Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ Than nỗi oan - Cao Bá Nhạ

Nghị luận phân tích một tác phẩm văn học thơ song thất lục bát Than nỗi oan - Cao Bá Nhạ

Than nỗi oan là văn bản trích từ tác phẩm Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ. Đây là một bài thơ được viết theo thể thơ song thất lục bát. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ dàn ý phân tích đoạn trích Than nỗi oan trong tác phẩm Tự tình khúc cùng với bài văn mẫu nghị luận phân tích một tác phẩm văn học thơ song thất lục bát bài thơ Than nỗi oan hay và chi tiết sẽ giúp các em nắm được cách làm dạng bài này.

Nghị luận phân tích một tác phẩm văn học thơ song thất lục bát Than nỗi oan - Cao Bá Nhạ

Văn bản: Than nỗi oan (Trích Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ)

“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
Đầu ngón tay máu chảy pha son
Người đau phong cảnh cũng buồn
Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai

Mối tâm sự rối mười phần thảm
Gánh gia tình nặng tám năm dư
Khi ngày mong bức xá thư
Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng

Hương thề nguyện khói nồng trước gió
Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời
Tờ oan kể hết bao lời
Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”

1. Dàn ý phân tích đoạn thơ Than nỗi oan

Mở bài

- Dẫn dắt: Từng được đánh giá là “Một khúc ngâm lâm ly thống thiết nhất trong văn chương cổ điển Việt Nam” (Đái Xuân Ninh).

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Tự tình khúc” xứng đáng là một áng văn bất hủ, là tiếng kêu tha thiết nói lên nỗi oan khổ của Cao Bá Nhạ.

- Nêu nhận định chung về tác phẩm/ đoạn trích: Trong đó “Than nỗi oan” là một đoạn trích rất đặc sắc, thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả.

- Trích đoạn trích:

“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
...

Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”

Thân bài

1. Giới thiệu chung

- Cao Bá Nhạ (chưa rõ năm sinh, năm mất) là cháu ruột của Cao Bá Quát. Năm 1855, Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn, bị triều đình kết án tru di tam tộc. Trong bối cảnh ấy, Cao Bá Nhạ đã phải tha hương cầu thực, trốn chui lủi khắp mọi vùng miền, nhưng đến năm 1862, ông bị tố giác, bị bắt vào ngục, đi đày và sau đó mất.

- Ông đã để lại cho đời hai tác phẩm nghệ thuật vô cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến “Tự tình khúc”. Đây là tác phẩm ngâm khúc, gồm 608 câu thơ song thất lục bát. Tác phẩm được viết khi ông đang bị lưu đày, sống trong cảnh tù tội. Tác phẩm là một khúc ngâm lâm ly, thống thiết, là một thiên tình cảm chân thực của một con người bị vạ lây, oan trái.

- Đoạn trích “Than nỗi oan” thuộc phần giữa của tác phẩm, đoạn trích là tiếng lòng, là lời than cho số phận oan trái của mình.

2. Phân tích đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

*Khổ 1:

- Hình ảnh:

+ “Đuôi con mắt châu sa thấm giấy/ Đầu ngón tay máu chảy pha son”: Ở trong chốn ngục tù tối tăm, đau đớn vì cảnh gia đình tan tác, Cao Bá Nhạ cảm thấy đau buồn cho cuộc đời của mình. Giọt nước mắt cứ thế mà lăn dài, thấm ướt hết trang giấy, máu chảy ra đầu ngón tay hòa vào trong son mực. Khúc tự tình như được viết bằng máu và nước mắt của ông vậy.

+ “Người đau phong cảnh cũng buồn”: mang trên mình cái án của một kẻ tội tù, tâm trạng của Cao Bá Nhạ không bao giờ có thể thư thái, vui vẻ một chút. Vì thế mà thiên nhiên, cảnh vật xung quanh cũng trở nên buồn bã, như muốn san sẻ, chia bớt nỗi buồn với tác giả.

+ “Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai”: thông, cúc, trúc, mai là các hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp của người quân tử. Nhưng giờ đây vẻ đẹp ấy đang dần bị hao mòn đi vì cái án oan khất, khó mà giải được.

- Từ ngữ: châu sa, máu chảy, đau, buồn, gầy, mòn: diễn tả và nhấn mạnh bối cảnh cũng như nỗi buồn mà tác giả đang phải gánh chịu.

- Biện pháp nghệ thuật:

+ Nói quá: châu sa thấm giấy, ngón tay máu chảy pha son: diễn tả nỗi đau buồn oan trái đến cùng cực trong tâm hồn của thi sĩ.

+ Tả cảnh ngụ tình trong hai câu thơ: “Người đau phong cảnh cũng buồn/ Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai”: thể hiện thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng của con người.

+ So sánh: thông gầy như trúc, cúc mòn như mai: nhấn mạnh thêm sự khổ cực và nỗi đau buồn mà Cao Bá Nhạ đang phải gánh chịu.

=> Kết luận: Chỉ trong vỏn vẹn bốn dòng thơ ngắn ngủi, nhưng những nỗi niềm của tác giả đã được thổ lộ dần. Câu thơ nhuốm một màu sắc bi thương khó tả, diễn tả nỗi đau và tâm trạng của Cao Bá Nhạ khi phải sống trong cảnh tội tù oan trái.

*Khổ 2:

- Hình ảnh:

+ “Mối tâm sự rối mười phần thảm/ Gánh gia tình nặng tám năm dư”: câu thơ là tiếng lòng, là lời tâm sự của nhân vật trữ tình về chính số phận oan trái của mình. Đã tám năm từ ngày cụ Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, cả gia đình họ Cao phải sống trong những ngày tháng khổ sở, người sống không rõ, người chết trong cảnh nhục nhã ê hề.

+ “Khi ngày mong bức xá thư/ Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng”: Cao Bá Nhạ đã gửi gắm mong ước của mình vào trong những vần thơ. Dù biết điều đó thật khó để xảy ra trong một chế độ phong kiến đầy sự mục rỗng như vậy, nhưng biết làm chi cho qua ngày qua tháng, tác giả chỉ đành ngậm ngùi gửi những mong ước ấy vào hư vô.

- Từ ngữ: mười phần thảm, nặng tám năm dư, mong, than bóng, hỏi lòng: thể hiện sự bất lực của Cao Bá Nhạ trước hoàn cảnh của mình.

- Biện pháp tu từ:

+ Đối, liệt kê: “mười phần thảm” với “tám năm dư”; “khi ngày mong bức xá thư/ khi đêm than bóng/ khi trưa khỏi lòng”: nhấn mạnh vào nỗi oan khuất và sự đau buồn của tác giả, chính điều đó vẫn luôn ám ảnh trong tâm hồn của nhân vật trữ tình âm ỉ từ đêm tới trưa, từ ngày này qua tháng khác.

=> Kết luận: Khổ thơ trên là tiếng lòng tâm sự của tác giả, cũng như là lời thổ lộ mong ước được giải oan của chính mình.

*Khổ 3:

- Hình ảnh:

+ “Hương thề nguyện khói nồng trước gió”: tác giả không hề thẹn với lòng mình, cái án mà cả gia tộc ông đang phải gánh chịu là một nỗi oan khuất. Cao Bá Nhạ sẵn sàng thề với lòng mình, gửi gắm nỗi oan khuất vào gió để đưa lên cùng với trời cao.

+ “Tờ tố oan mở ngõ giữa trời”: không thể trông chờ vào triều đình nhà Nguyễn, trông chờ vào chế độ phong kiến lúc bấy giờ, sự oan khuất này chỉ đành có thể gửi trời xanh chứng giám.

+ “Tờ oan kể hết bao lời/ Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”: Nỗi đau tru di tam tộc vẫn luôn âm ỉ trong suốt cuộc đời của tác giả. Kể sao cho hết nỗi oan ấy, kêu sao cho được chín cửu trùng đều nghe thấy tiếng oan khuất này. Câu thơ đã thể hiện nỗi đau giằng xé trong tâm hồn ông cũng như sự bất lực của tác giả trước thời đại.

- Từ ngữ: mở ngõ giữa trời, kể hết bao lời, sao chửa thấu nơi cửu trùng

- Biện pháp nghệ thuật:

+ Điệp từ, điệp cấu trúc: “hương thề nguyện”, “hương thề”, “tờ tố oan”, “tờ oan”

+ Câu hỏi tu từ: Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng?

=> Kết luận: Nhấn mạnh sự bất lực đến tột cùng của tác giả. Cao Bá Nhạ bất lực cất lên tiếng kêu giải oan đau xé lòng giữa một xã hội phong kiến thối nát, nhưng dường như tiếng kêu ấy chỉ có thể bay vào trong vô vọng, không một ai giãi bày.

3. Đánh giá chung

- Nghệ thuật:

+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình: xuyên suốt đoạn trích một màu sắc u tối nhuốm lên cảnh vật, nỗi buồn, nỗi oan khuất của tác giả đã nhuốm lên cảnh vật khiến cho phong cảnh cũng phải đau buồn theo.

+ Giọng điệu u buồn, đau xót, bất lực trước thời thế.

+ Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng đã góp phần làm nên thành công của đoạn trích.

- Nội dung: Đoạn trích “Than nỗi oan” đã khắc họa rất thành công tâm trạng của Cao Bá Nhạ trong những ngày tháng tác giả sống trong chốn ngục tù. Chỉ trong vỏn vẹn ba khổ thơ ngắn nhưng những nỗi đau xót cùng tiếng kêu oan khuất của tác giả đã được thể hiện rất rõ nét. Đoạn trích chính là một bản cáo trạng đanh thép lên án chế độ bất lương của giai cấp phong kiến nhà Nguyễn đã chà đạp lên tính mạng, tài năng, trí tuệ và quyền sống của con người mà chính Cao Bá Nhạ là một trong số nạn nhân đó. “Than nỗi oan” xứng đáng là một trong những đoạn trích sâu sắc nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật của thi phẩm.

4. Liên hệ, mở rộng

Thơ là tiếng nói của tình cảm, là nơi để con người giãi bày cảm xúc của mình, vì thế đã không ít người tìm đến với thơ để cất lên lời ca ai oán của mình về cuộc đời. Trong đó có thể kể tới, tiếng kêu nghẹn ngào sầu oán của người phụ nữ trong “Cung oán ngâm khúc”:

“Đêm năm canh lần nương vách quế,

Cái buồn này ai để giết nhau,

Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu,

Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!”

Khác với “Tự tình khúc” của Cao Bá Nhạ, “Chinh phụ ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều lại là tiếng thét oán hờn của một người phụ nữ bị chế độ phong kiến đối xử phũ phàng và tàn ác. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm cả những đặc quyền phong kiến vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành một món đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang dâm vô độ. Rồi lại một mình trở về chốn khuê phòng, chôn mòn tuổi xuân trong căn phòng đơn côi gối chiếc. Nỗi oán hờn ấy đã ngấm sâu vào trong từng trang chữ, cất lên những tiếng kêu tố cáo xã hội lúc bấy giờ.

Kết bài

- Khẳng định lại giá trị và ý nghĩa của đoạn trích: Có thể thấy rằng, “Than nỗi oan” là một đoạn trích rất đặc sắc của tác phẩm “Tự tình khúc”, là tiếng kêu oan thống thiết của tác giả trước một cuộc đời đầy những ngang trái.

- Liên hệ bản thân/ thời đại: Chính những cảm xúc chân thành ấy và sự tài năng của mình, mà tác phẩm ấy đã được lưu truyền muôn đời, sống mãi trong lòng của bạn đọc bao thế hệ về sau.

2. Bài văn nghị luận đoạn trích Than nỗi oan - Cao Bá Nhạ

Từng được đánh giá là “Một khúc ngâm lâm ly thống thiết nhất trong văn chương cổ điển Việt Nam” (Đái Xuân Ninh), “Tự tình khúc” xứng đáng là một áng văn bất hủ, là tiếng kêu tha thiết nói lên nỗi oan khổ của Cao Bá Nhạ. Trong đó “Than nỗi oan” là một đoạn trích rất đặc sắc, thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả:

“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
...

Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”

Cao Bá Nhạ (chưa rõ năm sinh, năm mất) là cháu ruột của Cao Bá Quát. Năm 1855, Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn, bị triều đình kết án tru di tam tộc. Trong bối cảnh ấy, Cao Bá Nhạ đã phải tha hương cầu thực, trốn chui lủi khắp mọi vùng miền, nhưng đến năm 1862, ông bị tố giác, bị bắt vào ngục, đi đày và sau đó mất.

Ông đã để lại cho đời hai tác phẩm nghệ thuật vô cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến “Tự tình khúc”. Đây là tác phẩm ngâm khúc, gồm 608 câu thơ song thất lục bát. Tác phẩm được viết khi ông đang bị lưu đày, sống trong cảnh tù tội. Tác phẩm là một khúc ngâm lâm ly, thống thiết, là một thiên tình cảm chân thực của một con người bị vạ lây, oan trái. Đoạn trích “Than nỗi oan” thuộc phần giữa của tác phẩm, đoạn trích là tiếng lòng, là lời than cho số phận oan trái của mình.

Mở đầu của đoạn trích, Cao Bá Nhạ đã khắc họa trước mắt người đọc một khung cảnh vô cùng thê lương buồn bã, hòa cùng với máu và nước mắt:

“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
Đầu ngón tay máu chảy pha son”

Ở trong chốn ngục tù tối tăm, đau đớn vì cảnh gia đình tan tác, Cao Bá Nhạ cảm thấy đau buồn cho cuộc đời của mình. Giọt nước mắt cứ thế mà lăn dài, thấm ướt hết trang giấy, máu chảy ra đầu ngón tay hòa vào trong son mực. Khúc tự tình như được viết bằng máu và nước mắt của ông vậy.

Mang trên mình cái án của một kẻ tội tù, tâm trạng của Cao Bá Nhạ không bao giờ có thể thư thái, vui vẻ một chút. Vì thế mà thiên nhiên, cảnh vật xung quanh cũng trở nên buồn bã, như muốn san sẻ, chia bớt nỗi buồn với tác giả:

“Người đau phong cảnh cũng buồn
Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai”

“Thông”, “cúc”, “trúc”, “mai” là các hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp của người quân tử. Nhưng giờ đây vẻ đẹp ấy đang dần bị hao mòn đi vì cái án oan khất, khó mà giải được.

Bên cạnh các hình ảnh trên, việc sử dụng các từ ngữ như “châu sa”, “máu chảy”, “đau”, “buồn”, “gầy”, “mòn” cùng với các biện pháp tu từ như nói quá: châu sa thấm giấ, ngón tay máu chảy pha son; tả cảnh ngụ tình “người đau phong cảnh cũng buồn” cùng biện pháp tu từ so sánh thông gầy như trúc, cúc mòn như mai cũng đã góp phần diễn tả sự oan trái, khổ cực và nỗi đau buồn mà Cao Bá Nhạ đang phải gánh chịu.

Như vậy, chỉ trong vỏn vẹn bốn dòng thơ ngắn ngủi, nhưng những nỗi niềm của tác giả đã được thổ lộ dần. Câu thơ nhuốm một màu sắc bi thương khó tả, diễn tả nỗi đau và tâm trạng của Cao Bá Nhạ khi phải sống trong cảnh tội tù oan trái.

Với khổ thơ thứ hai, nỗi uất ức ấy đã dâng trào khiến cho tác giả bộc bạch mà tâm sự rằng:

“Mối tâm sự rối mười phần thảm
Gánh gia tình nặng tám năm dư”

Câu thơ là tiếng lòng, là lời tâm sự của nhân vật trữ tình về chính số phận oan trái của mình. Đã tám năm từ ngày cụ Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, cả gia đình họ Cao phải sống trong những ngày tháng khổ sở, người còn sống hay không cũng không rõ, người chết thì chết trong cảnh nhục nhã ê hề.

Cao Bá Nhạ đã gửi gắm mong ước của mình vào trong những vần thơ. Dù biết điều đó thật khó để xảy ra trong một chế độ phong kiến đầy sự mục rỗng như vậy, nhưng biết làm chi cho qua ngày qua tháng, tác giả chỉ đành ngậm ngùi gửi những mong ước ấy vào hư vô.

“Khi ngày mong bức xá thư
Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng”

Cùng với các hình ảnh trên, khổ thơ đã sử dụng các từ ngữ như: “mười phần thảm”, “nặng tám năm dư”, “mong”, “than bóng”, “hỏi lòng”... để thể hiện sự bất lực của tác giả trước hoàn cảnh của mình. Cạnh đó là các biện pháp đối, liệt kê: “mười phần thảm” với “tám năm dư”; “khi ngày mong bức xá thư/ khi đêm than bóng/ khi trưa khỏi lòng” để từ đó nhấn mạnh vào nỗi oan khuất và sự đau buồn của tác giả, chính điều đó vẫn luôn ám ảnh trong tâm hồn của nhân vật trữ tình âm ỉ từ đêm tới trưa, từ ngày này qua tháng khác. Khổ thơ trên là tiếng lòng tâm sự của tác giả, cũng như là lời thổ lộ mong ước được giải oan của chính mình.

Đứng giữa cuộc đời, đối chất với chính lòng mình, Cao Bá Nhạ không hề cảm thấy hổ thẹn, ông sẵn sàng thưa lên với trời cao nỗi oan của đời mình:

“Hương thề nguyện khói nồng trước gió
Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời
Tờ oan kể hết bao lời
Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”

Không thể trông chờ vào triều đình nhà Nguyễn, trông chờ vào chế độ phong kiến lúc bấy giờ, sự oan khuất này chỉ đành có thể gửi trời xanh chứng giám. Nỗi đau tru di tam tộc vẫn luôn âm ỉ trong suốt cuộc đời của tác giả. Kể sao cho hết nỗi oan ấy, kêu làm sao cho được chín cửu trùng đều nghe thấy tiếng oan khuất này. Câu thơ đã thể hiện nỗi đau giằng xé trong tâm hồn ông cũng như sự bất lực của tác giả trước thời đại.

Sự kết hợp của các từ ngữ cùng biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc: “hương thề nguyện”, “hương thề”, “tờ tố oan”, “tờ oan” cùng câu hỏi tu từ: “Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng?” cũng đã góp phần nhấn mạnh sự bất lực đến tột cùng của tác giả. Cao Bá Nhạ bất lực cất lên tiếng kêu giải oan đau xé lòng giữa một xã hội phong kiến thối nát, nhưng dường như tiếng kêu ấy chỉ có thể bay vào trong vô vọng, không một ai giãi bày.

Và để có thể chuyển tải một cách sâu sắc tâm trạng cũng như nỗi oan khuất trong lòng của Cao Bá Nhạ, đoạn trích đã xây dựng rất thành công một số biện pháp nghệ thuật, đặc biệt phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Xuyên suốt đoạn trích một màu sắc u tối nhuốm lên cảnh vật, nỗi buồn, nỗi oan của tác giả đã nhuốm lên cảnh vật khiến cho phong cảnh cũng phải đau buồn theo. Bên cạnh đó sự kết hợp của giọng điệu u buồn, sầu lắng, bất lực trước thời thế cũng đã góp phần trong việc làm nên cấu tứ và mạch cảm xúc cho bài thơ. Cùng với đó, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng là một trong những phương diện quan trọng làm nên sự thành công cho tác phẩm.

Chính nhờ sự kết hợp tài tình của các thủ pháp nghệ thuật, mà các giá trị về mặt nội dung của đoạn trích đã được chuyển tải một cách sâu sắc. Đoạn trích “Than nỗi oan” đã khắc họa rất thành công tâm trạng của Cao Bá Nhạ trong những ngày tháng tác giả sống trong chốn ngục tù. Chỉ trong vỏn vẹn ba khổ thơ ngắn nhưng những nỗi đau xót cùng tiếng kêu oan khuất của tác giả đã được thể hiện rất rõ nét. Đoạn trích chính là một bản cáo trạng đanh thép lên án chế độ bất lương của giai cấp phong kiến nhà Nguyễn đã chà đạp lên tính mạng, tài năng, trí tuệ và quyền sống của con người mà chính Cao Bá Nhạ là một trong số nạn nhân đó. “Than nỗi oan” xứng đáng là một trong những đoạn trích sâu sắc nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật của thi phẩm.

Thơ là tiếng nói của tình cảm, là nơi để con người giãi bày cảm xúc của mình, vì thế đã không ít người tìm đến với thơ để cất lên lời ca ai oán của mình về cuộc đời. Trong đó có thể kể tới, tiếng kêu nghẹn ngào sầu oán của người phụ nữ trong “Cung oán ngâm khúc”:

“Đêm năm canh lần nương vách quế,

Cái buồn này ai để giết nhau,

Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu,

Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!”

Khác với “Tự tình khúc” của Cao Bá Nhạ, “Chinh phụ ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều lại là tiếng thét oán hờn của một người phụ nữ bị chế độ phong kiến đối xử phũ phàng và tàn ác. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm cả những đặc quyền phong kiến vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành một món đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang dâm vô độ. Rồi lại một mình trở về chốn khuê phòng, chôn mòn tuổi xuân trong căn phòng đơn côi gối chiếc. Nỗi oán hờn ấy đã ngấm sâu vào trong từng trang chữ, cất lên những tiếng kêu tố cáo xã hội lúc bấy giờ.

Có thể thấy rằng, “Than nỗi oan” là một đoạn trích rất đặc sắc của tác phẩm “Tự tình khúc”, là tiếng kêu oan thống thiết của tác giả trước một cuộc đời đầy những ngang trái. Chính những cảm xúc chân thành ấy và sự tài năng của mình, mà tác phẩm ấy đã được lưu truyền muôn đời, sống mãi trong lòng của bạn đọc bao thế hệ về sau.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 742
0 Bình luận
Sắp xếp theo