Soạn Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch)

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch) là nội dung bài học trang 133 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập 1 Kết nối tri thức. Thông qua bài học này các em sẽ nhận biết được đặc điểm của kiểu bài viết bài văn phân tích tác phẩm văn học (kịch). Sau đây là gợi ý soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch) lớp  9 KNTT, mời các em cùng tham khảo.

Yêu cầu đối với bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch)

Giới thiệu khái quát về tác phẩm kịch (tên tác phẩm, tên tác giả, thể loại), nêu được nhận định chung về tác phẩm.

Làm rõ được nội dung chủ đề của tác phẩm.

Phân tích được những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm kịch (cốt truyện, nhân vật, hành động, xung đột, lời thoại,...) và hiệu quả thẩm mĩ của chúng; tập trung vào một số yếu tố nghệ thuật nổi bật nhất của tác phẩm.

Triển khai được hệ thống luận điểm chặt chẽ; sử dụng lí lẽ, bằng chứng xác đáng từ tác phẩm kịch để làm sáng tỏ ý kiến nêu trong bài viết.

Khẳng định được ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.

Phân tích bài viết tham khảo vở bi kịch Yêu Ly

Câu hỏi

Trả lời

Phần Mở bài giới thiệu những thông tin nào?

– Phần Mở bài đã giới thiệu được những thông tin về tác giả, tác phẩm , nhận định về tác phẩm

+ Vở kịch Yêu Ly của tác giả Lưu Quang Thuận.

+ Vở kịch lấy đề tài từ lịch sử Trung Quốc nhưng đã nói được những vấn đề chung của con người ở mọi thời đại.

Bài viết nêu lên chủ đề gì của vở kịch?

Bài viết nêu chủ đề về sự xung đột giữa các giá trị ngang bằng nhau: tình chồng vợ, cha con và khát vọng lập công; thân thể, tình tri kỉ và ý chí phụng sự minh chủ.

Bài viết xác định các phương diện đặc trưng của thể loại kịch như thế nào?

Nhân vật bi kịch, xung đột nội tâm của nhân vật; kết cục bi kịch.

Bài viết phân tích phương diện nổi bật nào của vở kịch?

Động cơ hành động của nhân vật, mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, tính lô-gíc của hành động kịch.

Bài viết xác định ý nghĩa, giá trị của vở kịch như thế nào?

Qua nỗi khiếp sợ và xót thương, vở kịch khiến cho người đọc hướng đến những giá trị nhân văn, cảm nhận sâu sắc các mối quan hệ đời sống, tự nhận ra đâu là điều chúng ta coi trọng và lựa chọn

Theo em, bài viết tham khảo có đáp ứng được yêu cầu đối với bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch) không?

Bài viết tham khảo đã đáp ứng được những yêu cầu đối với bài văn phân tích một tác phẩm văn học (kịch).

Em học được điều gì qua cách phân tích của tác giả bài viết tham khảo?

Giới thiệu khái quát về tác phẩm kịch (tên tác phẩm, tên tác giả, thể loại), nêu được nhận định chung về tác phẩm.

Làm rõ được nội dung chủ đề của tác phẩm.

Phân tích được những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm kịch (cốt truyện, nhân vật, hành động, xung đột, lời thoại,...) và hiệu quả thẩm mĩ của chúng; tập trung vào một syếu tố nghệ thuật nổi bật nhất của tác phẩm.

Triển khai được hệ thống luận điểm chặt chẽ; sử dụng lí lẽ, bằng chứng xác đáng từ tác phẩm kịch để làm sáng tỏ ý kiến nêu trong bài viết.

Khẳng định được ý nghĩa, giá trị của tác phẩm

Thực hành viết theo các bước

Đề bài: Viết bài văn phân tích một tác phẩm kịch mà em yêu thích.

1. Trước khi viết

a. Lựa chọn đề tài

- Liệt kê một số kịch bản văn học em đã học hoặc đã đọc.

- Em có thể chọn một vở kịch hay trích đoạn kịch thuộc bất kì thể loại nào.

b. Tìm ý, lập dàn ý

- Tìm ý theo PHT số 1

- Lập dàn ý

2. Viết bài

- Trong qua trình viết, cần lưu ý:

+ Dựa vào dàn ý để triển khai bài viết. Trong khi viết cần kết hợp các thao tác trình bày khác nhau: Phân tích, giải thích, nêu nhận định, đánh giá, so sánh…

+Phân tích chi tiết cụ thể hoặc nêu một số chi tiết rồi đưa ra nhận định khái quát. Cần tránh kể lãi nội dung của tác phẩm kịch

+Có thể bố trị các luận điểm chính của bài lần lượt theo các đặc điểm thể loại kịch hoặc đi sâu vào đặc điểm nổi bật nhất, từ đó liên hệ với các đặc điểm còn lại.

3. Chỉnh sửa bài viết

- Đối chiếu bài viết của em với yêu cầu của kiểu bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch và dàn ý đã lập để chỉnh sửa nên lưu ý các điểm như sau:

- Nêu đầu đủ các thông tin về tác giả, tác phẩm

- Nếu bài viết chưa làm rõ được những phương diện chính của kịch thì cần làm rõ.

- Những ý kiến đánh giá, nhận xét về hiệu quả thẩm mĩ của tác phẩm cần phù hợp với tác phẩm được phân tích.

Viết bài văn phân tích một tác phẩm kịch mà em yêu thích

Phân tích bi kịch của hồn Trương Ba

Phân tích đoạn trích kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Phân tích đoạn trích Đình công và nổi dậy (trích vở kịch Kim Tiền)

Vi Huyền Đắc là nhà văn, nhà giáo, nhà biên khảo, nhà soạn kịch tài năng. Kịch của ông đề cao chân thiện mỹ, ca tụng đạo đức, đề cao ý chí nghị lực con người, bênh vực tầng lớp dân nghèo, phu thợ lầm than bị chủ bóc lột, đòi sự công bằng, đạo lý. Kim tiền là vở kịch nổi tiếng nhất của ông, được đăng trên báo Ngày nay từ số 99 đến số 107 và được diễn lần đầu tại Nhà hát Tây Hải Phòng năm 1938. Tác phẩm là thể nghiệm bi kịch đầu tiên của các nhà viết kịch Việt Nam, đặt nền móng cho thể loại bi kịch và sự thành công của các tác phẩm thuộc thể loại này. Đoạn trích Đình công và nổi dậy thuộc đoạn thứ bốn của vở kịch, kể về cuộc đấu tranh của công nhân dưới sự áp bức bóc lột nặng nề của ông chủ mỏ Trần Thiết Chung. Qua đoạn trích, ta thấy được thông điệp của tác giả muốn gửi đến người đọc, đó là hãy giữ được bản tính, phẩm giá của mình, đừng chạy theo đồng tiền và bị nó cám dỗ, tha hóa.

Kim tiền kể về Trần Thiết Chung, người vốn là một văn sĩ, sống thanh bần, quyết không để tiền bạc, vật chất chi phối, “không dấn thân vào những chỗ hôi tanh, u ám”. Ông đã từng định đốt tờ ngân phiếu ghi số tiền lớn mà ông nhà giàu Cự Lợi biếu vì Cự Lợi muốn nhờ ông ủng hộ trong vận động dân cử, dân biểu. Nhưng rồi vì phải chiều theo ý vợ và hiểu ra “ta cũng giống như muôn nghìn người khác, ta không thể thoát li ra ngoài cái vòng tôi mọi của đồng tiền được”, Trần Thiết Chung đã dần thay đổi. Từ một văn sĩ thanh liêm, nghèo khó nhưng giàu lòng tự trọng; ông trở thành nhà đại tư bản Trần Thiết Chung. Có nhiều tiền, ông khai thác mỏ, xây biệt thự, lấy thêm vợ… Trong khi đó, người con trai cả tên Bích chỉ biết ăn chơi, vì tiền mà mâu thuẫn ngày càng trở nên căng thẳng với cha và gia đình. Do hám lời, gia đình chủ mỏ Trần Thiết Chung đã ra sức bóc lột người lao động dẫn tới kết cục bi thảm…

Đoạn trích Đình công và nổi dậy thuộc đoạn thứ bốn của vở kịch kể về cuộc đấu tranh của cu-li mỏ Tiêu Giao do sự áp bức bóc lột nặng nề của ông chủ mỏ Trần Thiết Chung. Diễn biến đầy gay cấn của cuộc nổi dậy được miêu tả rõ qua từng chi tiết. Kết cục, ông chủ mỏ đã chết, vợ và con ông Chung đang tranh nhau chìa khóa mở két tiền thì những người cu-li nổi dậy đã ùa vào. Màn hạ, để lại dư âm đầy đau xót về sự tha hóa của con người trước đồng tiền. Đồng tiền đã biến con người thành kẻ độc ác, bất chấp tình nghĩa và đạo lí làm người.

Cuộc đình công và nổi dậy của cu – li mỏ được tái hiện trong đoạn trích đã thể hiện mâu thuẫn không thể giải quyết giữa gia đình ông Chung với những cu-li lao động ở mỏ. Diễn biến của cuộc nổi dậy và mâu thuẫn này được thể hiện qua miêu tả của tác giả ở thái độ, lời nói, hành động của ông Chung và những người lao động trong vai “tiếng ở dưới đường”. Ông Chung là chủ mỏ Tiêu Giao, có thái độ rất coi thường người lao động và cuộc nổi dậy “không sợ… cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó…”. Khi phát hiện phu mỏ đình công, đang tiến dần tới dinh thự; ông đã gọi tê-lê-phôn cho quan đồn để xin điều lính có súng xuống trợ giúp dẹp cuộc nổi dậy, đàn áp người lao động; tự tin an ủi vợ “Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được…. Mình đừng ngại”. Ông không sợ hãi khi đối mặt với người lao động, bỏ qua sự can ngăn của vợ vì không cho rằng họ dám làm gì nguy hiểm hơn: “Ô hay, sợ cái gì… Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì… Có súng đây, sợ gì”. Khi điều đình với người lao động, vẫn giữ thái độ bề trên, coi thường; lời lẽ đanh thép, trịch thượng, không nhận ra sai lầm của mình, quát “Các anh đừng có nói bậy…” và không thừa nhận “bỏ các anh em chết đói”.

Không những thế, ông còn đổ tội cho người lao động:” Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng” chứ không nhận ra việc phát gạo phát hàng thối mốc không thể ăn được là lỗi của mình. Ông ta đe dọa họ: “Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức” và “Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn”.

Trái ngược với ông Chung, những người lao động – vai “tiếng ở dưới đường” là những người cùng khổ, bán sức lao động để kiếm miếng cơm nhưng do bị bóc lột quá tàn tệ đến mức không chịu được nên mới đình công và bảo nhau nổi dậy để thay đổi hoàn cảnh. Họ hỏi ông Chung đầy thống thiết: “Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này… rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?” Họ lí giải nguyên nhân mình đình công là do “ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối” – hoàn cảnh sinh hoạt quá kham khổ, thiếu thốn, không đảm bảo yêu cầu cơ bản về thức ăn. Khi kêu ca do phải nhận gạo xấu, cá mắm thối thì “cai lại đánh đập chúng tôi”… Họ bị đàn áp cả về mặt thân thể và tinh thần, đến mức phải thốt lên rằng “Ông hành hạ chúng tôi quá…”, “Ông chỉ biết ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá… Ông chủ… Ông ác nghiệt quá…” Khi bị ông Chung đe dọa cho quân lính bắn, họ không chịu nổi nên càng phản kháng và dẫn đến cái chết của chủ mỏ.

Có thể nói, mâu thuẫn của những người cu-li mỏ với gia đình ông Chung là mâu thuẫn muôn đời giữa người lao động và tư bản, một bên là áp bức, bóc lột tàn tệ và một bên là khổ sở, bị vắt kiệt sức lao động mà không được đảm bảo các điều kiện làm việc tối thiểu. Nhân vật ông Chung đại diện cho những người có chức, có quyền trong xã hội, giàu có nhưng lại bóc lột sức lao động của công nhân. Người lao động đại diện cho những người đấu tranh đòi lại công bằng, tự do. Mâu thuẫn giữa họ là không thể điều hòa được do quan điểm, lợi ích của hai tầng lớp khác biệt với nhau. Tác giả đã thể hiện mâu thuẫn này một cách rõ nét qua các chi tiết diễn biến đầy căng thẳng của cuộc nổi dậy.

Bên cạnh việc tái hiện mâu thuẫn giữa hai giai cấp, đoạn trích còn thể hiện bi kịch tha hóa đạo đức của con người trước sức cám dỗ của đồng tiền. Điều này thể hiện rõ nét qua gia đình ông Chung. Ông Chung là một ông chủ mỏ, có cuộc sống giàu có, sung sướng: thể hiện ở việc trang phục “bộ pi-ja-ma” và “áo dài trắng” của ông và vợ; thói quen nghỉ trưa hàng ngày và dinh thự có cửa “toàn là gỗ lim” của ông. Thế nhưng, sự sung sướng đó của ông được làm nên từ mồ hôi, nước mắt, công sức của biết bao người phu mỏ. Ông là chủ mỏ nhưng không đảm bảo nổi những yêu cầu cơ bản nhất của người làm việc cho mình, đó là được ăn no mà ông vì đồng tiền của bản thân mà bóc lột họ một cách tàn tệ. Ông vì đồng tiền mà“phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối…” cho người lao động, khiến họ bị đói không có sức đi làm; huống hồ công việc khai thác ở mỏ lại vô cùng vất vả và cần sức lực. Ông đã không còn có được đạo đức cơ bản của người làm chủ, mà đã bị mờ mắt bởi lợi ích, bởi đồng tiền. Ông vì đồng tiền, vì lợi ích bản thân mà đàn áp, cai trị bằng bạo lực: ông “ác nghiệt”, “hành hạ” người lao động, để cai đánh đập họ. Khi xảy ra đình công, nổi dậy thì ông ngay lập tức gọi điện cho quan đồn xin lính có vũ khí xuống để đàn áp họ.

Nhân vật bà Ba, vợ ông Chung xuất hiện trong đoạn trích chủ yếu ở những cảnh thể hiện thái độ lo lắng, sốt ruột cho an toàn của bản thân trước cuộc nổi dậy của phu mỏ. Nhưng trong phần cuối đoạn trích, tác giả đã cho thấy sự tha hóa về mặt đạo đức, sự tham lam của người đàn bà này. Ngay khi ông Chung bị bắn, bà vẫn thể hiện sự lo lắng, sốt ruột; nhưng sau khi kêu khóc và “mặt ngơ ngác như hóa điên” thì bà lại không tiếp tục tìm cách cứu chồng mà “thò tay móc túi ông túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khóa. Bà đi ra tủ két tìm chìa khóa cho vào lỗ khóa” nhằm tìm tài sản, phục vụ cho bản thân.

Nhân vật cả Bích chỉ xuất hiện chớp nhoáng trong cảnh cuối, cũng không có lời thoại nào, nhưng lại thể hiện một cách rõ nét nhất sự tha hóa về mặt nhân cách đạo đức của con người. Hắn là con nhưng không hề lo lắng cho an toàn của cha mẹ, thậm chí khi nhảy từ cửa sổ vào, thấy cha chết cũng điềm nhiên như không mà chỉ “đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két”. Quá đáng hơn, hắn “nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ” rồi “đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ”. Hành động bất hiếu, bất nhân của cả Bích là đỉnh điểm của sự tha hóa nhân cách do mờ mắt bởi lợi ích của đồng tiền.

Qua ba nhân vật trong gia đình ông Chung, tác giả đã khắc họa rõ nét sự biến chất, tha hóa về mặt đạo đức, nhân cách con người của những nhân vật này. Họ đã bị che mắt bởi cám dỗ của đồng tiền mà sẵn sàng bán rẻ lương tâm, đánh mất những đạo nghĩa cơ bản nhất của con người.

Không chỉ hấp dẫn người đọc bởi thông điệp giàu ý nghĩa, đoạn trích còn thu hút người đọc bởi những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật. Trước hết, tác giả đã xây dựng xung đột kịch gay gắt thể hiện nội dung chủ đề của đoạn trích. Tác giả tạo ra xung đột trong hai tuyến nhân vật, giữa một bên là gia đình ông chủ Chung và một bên là người lao động. Xung đột của hai tuyến nhân vật này là xung đột về mặt lợi ích, không thể điều hòa do khác biệt về quan điểm. Đồng thời, tác giả tạo xung đột tâm lí để cho các nhân vật trải qua các thử thách về tâm lí, đạo đức: ông Chung khi nghe phản ánh sự “ác nghiệt” của mình, việc phát gạo mốc, cá mắm thối… của mình sẽ xử lí thế nào? Bà Ba trước cái chết của chồng và việc tìm tài sản duy trì lợi ích bản thân thì chọn lựa thế nào? Cả Bích xử sự ra sao? Đó chính là những xung đột tâm lí trong nội tâm nhân vật, và lựa chọn của họ đã cho thấy rõ tính cách, phẩm chất của họ. Đặc biệt, tác giả còn đưa nhân vật vào trong tình huống khó khăn buộc phải đối đầu thông qua các lời chỉ dẫn sân khấu và lời thoại nhân vật làm tăng sự căng thẳng cho người đọc: việc người lao động đốt nhà kho, lời nói thảng thốt của loong toong, lời dẫn về mức độ căng thẳng của cuộc nổi dậy…

Ngôn ngữ là yếu tố vô cùng quan trọng trong thể loại kịch, vì kịch chỉ có số ít lời dẫn sân khấu, còn lại đều tập trung vào ngôn ngữ nói của nhân vật. Tác giả đã dụng tâm trong việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại đặc sắc, làm nổi bật lên tính cách của nhân vật và mâu thuẫn, xung đột trong vở kịch. Những màn đối thoại, độc thoại trong đoạn trích được sáng tạo sắc nét không những giúp nhân vật bộc lộ suy nghĩ, tính cách mà còn giúp người đọc hiểu được những suy ngẫm triết lý sâu sắc được gửi gắm. Lời thoại của mỗi tuyến nhân vật đều thể hiện được suy nghĩ, tình cảm của nhân vật: nhân vật ông Chung với lời thoại thể hiện sự coi thường người lao động, bà Ba với sự sốt ruột luống cuống khi lo cho ích lợi bản thân, người lao động thể hiện sự uất ức, dồn nén…

Bên cạnh đó, đoạn trích còn có những nét đặc sắc nghệ thuật khác, thể hiện tài năng của tác giả. Đó là lời chỉ dẫn sân khấu và hành động kịch. So với các tác phẩm kịch thì trong đoạn trích xuất hiện khá nhiều lời chỉ dẫn sân khấu, miêu tả cặn kẽ tâm lí và hành động của các nhân vật, thể hiện diễn biến căng thẳng của cuộc nổi dậy. Từ việc miêu tả tiếng ồn ào từ xa đến gần thể hiện được bước tiến của những người cu – li mỏ; miêu tả nét mặt của ông Chung, bà Ba thể hiện sự lo lắng, luống cuống và ngày càng sốt ruột hay hành động vội vã của người loong toong, hành động của cả Bích cuối đoạn trích… đều khắc họa rõ nét từng sự thay đổi nhỏ nhất của diễn biến đoạn trích… Tác giả cũng dùng các hành động kịch để thể hiện rõ tính cách, hoàn cảnh nhân vật. Hành động của ông Chung: gọi điện xin lính đàn áp, an ủi vợ, lấy súng, ra cửa sổ, đối chất với phu mỏ, đe dọa phu mỏ… thể hiện sự coi thường người lao động, khinh miệt họ đến tận cùng. Hành động lục lọi túi khi chồng chết của bà Ba để lấy chìa khóa tìm tài sản cho thấy sự ích kỉ, khắc bạc của bà ta. Hành động bóp cổ mẹ, đẩy ngã và chiếm chìa khóa của cả Bích thể hiện sự mất nhân cách đạo đức của hắn.

Với những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nổi bật nội dung chủ đề của tác phẩm, đoạn trích Đình công và nổi dậy đã khắc họa được mâu thuẫn không thể điều hòa trong xã hội giữa giai cấp tư bản bóc lột và người lao động, qua đó gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự suy đồi đạo đức, nhân cách của con người trước cám dỗ của đồng tiền. Những thông điệp mà tác giả gửi gắm qua đoạn trích khiến em và chắc hẳn rất nhiều người phải suy nghĩ, trăn trở. Mỗi chúng ta hãy sống một cách trong sạch, giữ vững được nhân cách, đừng để bị tha hóa, đừng để bị đồng tiền điều khiển.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 3
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm