Top 4 bài phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng

Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng - Nếu như 13 câu đầu bài Vội vàng tác giả đã thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt thì ở đoạn 2 bài Vội vàng lại là sự xót xa ngậm ngùi của tác giả trước giới hạn của cuộc đời. Sau đây là dàn ý phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng cùng các bài văn mẫu phân tích đoạn 2 bài Vội vàng, cảm nhận 16 câu giữa bài Vội vàng siêu hay để các bạn hiểu rõ được tâm tư của tác giả gửi gắm qua bài thơ Vội vàng.

Đọc bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, ta thấy được một quan niệm về thời gian thật mới mẻ. Nhà thơ sử dụng các cặp từ đối lập để khẳng định sự quý giá của tuổi xuân của tuổi trẻ. Qua góc nhìn của Xuân Diệu, ta có thể thấy sự rộng mở của tấm lòng nhà thơ để ôm trọn tất cả những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống đồng thời tác giả cũng bày tỏ sự tiếc nuối khi biết đời người là hữu hạn chẳng thể nào thay đổi được quy luật của thời gian. Sau đây là tổng hợp các mẫu phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng giúp bạn đọc cảm nhận rõ hơn về về tác phẩm cũng như hồn thơ Xuân Diệu gửi gắm qua bài thơ.

1. Dàn ý Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng

Dàn ý Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng 

a) Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng

- Dẫn dắt, giới thiệu 16 câu thơ giữa : Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang 16 câu thơ giữa, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.

b) Thân bài

- Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

=> Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới - qua, non - già, hết - mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn - để khẳng định một chân lý - triết lý: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.

- Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.

- Cũng là gió, là chim... nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng làm nổi bật nghịch lý giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

- Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

=> Còn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.

c) Kết bài

Những vần thơ của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ.

2. Phân tích Vội vàng khổ 2

Xuân Diệu là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ xuất sắc và đa dạng về phong cách từ văn thơ cho đến phê bình văn học, dịch thuật. Các tác phẩm thơ của Xuân Diệu luôn dạt dào cảm xúc, sự khát khao yêu thương và giao cảm với thiên nhiên và con người. Đặc biệt qua 16 câu thơ giữa bài Vội vàng là những lời giục giã sống, mong muốn hòa mình vào không gian mênh mông của đất trời cũng như sự nuối tiếc về sự sống quá ngắn ngủi.

Qua đoạn 2, người đọc cảm nhận được nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra những phát hiện về sự chảy trôi của thời hạn. Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ với cách ngắt nhịp lẻ 3/5 như một sự vỡ lẽ. Bước chân của thời hạn cứ thế mà trôi đi qua từng câu chữ

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Các trạng thái của thời hạn lần lượt được nêu ra. Nhưng đó không phải là khung cảnh sinh động mà là những trạng thái trái chiều “ đương tới ” – “ đương qua ” và “ còn non ” – “ sẽ già ”. Các trạng thái ấy cũng chính là sự tiếp nối của chúng trong vòng xoay của thời hạn .

Thời gian hoạt động không ngừng, mọi thứ cũng không ngừng thay đổi. Nếu trong văn học trung đại, thời hạn là một vòng tròn tuần hoàn không ngừng lặp lại của sinh lão bệnh tử. Vì vậy, con người trung đại tuy ý thức được sự nhỏ bé của mình trước dòng chảy của thời hạn nhưng rất ít khi ta thấy họ cất lời than phiền vì đời sống ngắn ngủi. Như Mãn Giác thiền sư từng viết

“Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai ”
( Cáo tật thị chúng – Mãn Giác thiền sư )

Nhưng trong thời đại Thơ mới, con người đã ý thức rõ sự hạn hữu của đời người. Thời gian không còn là vòng tròn bất tận mà là một đường thẳng tuyến tính. Trong dòng chảy của thời hạn, con người chỉ như một hạt cát nhỏ bé giữa sa mạc. Thời gian vô tận mà đời người hạn hữu. Vì vậy mà đứng trước thời hạn con người thường thấy mình nhỏ bé bất lực, chỉ hoàn toàn có thể buông xuôi nhìn thời hạn qua lẽ tay. Mới khi nào mùa xuân còn tươi đẹp thì mai đây nó sẽ trở nên già cỗi như một quy luật tất yếu

“Hoa nở để mà tàn Trăng tròn để mà khuyết ”
( Hoa nở để mà tàn – Xuân Diệu )

Bước đi của màu xuân cũng là bước tiến của thời hạn và bước tiến của đời người. Phép điệp “ nghĩa là ” càng nhấn mạnh vấn đề thêm sự giật mình có phần hoảng loạn về dòng chảy của thời hạn của cuộc sống. Người ta thường chỉ tiếc mọi thứ khi nó đã qua đi, khi nó chỉ còn là kỷ niệm nhưng Xuân Diệu là tiếc mùa xuân ngay khi nó đang đến, ngay khi ông đang đắm mình trong bức tranh xuân ấy. Đó không chỉ là mùa xuân của đất trời mà còn là mùa xuân của đời người. Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 để thấy Xuân Diệu còn lấy thời hạn của đời người để làm thước đo cho thời hạn của ngoài hành tinh .

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”

Những câu thơ được nối kết nhau bởi từ “ xuân ”. Điệp từ “ xuân ” được lặp lại để nhấn mạnh vấn đề mùa xuân của đất trời cũng như nhấn mạnh vấn đề mùa xuân của tuổi trẻ. Đó đều là những gì đẹp nhất của đất trời, của đời người. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, những tưởng thời hạn bốn màu xuân hạ thu đông cứ thể mà chảy trôi mặc kệ sự sống sót của con người, nhưng trong những dòng thơ của Xuân Diệu chúng lại có mối quan hệ kết nối với nhau .
Thời gian vạn vật thiên nhiên kết thúc “ xuân hết ” nhưng kéo theo đó “ tôi cũng hết ”. Câu thơ vang lên như nhue một tiếng thở dài cùng đất trời. Tuổi trẻ qua đi thì sự sống sót của “ tôi ” cũng trở nên không có ý nghĩa. Bởi tuổi trẻ qua đi, tình yêu không còn thì mọi thứ cũng cứ thế mà trôi đi cùng dòng chảy của thời hạn. “ Lòng tôi ” và “ lượng trời ” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn .

Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được lan rộng ra đến vô cùng “ lòng tôi rộng ” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời hạn của đất trời lại trở nên nhỏ bé “ lượng trời cứ chật ”. Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 còn cho thấy thời hạn đất trời dường cũng đang trêu chọc con người. Mùa xuân của đất trời dù sẽ lặp lại nhưng màu xuân của đời người – tuổi trẻ thì vĩnh viễn không hề quay trở lại. Vì thế dù thời hạn có lặp lại thì mọi thứ cũng không có ý nghĩa bởi lúc đó “ tôi ” không còn là “ tôi ” của thời điểm ngày hôm nay. Như chính Xuân Diệu đã từng nói

“Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút ấy sang tôi phút này ”

(Đi thuyền – Xuân Diệu )

Sự hạn hữu của đời người với thời hạn được bộc lộ rõ nét nhất ở dòng thơ “ Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi ”. Trời đất cứ thế mà xoay vần nhưng tôi sẽ không vĩnh hằng cùng đất trời. Lúc này, hẹn ước ba sinh hay một đời sống chốn thiên đường cũng không hề xoa dịu tâm hồn thi nhân. Bởi lẽ điều ông cần không phải là niềm hạnh phúc ở một kiếp nào khác mà phải là được tận thưởng hương sắc cuộc sống được niềm hạnh phúc ngay trong khoảng thời gian ngắn hiện tại khi tuổi trẻ đang đến, tình yêu đang xuân sắc .

Thế nhưng, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc sẽ thấy dù biết trước “ tôi ” sẽ không sống sót vĩnh viễn để tiếp đón vạn vật thiên nhiên đất trời tươi đẹp nhưng Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “ cả đất trời ”. Xuân Diệu có vẻ như đang hụt hẫng vì không hề tận thưởng hết mọi hương sắc của cuộc sống. Qua đây ta thấy những dòng thơ này, mạng lưới hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản trái chiều cao độ “ rộng ” – “ chật ”, “ xuân tuần hoàn ” – “ tuổi trẻ chẳng hai lần ”, “ còn ” – “ chẳng còn ”. Điều đó đã góp thêm phần làm điển hình nổi bật tâm trạng hụt hẫng trước thời hạn, cuộc sống .
Trước dòng chảy ấy không chỉ Xuân Diệu cảm thấy hụt hẫng mà mọi vật cũng mang sắc tố u buồn, đầy mất mát chia tay .

“Mùi tháng năm đều rớm vị li biệt Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ”

Tháng năm – thời hạn không được cảm nhận qua sự đổi khác biến thiên của vạn vật trôi qua kẽ lá mà được cảm nhận bằng khứu giác “ mùi tháng năm ”. Khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2, ta nghe có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa hụt hẫng hụt hẫng trong từ “ rớm ” ấy. Hóa ra thời hạn không vô tình như ta vẫn thường nghĩ mà tháng năm có vẻ như cũng đang hụt hẫng cho chính bản thân mình. Ý thơ ấy gợi ta liên tương đến cảm nhận của Đoàn Phú Tứ

“Màu thời hạn không xanh Màu thời hạn tím ngát Hương thời hạn không nồng Hương thời hạn thanh thanh ”

( Màu thời hạn – Đoàn Phú Tứ )

Cuộc chia tay báo trước không thể nào thoát khỏi. Không chỉ thời hạn mà cả khoảng trống cũng tràn ngập dự cảm chia lìa. Đó là khoảng trống to lớn của cả sông núi. Cảnh vật tươi đẹp hiện tại rồi sẽ trở thành quá khứ. Mỗi phút mỗi giây đều trôi đi không níu lại được. Cuộc chia tay mỗi phút mỗi giây vẫn cứ diễn ra như vậy. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc thấy rằng từ cảm nhận chung về cả khoảng trống to lớn, Xuân Diệu mở màn vẽ ra cuộc chia tay của vạn vật một cách đơn cử hơn

“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ? ”

Vẫn là hình ảnh chim, gió nhưng không còn rộn ràng sung sướng của khúc ca yến anh hay của cành tơ phơ phất mà cũng hòa vào bản nhạc buồn chia tay của sông núi. Cơn gió không reo vui cùng cành lá, đem lời ca niềm vui lan tỏa đến mọi người mà cơn gió ấy chỉ “ thì thào trong lá biếc ” có vẻ như đang hờn giận điều gì .

Đến tiếng chim không còn gảy khúc tình si mà bỗng dưng lặng im. Hót để mà chi khi sau cuối vẫn phải nói lời ly biệt. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc phát hiện ra biện pháp nhân hóa đã được sử dụng tinh xảo để góp thêm phần tô đậm thêm nỗi buồn vạn vật trước thời gian biệt ly sắp đến. Mỗi sự vật có vẻ như đang tiễn biệt chính mình, khoảng trống cất lên khúc hát tiễn biệt thời hạn. Mọi thứ cứ thế chảy trôi theo quy luật quản lý và vận hành tự nhiên của nó không sao cưỡng lại được .

Trước bài ca ly biệt của núi sông, thi nhân cũng cất lên một tiếng thở dài cùng đất trời đầy nuối tiếc .

“Chẳng khi nào ôi ! chẳng khi nào nữa”

Câu thơ như một lời kêu đầy tá hỏa và bất lực. Hốt hoảng bởi lẽ đời sống trần gian ngắn ngủi nhưng hương sắc cuộc sống lại bát ngát khi thi nhân vừa phát hiện một chốn bồng lai nơi hạ giới. Bất lực là bởi trước dòng chảy của thời hạn con người lại không hề xoay vần con tạo cứ thế mà bị cuốn trôi đi không sao níu giữ .

Phép điệp “ chẳng khi nào ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng hụt hẫng ấy. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, ta còn thấy thán từ “ ôi ” Open như một sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ vì vậy mà càng trở nên da diết hơn. Tuy bàng hoàng tá hỏa hụt hẫng nhưng Xuân Diệu không buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của thời hạn nhưng không buông bỏ, ngồi im chờ đón thời hạn trôi. Xuân Diệu đã tìm ra một cách xử lý .

“ Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm ”

Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia tay sẽ đến mà quên lãng đi thực tại. Thời gian chảy trôi nhưng hiện tại “ mùa chưa ngả chiều hôm ” đời sống vẫn đang tiếp nối, cảnh sắc trần gian vẫn còn đó đầy tươi đẹp điệu đàng lòng người .
Vì vậy, buồn mà chi, tuyệt vọng trước điều không hề biến hóa để làm gì. “ Mau đi thôi ”, mau cố gắng nỗ lực trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận thưởng bữa tiệc vui tươi mà vạn vật thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc cảm nhận được đây chính là một lẽ sống tích cực. Một thanh âm trong trẻo xóa tan đi khúc nhạc u buồn chia tay .

Bằng những nét phác họa vạn vật thiên nhiên cùng với việc sử dụng từ ngữ khôn khéo, Xuân Diệu đã vẽ ra một cuộc chia tay của núi sông. Giọng thơ như phân tách làm hai, nhà thơ đang tự nói với chính mình, giãi bày nỗi lòng mình mà có vẻ như lời nói ấy cũng hướng ra ngoài .
Trên cái nền chia tay ấy, người ta dễ rơi vào những xúc cảm xấu đi buồn bã, oán than, phẫn nộ, bỏ mặc buông xuôi cuộc sống. Nhưng Xuân Diệu lại không bỏ mặc hay phẫn nộ trước cuộc sống. Bởi ông hiểu đó là điều tất yếu của đời sống. Vì vậy, Xuân Diệu không oán than hờn trách nữa ông đồng ý và nỗ lực sống hết mình từng phút giây ngắn ngủi nhưng đầy hương sắc. Vì thế, vội vàng không phải là lối sống xấu đi mà là một khát khao mãnh liệt sống trọn với cuộc sống. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 người đọc sẽ thấy khát khao sống cháy bỏng của thi nhân

Tóm lại, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc nhận ra tuy biểu lộ tâm trạng nuối tiếc thời hạn và cuộc sống nhưng qua đó ta còn phát hiện một khát khao can đảm và mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời. Lời thơ cũng do đó là chính là tiếng lòng của Xuân Diệu dành cho người cho đời. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng thêm yêu thêm quý những ý niệm sống mới mẻ và lạ mắt đầy tích cực được thi sĩ Xuân Diệu truyền tải trong thơ .

3. Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng ngắn gọn

Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.

Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian "tuần hoàn" nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới - qua”, “non - già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” - “chật”, “xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” - “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.

Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.

Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.

Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.

Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạnh thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mây khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết:

“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”

Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia li sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.

Chỉ với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời.

4. Phân tích đoạn 2 bài Vội vàng

Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chố nước non lặng lẽ này.”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong cách của ông – Vội vàng. Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.

Tại sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có lẽ vì thi sĩ có quan niệm rất mới về thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên Xuân Diệu luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng khắc, từng phút giây. Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nói:

Tôi từ phút ấy trôi qua phút này

Diều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào.

Để tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí: mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoàn:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Với Xuân Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Thế là Xuân Diệu tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi xuân mới bắt đầu:

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua cửa sổ, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt

“Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hầu” (Thế Lữ), Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian thì rớm vị chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiêm mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật tàn phai nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong tượng trưng Phá, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất Tây, rất hiện đại về thời gian:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.

Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách cảm nhận như vậy.

Khép lại phần thơ thứ nhất – phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng, hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Lời giục giã hối thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rẩt điển hình, tiêu biêu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vội:

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi

– Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai

Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn

– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ

Em, em ơi tình non sắp già rồi!

“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hôm” là mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế hãy vội vàng mau chóng tận hưởng hương sắc của nó.

Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cá thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trâng trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.

5. Cảm nhận 16 câu giữa bài Vội vàng

Xuân Diệu nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, thơ của ông thể hiện tình cảm ham muốn thưởng thức trọn vẹn tuổi trẻ, trân trọng khoảng thời gian quý báu của tuổi trẻ chỉ đến một lần trong đời. Bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, dạt dào của tác giả, khát vọng sống nhanh nhưng có ý nghĩa.

Ngay từ nhan đề bài thơ đã thể hiện rõ tư tưởng của tác giả, “vội vàng” trước dòng chảy của thời gian. Ông sống gấp rút và muốn ôm gọn vẻ đẹp thiên nhiên vào lòng, thực hiện những điều phi lí như tắt nắng, buộc gió chỉ để níu kéo vẻ đẹp của thiên nhiên ở lại. Thời gian trôi là dòng chảy không ngừng, không có ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông, thời gian tuổi trẻ trôi qua là quy luật của cuộc sống. Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện khát vọng sống mãnh liệt, sống vội vàng để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp từ thiên nhiên.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây là cửa cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si”

Khổ thơ thứ 2 tác giả đã phô bày những vẻ đẹp tuyệt vời nhất của thiên nhiên đó là “ong bướm”, “yến anh” hình ảnh ong bướm trong tuần tháng mật đó là quãng thời gian tươi đẹp nhất, “yến anh” gắn bó với nhau không xa rời, đó chính là tình yêu đôi lứa ngọt ngào, hạnh phúc. Tác giả cảm nhận thiên nhiên đang trong giai đoạn tràn đầy sức sống, tươi đẹp nhất.

Nếu như khổ thơ đầu tác giả muốn thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp thiên nhiên nên phải sống nhanh, vội vã thì trong khổ thơ hai của bài thơ đã lý giải vì sao ông có suy nghĩ như vậy.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”

Mùa xuân của đất trời cứ tuần hoàn, còn đời người ngắn ngủi, cuộc đời của con người không cho phép ta sống mãi để thưởng thức mùa xuân. Vậy nên cũng dễ hiểu khi Xuân Diệu lo âu khi thời gian trôi đi, trong thơ của ông mọi vật bắt đầu có sự tàn phai theo thời gian.

“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”

Thời gian chia phôi, thiên nhiên cũng như vậy, cơn gió hờn dỗi vì phải rời xa lá biếc, chim không còn hót véo von rộn ràng mà trở nên im bặt. Tất cả đều không thể chống lại quy luật của tạo hóa, thời gian trôi mọi vật phải tàn phai. Đó đều là những cảm nhận riêng tinh tế, mới mẻ về thời gian của tác giả.

Sau khi hiểu ra rằng con người không thể tắt nắng, buộc gió níu giữ thiên nhiên ở lại, nhà thơ đã hối thúc mọi người phải sống vội vàng, khẩn trương: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm. Đó là lời kêu gọi mạnh mẽ của Xuân Diệu hãy sống hết mình đam mê cháy bỏng cho từng phút giây của cuộc sống.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi, con người hữu hạn trong vòng tuần hoàn vô hạn của cuộc sống, nhà thơ muốn nhắn nhủ đến mọi người hãy sống vội vàng, đam mê cháy bỏng, sống hết mình để tận hưởng cuộc đời này thật trọn vẹn và ý nghĩa.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
16 69.666
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo