là một vật thể, một hiện tượng vô tri, vô giác của tự nhiên mà nó còn là một người bạn gắn bó mật thiết với cuộc sống của họ. Bởi nước ở con sông cung cấp cho con người nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, nước dùng cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, con sông cũng là nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống, gắn liền với kí ức của mỗi người.

Nói như vậy để ta thấy được vị trí, vai trò của con sông đối với cuộc sống cũng như tâm thức của những người dân quê. Và với Trần Tú Xương cũng vậy, vì là một người sinh ra và lớn lên ở vùng quê, bên con sông Vị Hoàng đầy thân thương nên hình ảnh con sông này đã in sâu vào tâm khảm, trong dòng hồi ức của nhà thơ, mà minh chứng tiêu biểu nhất, đó chính là sự xuất hiện trở đi, trở lại của nó trong các sáng tác thơ văn của Tế Xương. Nhưng, mục đích của Tế Xương ở đây không phải là sự dãi bày, bộc lộ tình cảm của mình với dòng sông Vị Hoàng mà thể hiện sự ngỡ ngàng, nuối tiếc khi dòng sông ấy không còn vẹn nguyên mà đã trở thành những cánh đồng canh tác “Sông kia rày đã nên đồng”.

Cuộc sống đổi thay nên con sông kia không còn tồn tại ở vị trí vốn có của nó nữa mà đã được đổ đầy, để trở thành những bãi, những đồng canh tác nông nghiệp. Không chỉ vậy, vị trí bị lấp của con sông đã được thay thế bởi rất nhiều hoạt động của con người, không chỉ là nơi dùng để canh tác, mà còn dùng để sinh sống, trồng các loại lương thực, thực phẩm. Đó đều là những thứ phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt của con người. Đời sống của con người càng phát triển thì những nhu cầu của cuộc sống càng được nâng cao, cái gắn bó bị đổi thay để nhường chỗ cho những hoạt động mới, cuộc sống mới của con người:

“Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai”

Qua câu thơ, ta tiếp tục có những liên tưởng về dòng sông bị lấp, tại vị trí của dòng sông ngày nào nay không còn, nhà thơ không cung cấp những hình ảnh, khúc xạ của con sông ấy, người đọc cũng không có những dữ liệu để hình dung, mường tượng. Sự liên tưởng của người đọc qua hai câu thơ đầu này chính là những vật thay thế cho con sông ấy, nơi con sông ngự trị không chỉ là những cánh đồng, những bãi đất để trồng hoa màu, sản xuất nông nghiệp mà khu đất ấy còn bị thay thế bởi những ngôi nhà mới được xây lên của con người, và những khu đất, luống đất trồng đầy ngô, khoai, những thứu phục vụ đắc lực cho cuộc sống hàng ngày của họ.

Điều đáng nói là bài thơ này được sáng tác không phải thể hiện cảm xúc nhất thời, trực tiếp của tác giả ngay khi dòng sông Vị Hoàng bị lấp, mà đây chính là sự ngỡ ngàng, bối rối khi nhà thơ chợt nhận ra, chợt nhớ ra. Bởi, trong guồng quay của cuộc sống mới, những bộn bề của cuộc sống, những lo toan về sự sinh tồn đã khiến cho nhà thơ Trần Tế Xương đã vô tình lãng quên đi, vô tình quen với cuộc sống mới có nhiều đổi thay này. Vì đã vô tình lãng quên, không để tâm nên những thay đổi cũng đi sâu, trở thành những gì quen thuộc, thường nhất. Con sông Vị Hoàng kia không mất đi trong kí ức của nhà thơ mà nó bị che vùi bởi những thói quen mới. Để khi vô tình, những kí ức ấy được lật mở thì nhà thơ không tránh được cảm giác giật mình, xúc động:

“Đêm nghe tiếng ếch bên tai”

Ta có thể thấy ở đây, cuộc sống của nhà thơ tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn là cuộc sống dân dã của những người nông dân, vẫn sống gần gũi, gắn bó với tự nhiên, bởi điều này được thể hiện trực tiếp qua âm thanh tiếng ếch trong đêm. Đêm khuya là khoảng thời gian mà cả con người và vạn vật chìm sâu vào giấc ngủ, không gian của đêm khuya là một màu đen bao phủ, là vẻ tịch mịch thường thấy. Nhưng cũng chính trong không gian này, những âm thanh của tự nhiên mới đánh động vào tâm thức, cảm nhận của con người, gợi mở ra cho con người những kí ức đã bị chôn vùi. Cũng chính sự khai phá, gợi mở ấy đã tạo cho con người, mà ở đây là nhà thơ Trần Tế Xương những cảm xúc vô cùng phức tạp, từ giật mình, bồi hồi nhớ lại rồi tâm trạng bị “đeo” nặng bởi những xót xa, mất mát không nói lên lời.

Có thể là trong giấc ngủ, những tiếng ếch kêu đã đánh động làm nhà thơ thức giấc, hoặc cũng có thể nhà thơ vốn chưa ngủ, và khi nghe thấy tiếng ếch kêu thì chợt giật mình, tâm thức nhận nhớ lại những âm thanh quen thuộc, từng gắn bó một thời với mình và cũng từng bị chính mình quên lãng, để nó chìm sâu trong dòng hồi ức. Nhưng ta cũng phải thấy rằng những hồi ức của nhà thơ không hề mất đi mà chỉ là tạm quên lãng, bởi chỉ những tác động nhỏ, những âm thanh vô tình thôi cũng đã gợi nhắc, làm những kí ức ấy sống dậy mạnh mẽ đến vậy. Nói cách khác, nếu không gắn bó, thân thuộc, không có những ý nghĩa lớn với cuộc sống của nhà thơ thì tiếng ếch mơ hồ ấy cũng đâu dễ tác động.

Nếu như câu thơ trên thể hiện sự tác động của tiếng ếch đêm đến tác giả Trần Tú Xương, ta mập mờ dự đoán đó là những kí ức của quá khứ, của những hồi ức, kỉ niệm đã qua, nhưng chưa dám chắc chắn đối tượng bị tác động đó thực chất là gì, thì ngay câu thơ cuối cùng của bài nhà thơ Trần Tú Xương cũng đã trình bày một cách rõ ràng, rành mạch:

“Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”

Và đến câu thơ này thì ta có thể nhận diện được rõ nét đối tượng mà nhà thơ nhớ lại, là kí ức trở về trong tâm thức của nhà thơ. Đó chín là âm thanh của tiếng gọi đò, tiếng ếch kêu trong đêm vang vọng làm nhà thơ giật mình ngỡ như mình vừa nghe tiếng gọi đò thân thuộc ngày nào. “Giật mình” là trạng thái bất ngờ, hoang mang đến tận độ khi những yếu tố ngoại cảnh tác động đến con người mà không hề có sự thông báo trước, không có dấu hiệu nhận biết và người bị tác động hoàn toàn bị động, không có sự chuẩn bị về tâm lí nên không tránh được sự ngỡ ngàng, hoang mang. Tiếng gọi đò ấy dường như đã ngủ quên nhưng trước tác động của âm thanh tiếng ếch kêu đã làm cho kí ức về âm thanh quen thuộc cũng như kỉ niệm về dòng sông thân quen.

“Sông lấp” là bài thơ viết về sự hồi sinh của những kí ức thân quen, đó là những kí ức vốn thân quen, gắn bó nhưng do nhịp vận động không ngừng của cuộc sống, những lo toan, bộn bề mà nhà thơ đã có lúc lãng quên, đã dần quen với cuộc sống mới mà những gì thân thuộc bị đẩy lùi vào dòng hồi ức. Nhưng qua bài thơ ta cũng thấy tình cảm dạt dào, thiết tha của nhà thơ với kí ức, với dòng sông thân quen vì nhà thơ nhận thức được sự đổi thay đó, đã giật mình mà thức tỉnh. Đây cũng là điều rất đáng quý.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 6.444
0 Bình luận
Sắp xếp theo