Top 9 bài thuyết minh về cây lúa ngắn gọn
Thuyết minh về cây lúa lớp 9
- 1. Lập dàn ý thuyết minh về cây lúa ngắn gọn
- 2. Dàn ý thuyết minh cây lúa chi tiết
- 3. Thuyết minh về cây lúa ngắn gọn
- 4. Thuyết minh về cây lúa dài nhất
- 5. Thuyết minh về cây lúa nước
- 6. Thuyết minh về cây lúa Việt Nam
- 7. Thuyết minh về cây lúa chi tiết - mẫu 1
- 8. Thuyết minh về cây lúa chi tiết - mẫu 2
- 9. Đoạn văn thuyết minh về cây lúa
Thuyết minh về cây lúa, thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam, thuyết minh về cây lúa nước lớp 9 là những dạng đề bài thường gặp trong chương trình Ngữ văn lớp 9. Việt Nam là một đất nước đi lên từ nông nghiệp, chính vì vậy cây lúa là hình ảnh vô cùng quen thuộc đối với những người dân Việt Nam. Trong bài viết này Hoatieu sẽ hướng dẫn lập dàn ý thuyết minh cây lúa chi tiết giúp các em học sinh nắm được cách viết bài văn thuyết minh về cây lúa nước.
- 14 mẫu thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay chọn lọc
- Viết bài tập làm văn số 1 văn thuyết minh lớp 9
1. Lập dàn ý thuyết minh về cây lúa ngắn gọn
I. MỞ BÀI
Dẫn dắt, giới thiệu chung về đối tượng thuyết minh - cây lúa Việt Nam (cây lương thực chính quan trọng, một trong những biểu tượng của nền nông nghiệp nước ta,...).
II. THÂN BÀI
1. Giới thiệu khái quát về cây lúa Việt Nam:
- Lúa nước là loại cây quen thuộc với người dân nước ta, có lịch sử trồng trọt và canh tác lâu đời.
- Là thế mạnh của xuất khẩu lương thực Việt Nam trên thị trường thế giới.
2. Giới thiệu chi tiết về cây lúa:
a. Đặc điểm sinh học:
- Cây tự thụ phấn, rễ chùm, một lá mầm,...
- Môi trường sống: ngập nước
- Các giai đoạn phát triển: hạt giống ⇒ nảy mầm ⇒ mạ non ⇒ trổ bông ⇒ kết hạt ⇒ lúa chín.
b. Đặc điểm canh tác:
- Số vụ gieo trồng: thường là 2 vụ/năm.
- Quy trình trồng trọt và canh tác: ủ mầm ⇒ gieo mầm ⇒ cấy mạ ⇒ chăm sóc ⇒ thu hoạch.
c. Vai trò của cây lúa trong đời sống người Việt Nam:
- Làm ra gạo tạo nguồn lương thực chính trong các bữa ăn.
- Xay thành bột dùng làm nguyên liệu chính cho nhiều loại bánh.
- Cho ra những phụ phẩm sau hạt gạo (cám, tấm, vỏ trấu,...) dùng trong chăn nuôi và các việc khác.
- Tạo nguồn thu nhập cho người trồng lúa.
- Trở thành chủ lực mang lại lợi nhuận xuất khẩu, danh tiếng và cơ hội tiến xa hơn cho nước ta trên thị trường lương thực thế giới.
III. KẾT BÀI
Nêu kết luận, nhận định chung về cây lúa Việt Nam (quan trọng, mang lại nguồn lợi to lớn,...).
2. Dàn ý thuyết minh cây lúa chi tiết
1, Mở bài:
Giới thiệu ngắn về cây lúa:
- Giới thiệu gián tiếp qua các câu thơ, câu văn: Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết: “Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”. Cây lúc đã gắn bó lâu đời và trở thành một biểu tượng văn minh, văn hóa của con người Việt Nam
2, Thân bài:
a, Những đặc điểm sinh học của cây lúa
- Cây lúa là một trong năm loại cây lương thực chính trên thế giới.
- Có nhiều giống lúa khác nhau nhưng do đặc điểm khí hậu, đất đai vùng Đông Nam Á, lúa ở Việt Nam là giống lúa nước.
- Đặc điểm, hình dạng, kích thước:
Lúa là thực vật thuộc nhóm một lá mầm, thân cỏ, rễ chùm, bao gồm ba bộ phận chính:
- Rễ: nằm dưới đất, hút chất dinh dưỡng để nuôi cây
- Thân: tròn, mọc thẳng đứng, được nối với nhau bằng nhiều đốt. Bên trong thân cây lúa rỗng và mềm ⇒ Có tác dụng vận chuyển chất dinh dưỡng cho cây.
- Ngọn: Đây là nơi hình thành và sinh trưởng của bông lúa. Bông lúa gồm nhiều hạt, khi chín có màu vàng, được người nông dân thu hoạch về làm nông sản. Lá lúa ôm lấy thân, nằm nhiều ở phần ngọn, tùy thời kì sinh trưởng mà lá đổi màu từ xanh nõn đến xanh thẫm và vàng.
Khi cây lúa còn non được gọi là mạ, khi trưởng thành hoa lúa tự thụ phấn thành các cụm hoa, rồi thành hạt.
b, Cách trồng lúa
- Từ hạt thóc thu hoạch, người nông dân ngâm cho thóc nảy mầm, thành mạ.
- Cày xới ruộng cho đất tơi xốp, màu mỡ.
- Gieo mạ trên ruộng riêng để phát triển tốt rồi đem mạ gieo xuống ruộng đã cày bừa.
- Trong thời gian trồng lúa, phải bón phân, chú ý tưới tiêu để ruộng luôn xâm xấp nước, không ngập không hạn.
- Khi lúa phân nhánh hoa, sinh hạt phải diệt sâu bọ: có nhiều cách như phun thuốc sâu, nuôi vịt…
- Hạt lúa chín, người nông dân gặt lúa về, tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo.
c, Vai trò và sự phát triển của cây lúa:
- Vai trò về lương thực, kinh tế: Cây lúa đem lại lương thực cho người Việt Nam từ ngàn đời nay: lúa nếp cho hạt gạo nếp để nấu xôi, các loại bánh; gạo tẻ nấu cơm dùng hàng ngày, làm thành các thực phẩm khác như bún phở, bánh đa bánh đúc…; lúa non dùng làm cốm…
- Vai trò về văn hóa:
- Hình thành nền văn minh lúa nước: phát triển những phương thức trồng trọt ở đồng bằng, châu thổ từ xưa; phát triển kĩ thuật cấy lúa hiện đại…
- Tạo nên một nền văn hóa ẩm thực độc đáo, phong phú.
- Đại diện cho vẻ đẹp lao động: đi vào thơ ca, được khắc trên trống đồng, làm họa tiết trang trí trên áo dài…
- Sự phát triển của cây lúa hiện nay:
- Hiện nay ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa đạt sản lượng năng suất cao.
- Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo.
3. Kết bài:
- Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt
- Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
3. Thuyết minh về cây lúa ngắn gọn
Việt Nam đang phát triển theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những công cụ thô sơ được thay dần bằng máy móc hiện đại. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng, to lớn của công nghệ trong cuộc sống, nó không chỉ làm cho người nông dân đỡ vất vả hơn mà còn tạo ra những giống cây mới cho năng suất và chất lượng cao hơn. Một trong những giống cây được cải tạo năng suất đáng kể đó chính là cây lúa nước.
Cây lúa là loại lương thực vô cùng phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người Việt Nam. Nó gắn bó với người dân ta từ lâu đời, là thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày và cũng là cây lương thực xuất khẩu hàng đầu của nước nhà. Lúa nước là loại cây thân cỏ, ưa nước, gieo trồng trên đất phù sa và có nhiều giống loại khác nhau. Chính nhờ đặc tính ưa nóng ẩm mà nó phù hợp để gieo trồng trên khắp các vùng đất phù sa của đất nước hình chữ S này. Chu kì sinh trưởng của chúng trung bình là bốn tháng, không quá dài nên bà con nông dân có thể tranh thủ thâm canh hai vụ một năm để tăng năng suất.
Một cây lúa nước trưởng thành trung bình có độ cao 80cm, toàn thân màu xanh và rỗng hoàn toàn ở bên trong. Lá lúa dài, hình lưỡi liềm nhỏ bao quanh thân lúa. Rễ cây thuộc loại rễ chùm nên không cắm quá sâu xuống đất điều này đòi đất phù sa phải đủ màu mỡ để cung cấp dinh dưỡng cho cây. Từ ngọn của cây lúa, đến thời điểm chín muồi sẽ trổ bông rồi nặng dần xuống thành hạt. Hạt lúa mọc thành chùm, khi còn non thì mềm mại, có màu xanh thoảng hơi sữa còn được người dân gọi là đòng đòng, khi già nó chuyển thành màu vàng, nặng dần và chúi đầu xuống phía dưới. Khi bấm vào hạt lúa thấy cứng và các hạt tròn, mẩy đều như nhau màu vàng ươm thì cũng là lúc lúa được thu hoạch.
Để có được những hạt lúa căng tròn, người nông dân phải tỉ mỉ nhiều công đoạn. Người ta mang những hạt thóc giống được tuyển chọn kĩ càng đi ngâm trong nước ấm và ủ thóc trong thời gian thích hợp. Mỗi loại thóc sẽ có thời gian ngâm và ủ khác nhau, cần lưu ý thời gian của từng loại thóc để có chất lượng tốt nhất. Sau khi hạt thóc nảy mẩm đủ tiêu chuẩn, ta mang chúng đi gieo xuống những luống đất được chuẩn bị sẵn từ trước. Sau khoảng một tháng, từ những hạt mầm đó sẽ nảy nở thành những cây lúa non (thường được gọi là cây mạ) xanh mướt, tuy nhiên chúng lại ở rất sát nhau nên không thể sinh trưởng thật tốt. Lúc này, người nông dân nhổ những cây mạ đó lên và đem đi cấy xuống những mảnh ruộng phù sa nhiều nước được làm đất kĩ. Độ cao của cây mạ thích hợp để cấy dài khoảng một gang tay người lớn. Người ta cầm bó mạ và lấy khoảng 4 - 8 cây, tùy tay người cấy cắm xuống ruộng đất phù sa thẳng hàng ngang và dọc, mỗi khóm cách nhau trung bình từ 20 - 30cm. Cây lúa non sẽ thích nghi dần với mảnh đất mới và hút phù sa từ đó để lớn dần lên, phát triển thành cây lúa và ra bông. Những hạt lúa non mũm mĩm, căng tròn cứ thế lớn lên, mỗi một hạt lúa mang trong mình một giọt sữa thơm tho, tinh túy của trời đất, giọt sữa ấy đông đặc lại dần trở thành những hạt gạo. Khi những hạt lúa trở nên chắc chắn (bấm tay vào cứng và khó vỡ), vỏ bên ngoài màu vàng ươm thì cũng là lúc người nông dân thu hoạch.
Những hạt lúa sau khi được gặt về sẽ được cho vào máy chuyên dụng để tách hạt ra khỏi chùm bông. Sau đó, những hạt lúa ấy sẽ được phơi dưới ánh nắng chói chang của mùa hè để cho thật khô rồi đóng vào những bao và mang đi cất trữ ở trong những thùng, hòm. Từ hạt lúa ấy, qua quá trình xay, giã, dần, sàng thành hạt gạo trắng ngần và bát cơm dẻo thơm trong bữa ăn hàng ngày của chúng ta.
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của cây lúa nước trong đời sống từ xưa đến nay. Nó không chỉ là nguồn lương thực nuôi sống chúng ta mà còn làm nên nền kinh tế nước nhà. Cho dù mai sau đất nước có phát triển hiện đại như thế nào nhưng cây lúa nước vẫn mãi giữ vị trí quan trọng trong lòng mỗi người dân.
4. Thuyết minh về cây lúa dài nhất
Lúa nước là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với ngô, lúa mì, sắn và khoai tây. Theo quan niệm xưa lúa cũng là một trong sáu loại lương thực chủ yếu trong Lục cốc. Từ xa xưa, cây lúa nước đã gắn bó với con người Việt Nam, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày.
Lúa nước là một loài thực vật thân cỏ, thuộc họ Poaceae, có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khu vực Đông Nam châu Á và châu Phi. Cây lúa nước xuất phát đầu tiên ở vùng Đông Nam Á. Trong đó, Việt Nam có thể là nơi đầu tiên thuần hóa được loài cây này. Với điều kiện khí hậu nóng ẩm quanh năm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa, ngành lúa nước ở Việt Nam từ lâu đã rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu sớm nhất. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc và đi khắp thế giới. Đến thế kỉ 18, người Tây Ban Nha đã đem các giống lúa nước gieo trồng ở Nam Mỹ.
Lúc ban đầu, lúa nước chỉ có vài loại cơ bản bao gồm giống lúa ưa cạn và giống lúa ưa nước. Giống lúa ưa cạn là giống lúa có thể phát triển ở vùng đất xốp không ngập nước. Nhưng nếu có ngập nước, giống lúa này vẫn phát triển tốt. Ngày nay, các tộc người thiểu số vẫn còn lưu giữ các giống lúa này. Giống lúa ưa nước là giống lúa được gieo trồng trên các vùng đất có nước ngập thường xuyên. Cây lúa phát triển tốt khi có nước ngâm ở chân.
Với trình độ phát triển cao của khoa học, nhờ công nghệ lại tạo, người ta đã lai tạo được nhiều giống lúa mới có chất lượng gạo cao, dẻo, thơm, dễ gieo trồng, ngắn hạn và cho năng xuất cao.
Người ta đặt tên khác nhau cho các giống lúa để dễ nhận dạng. Về cơ bản có giống lúa nở xốp, giống lúa dẻo thơm và các giống lúa bản địa khác.
Lúa là loài thân cỏ, sống lâu nhất là một năm. Lúa có thể cao từ 1m đến 1,8 m. Một vài giống lúa hoang dại đôi khi cao hơn. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triển mà cây lúa đặc điểm hình dáng và màu sắc khác nhau. Về cơ bản, cây lúa nước có những đặc điểm sau:
Lúa thuộc loại rễ chùm. Những rễ non có màu trắng sữa. Rễ trưởng thành có màu vàng nâu và nâu đậm. Rễ đã già có màu đen. Bộ rễ cây lúa thường phát triển rất mạnh mẽ. Chúng thường lan rộng ra xung quanh hoặc đâm sâu xuống đến 20cm trong đất để hút nước và chất dinh dưỡng. Rễ là bộ phận sinh dưỡng quan trọng nhất của cây lúa.
Thân lúa gồm nhiều mắt và lóng như các loài cỏ khác. Chỉ vài lóng ở ngọn dài ra, số còn lại ngắn và dày đặc. Lúc nhỏ là thân lá. Khi lớn lên lóng mới dài ra. Lóng trên cũng dài nhất. Từ những mắt lóng sẽ đẻ ra nhánh lúa. Thân lúa được bao bọc bởi lá lúa.
Lá lúa điển hình gồm: bẹ lá, phiến lá, lá thìa và tai lá. Phiến lá mỏng, dẹt và có nhiều lông rậm. Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắt thân. Mỗi cây lúa trưởng thành thường có từ 12 đến 18 lá. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, tổng hợp chất dinh dưỡng nuôi cây. Khi còn phát triển lá có màu xanh lục. Khi chín lá lúa chuyển sang màu vàng.
Bông lúa là một bộ phận phát triển từ thân lúa. Bông lúa mang hoa lúa. Sau khi thụ phấn, hoa lúa kết thành hạt lúa tạo thành một chuỗi dài. Hoa lúa là loài hoa lưỡng tính có đầy đủ nhụy và nhị trên cùng một bông lúa. Lúa là cây tự thụ phấn. Đôi khi cũng xảy ra sự thụ phấn chéo ở cây lúa.
Sản phẩm thu được từ cây lúa là hạt lúa (thóc). Nhờ có mấu trấu giúp các hạt lúa kết dính trên bông lúa mà không bị rơi rụng. Sau khi xay xát lớp vỏ trấu ta thu được hạt gạo màu trắng. Hạt gạo là một loại lương thực quan trọng nhất của các nước châu Á và của hơn một nửa số người trên thế giới
Người ta gieo trồng lúa bằng các hạt mầm. Dù là giống lúa ưa nước hay ưa cạn, trong vòng đời, cây lúa trải qua 3 giai đoạn phát triển:
Thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng: Tính từ lúc hạt thóc nảy mầm đến khi bắt đầu vào giai đoạn phân hoá hoa lúa. Ở giai đoạn này cây lúa mềm yếu, có màu xanh non. Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của cây lúa. Giai đoạn này lúa cần rất nhiều chất dinh dưỡng và dễ bị sâu bệnh hại phá. Để bảo vệ và tăng cường sự phát triển của cây, người ta chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hết sức nghiêm ngặt.
Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: Tính từ lúc bắt đầu phân hoá hoa lúa đến khi lúa trỗ bông và thụ tinh. Lúc này, bông lúa thoát khỏi lá đòng, nở hoa, tung phấn và thụ tinh. Giai đoạn này cây lúa cứng cáp, có màu xanh đậm, toàn thân tràn trề sức sống. Để hoa lúa phát triển tốt và kết hạt đều, chắc người ta thường bón một vài loại phân hỗ trợ và cũng tăng cường bảo vệ hoa lúa trước sâu hại phá.
Thời kỳ chín vàng: Sau khi thụ tinh, bông lúa bước vào kỳ ngậm hạt và chín. Kết thúc thời kỳ này là bông lúa chín hoàn toàn. Sau đó tiến hành thu hoạch hạt thóc. Giai đoạn này cây lúa bắt đầu khô dần, chuyển từ màu xanh sang màu vàng óng. Bông lúa oằn nặng trĩu chúi xuống đất. Đến khi bông lúa chín được 80%, người ta tiến hành thu hoạch lúa.
Cây lúa phát triển khoảng từ 90 đến 120 ngày là thu hoạch. Người ta thường thu hoạch thóc và rơm rạ vào ngày nắng ấm. Hạt lúa sau khi thu hoạch được phơi sấy rút ẩm đạt 85-90% thì đem bảo quản cất giữ.
Để giữ cho lúa không bị hư hại, người ta thường bảo quản lúa ở trong kho khô ráo, thoáng gió. Hạt lúa trong điều kiện khô có thể cất giữ được nhiều năm mà không sợ bị hư hỏng. Ngoài ra, cần chống mối mọt và các loài gặm nhấm phá hoại trong khi bảo quản, cất giữ.
Khi nào cần sử dụng, người ta lấy hạt lúa xay xát thành gạo. Hạt gạo rất dễ bị hư hỏng bởi thế thường được cất giữ trong thùng, ở nơi khô ráo, sạch sẽ.
Rơm rạ sau khi phơi khô cần đánh đống và che phủ cẩn thận, tùy vào mỗi việc mà sử dụng. Không cất giữ rơm rạ ở gần bếp vì rất dễ bắt lửa. Cũng không cất giữ nơi ẩm ướt vì rơm rạ rất dễ hút ẩm, bị các loại nấm tấn công làm oải mục, phân hủy.
Thật không thể nói hết được những lợi ích mà cây lúa đã mang lại cho con người. Có thể nói trong các loại cây trồng, cây lúa là cây quan trọng nhất đối với con người. Tất cả các bộ phận của cây lúa đều cho con người những lợi ích tuyệt vời.
Sản phẩm chính của cây lúa là gạo, một nguồn lương thực chính của người Việt. Có thể nói, trong các loại lương thực chính của loài người, lúa gạo là loại dễ chế biến nhất. Không như lúa mạch, phải qua nhiều công đoạn mới có sản phẩm, từ gạo có thể trực tiếp nấu thành cơm một cách hết sức dễ dàng và tiện lợi. Từ bột gạo, ta cũng có thể chế biến thành các loại món ăn khác như bánh đa nem, phở, bánh đa, bánh chưng, bún, rượu. Ngoài ra còn bánh rán, bánh tét, bánh giò và hàng chục loại thực phẩm khác từ gạo.
Sản phẩm phụ của cây lúa gồm có: tấm, cám gạo, vỏ trấu, rơm rạ. Tấm dùng sản xuất tinh bột, rượu cồn, Axê tôn, phấn mịn và thuốc chữa bệnh. Cám dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp. Từ tấm người ta sản xuất vitamin B1 để chữa bệnh tê phù, chế tạo sơn cao cấp hoặc làm nguyên liệu xà phòng. Người ta còn chế biến cám gạo thành các loại bột dưỡng trắng da sử dụng như một loại mỹ phẩm.
Vỏ trấu dùng sản xuất nấm men, làm thức ăn gia súc, vật liệu đóng lót hàng, vật liệu độn cho phân chuồng, hoặc làm chất đốt. Rơm rạ được sử dụng cho công nghệ sản xuất giấy các tông xây dựng, đồ gia dụng (thừng, chão, mũ, giầy dép), đan kết thành tấm lợp, làm thức ăn cho gia súc hoặc nguyên liệu sản xuất nấm… Ở Nhật Bản, thân rạ còn dùng để làm vật dụng trang trí rất gần gũi và trang nhã.
Bộ phận rễ lúa còn nằm trong đất sau khi thu hoạch cũng được cày bừa vùi lấp làm cho đất tơi xốp, được vi sinh vật phân giải thành nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây trồng vụ sau.
Cho đến ngày nay, khi dân số thế giới không ngừng tăng cao, nhu cầu sử dụng lương thực tăng vọt thì cây lúa nước trở thành cây lương thực hành đầu giúp duy trì và giữ vững an ninh lương thực thế giới. Hằng năm, ngoài số lượng lúa gạo được sử dụng, người ta còn lưu trữ một lượng rất lớn để sử dụng cứu trợ khi cần thiết. Từ việc chỉ biết đến ở các nước Đông Nam châu Á, ngày nay cây lúa nước đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới, trở thành một loại cây trồng hết sức gần gũi trong đời sống con người trên trái đất.
5. Thuyết minh về cây lúa nước
Mỗi một đất nước, một dân tộc, một mảnh đất có những loại cây riêng với quê hương mình. Và ở nước ta cây lúa mộc mạc, bình dị đã trở thành cây nông nghiệp gần gũi, gắn bó nhất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Cây lúa ấy đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ khi viết về vẻ đẹp quê hương.
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”
Cây lúa thuộc loại cây rễ chùm, ưa nước. Cây lúa phát triển qua từng thời kì khác nhau, trải qua quá trình chăm sóc, tưới tiêu vất vả, cần mẫn của người nông dân mới cho những bông lúa uốn câu vàng óng. Cây lúa khi còn ở thời kì con gái trông duyên dáng như một thiếu nữ yêu kiều thướt tha trong bộ cánh xanh non mỡ màng. Lá lúa dài như những lưỡi kiếm, thi thoảng có làn gió thổi qua như những chiến binh đang múa kiếm nghe thật vui tai.
Thân lúa mảnh, nhỏ, gồm nhiều lớp vỏ ngoài dày bọc lấy nhau, như những cánh tay đang ôm ấp để bảo vệ bên trong. Cây lúa khi chín mang trên mình bộ cánh mới, không còn là màu xanh mỡ màng, trẻ trung đầy sức sống nữa mà là màu vàng óng, ngây ngất thơm mùi sữa non. Cây lúa luôn mang trên mình mùi hương rất đặc biệt, đó là mùi của đất quê, của hồn quê mộc mạc, thân thương, của những tấm lòng cần mẫn, chịu thương chịu khó, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Hạt lúa khi chín được bọc bên ngoài là lớp vỏ trấu màu vàng, bên trong là hạt gạo tròn, chắc mẩy bụ bẫm trông đến là thích mắt. Hạt gạo trắng ngần ấy là tinh hoa của mồ hôi, công sức nước mắt người dân lao động tụ lại để dâng lên hương trời. Vậy nên hương lúa lúc nào cũng thế, có mùi thơm ngát, rất ngậy, rất thơm.
Có nhiều loại lúa khác nhau, phù hợp với từng vùng miền, khí hậu riêng. Các loại thóc thường phổ biến là thóc nếp, thóc BC, thóc Việt Hương, thóc Tạp Giao, thóc Tám...Mỗi loài có những cách chăm sóc khác nhau, tưới tiêu và công dụng khác nhau, nhưng tựu chung lại đều rất hữu ích và là một nguồn lương thực không thể thiếu với người nông dân.
Cây lúa có rất nhiều công dụng. Trước hết nó là cây lương thực chính của nước ta, đồng thời cũng là thương hiệu, đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Hơn nữa, những cách chế biến khác nhau đem đến cho cây lúa rất nhiều lợi ích khác nhau. Hạt gạo trắng ngần là nguyên liệu để làm các sợi phở, bún, các loại bánh đa. Những loại cơm gạo, cơm cháy ruốc, bánh gạo, nước gạo rất tốt cho sức khỏe.
Cây lúa cũng chính là nguyên liệu chính làm nên món bánh chưng bánh giầy-món ăn truyền thống trong mỗi dịp lễ, tết ở Việt Nam ta. Hay một thứ quà của lúa non đó là cốm đã được nhà văn Thạch Lam đưa vào trang văn của mình đầy trân trọng, tự hào.
Nhưng để có được hạt gạo trắng ngần, cây lúa phải phát triển khỏe mạnh, vì thế đòi hỏi sự chăm sóc tỉ mẩn, cẩn trọng của người nông dân. Đặc biệt là việc tưới tiêu, vì là một loại cây ưa nước nên việc cung cấp đủ nước cho cây là rất quan trọng, ngoài ra người nông dân cũng liên tục phải quan sát trên cây lúa xem có những dấu hiệu bất thường nào khác để kịp thời tưới phân, chăm bón đúng lúc. Để làm ra hạt gạo nuôi sống con người không phải là điều gì dễ dàng, vì thế hạt gạo càng cần được trân trọng hơn bao giờ hết.
Cây lúa thật đẹp, một nét đẹp mộc mạc tinh túy của người dân đất Việt. Cây lúa đã trưởng thành, phát triển cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trải qua biết bao cuộc đấu tranh gian khổ, cây lúa đã gắn liền với sự hi sinh chiến đấu, là lương thực giúp các anh đỡ đói lòng để vững tay súng. Có lẽ, dù trong chặng đường tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa của dân tộc bây giờ và mai sau có phát triển chăng nữa, cây lúa cũng sẽ không bao giờ mất đi vai trò quan trọng của mình.
6. Thuyết minh về cây lúa Việt Nam
Nhắc tới Việt Nam, người ta thường nghĩ tới những danh lam thắng cảnh như vịnh Hạ Long, hồ Hoàn Kiếm với truyền thuyết trả gươm thần hay những món hàng đặc trưng như lụa tơ tằm, nón Bài thơ. Nhưng đặc biệt, điều mà du khách nước ngoài tới Việt Nam cảm thấy thú vị hơn cả là thú vui ẩm thực: phở, bún chả, hay bánh chưng, bánh giầy vào dịp Tết. Dễ dàng nhận ra rằng những món ăn đó được làm từ gạo. Thứ hạt trắng đó là sản phẩm của cây lúa – một loại cây không thể thiếu trong đời sống con người Việt Nam.
Để có được cây lúa, những người nông dân đã vất vả lao động từng ngày: từ gieo mạ, cấy mạ rồi chăm sóc, vun xới cho cây. Lúa được trồng ở những vùng đồng bằng châu thổ, nơi có phù sa bồi đắp. Cũng như đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long là một vựa lúa lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, không chỉ có ở đồng bằng, cây lúa còn được trồng trên vùng cao với những ruộng bậc thang xanh mướt.
Lúa thích nghi đặc biệt với khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam theo hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Phần lớn những người nông dân còn phụ thuộc vào cây lúa. Đây là một hình thức sản xuất nông nghiệp phổ biến và dễ thấy ở Việt Nam. Cây lúa đã đưa Việt Nam từ nước đói kém sau chiến tranh thành một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai trên thế giới. Mặc dù là cây nông nghiệp nhưng không thể thiếu những cây đó trong đời sống người Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao cây lúa lại có một vai trò quan trọng trong đời sống Việt Nam đến như vậy? Có thể thấy rằng, từ khi sinh ra, con người đã gắn bó với cây lúa và hạt gạo. Cây lúa không những là cây nông nghiệp mà còn là một loại cây lương thực cung cấp thực phẩm chủ yếu cho con người. Đôi khi người ta thấy rằng con người ăn cơm lâu, muốn thay đổi hương vị, đã tìm đến những quán phở, hàng bún. Đó là một cách thay đổi khẩu vị hay đúng hơn là gạo đã được biến tấu bằng một cách chế biến khác.
Hay ở những vùng thôn quê, thậm chí là ở thành thị, người ta vẫn thường quen với tiếng rao quà: Ai bánh chưng, bánh nếp, bánh giầy, bánh khoai nào! Thật quen thuộc mà cũng rất giản dị. Những thứ bánh thơm dẻo đó cũng được làm ra từ hạt gạo. Đặc biệt hơn là gạo nếp. Lúa làm ra gạo. Cũng thật độc đáo, gạo lại được chế biến thành muôn kiểu món ăn, phục vụ cho nhu cầu ăn uống của người dân Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, khi lúa chín trĩu bông, người ta gặt về, đem tuốt lúa. Và sau đó có được gạo và một thứ vỏ ngoài màu vàng nhạt. Đó chính là vỏ trấu. Bước chân đi tới những miền quê Việt Nam ngày nay vẫn còn thấy những gian bếp nhỏ đun vỏ trấu, vỏ trấu cũng rất hữu dụng trong việc làm thức ăn cho gia cầm và dùng trong lò ấp trứng.
Phần cây lúa sau khi đã gặt xong không phải là thừa. Nó được phơi khô, chất thành những đống rơm cao ngất. Rơm cũng được dùng làm chất đốt ở những vùng nông thôn. Ngoài ra, rơm còn được dùng để trồng nấm làm thực phẩm cho người dân Việt Nam. Đặc biệt, người ta còn dùng rơm để lợp mái nhà, rất tiện dụng và tiết kiệm.
Như vậy, cây lúa đã trở thành một loại cây gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam: trong lao động sản xuất, trong đời sống, nhất là những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Không những vậy, cây lúa còn mang một giá trị văn hoá tinh thần sâu sắc.
Giữ một vị trí quan trọng như vậy nên khi nhắc tới Việt Nam, người ta nhắc tới một nền văn minh lúa nước. Cây lúa đã đi vào lịch sử dân tộc của Việt Nam, trở thành một đặc trưng cho văn hoá Việt. Một nét đặc trưng mà có lẽ khó có thể mất đi hay phai mờ. Cây lúa đã đứng lên, đã hội nhập quốc tế bằng chính chất và lượng của nó. Người ta đã biết tới một Việt Nam không chỉ là một nước anh dũng kiên cường trong đấu tranh mà còn là một dân tộc kiên trì cần mẫn trong lao động sản xuất. Và giờ đây họ nhìn vào con số gạo xuất khẩu: hàng triệu tấn một năm của Việt Nam để đánh giá và đưa ra nhận xét.
Không những thế, cây lúa còn giữ một vai trò không thể thiếu trong những lễ vật dâng lên tổ tiên. Những món ăn thơm thảo đó thể hiện rất rõ nét ẩm thực cũng như tính cách của người Việt. Nó thể hiện sự hiếu lễ kính trọng của con cháu đối với những người đi trước. Đặc biệt là trong những dịp Tết Nguyên Đán, những chiếc bánh chưng, bánh giầy không bao giờ thiếu trong mâm cỗ của từng nhà. Trung thu với bánh dẻo, bánh nướng làm cho đêm đón trăng của trẻ em càng thêm rộn ràng… Từ cây lúa, những thức quà ngon đã được làm ra ngày càng gắn bó, thân thiết với người dân Việt Nam.
Cây lúa là biểu tượng Việt Nam, là loại cây không thể thiếu trong đời sống văn hoá Việt, cả ẩm thực và lễ hội. Có lẽ vì vậy, cây lúa cũng đã trở thành đề tài sáng tác cho nhiều nhà thơ, nhà văn. Trần Đăng Khoa đã có một bài thơ được phổ nhạc thành bài hát (Hạt gạo làng ta):
"Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay"…
Trần Đăng Khoa đã rất tinh tế khi viết về hạt gạo trắng thơm. Để có lúa, có gạo là công sức của biết bao con người, là sự hòa quyện của biết bao hương vị: vị phù sa, hương sen thơm, lời mẹ hát. Những lời ca trong trẻo của bài hát ấy cứ ngân lên, thể hiện tính cách của con người Việt Nam: tuy sống vất vả nhưng cần mẫn với lúa gạo.
Và hơn thế, cây lúa còn làm tăng vẻ đẹp quê hương đất nước:
"Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông."
(ca dao)
Câu ca dao đã khắc hoạ một Việt Nam tươi đẹp và đầy sức sống với màu xanh mênh mông bát ngát của lúa. Những đồng lúa thẳng cánh cò bay đã in sâu trong tâm trí của những người con xa quê. Cây lúa vốn đã thân thiết nay càng gắn bó hơn. Có thể nói rằng nó không thể thiếu trong đời sống con người Việt Nam, cả về vật chất cũng như tinh thần.
Nó làm con người thoải mái và vui vẻ hơn sau ngày lao động mệt nhọc với bát cơm thơm thảo. Mỗi khi bưng bát cơm thơm, được nấu từ những hạt gạo trắng ngần, lòng ta lại bâng khuâng nghĩ đến quê hương, nghĩ đến những con người đã từng đổ mồ hôi, sôi nước mắt để làm ra hạt gạo.
Nếu được chọn lựa, có lẽ tất cả chúng ta sẽ vẫn chọn cây lúa là cây lương thực chính, là biểu tượng của nền văn minh, văn hoá cho vẻ đẹp Việt Nam.
7. Thuyết minh về cây lúa chi tiết - mẫu 1
“Hạt gạo làng ta
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
(Trích "Hạt gạo làng ta" - Trần Đăng Khoa)
Chắc hẳn mỗi chúng ta, ai cũng có một tuổi thơ êm đềm gắn bó với mái đình, cây đa, bến nước và đặc biệt là triền đê lộng gió bên cánh đồng thẳng cánh cò bay. Cây lúa không chỉ là thứ hạt vàng, hạt ngọc của đất trời đem lại sự sống cho chúng ta mà từ khi nào đã đi vào cả trong nỗi nhớ niềm thương của mỗi người con đất Việt.
Đã bao giờ bưng bát cơm thơm dẻo trên tay, ta tự hỏi cây lúa có từ bao giờ? Phải chăng cây lúa có từ “ngày xửa ngày xưa”, khi những câu ca bắt lên khắp các nẻo đường rộn rã của những bà, những chị đi thăm đồng? Hay phải chăng cây lúa hoài thai từ thuở hồng hoang dựng nước, khi Lang Liêu biết trồng lúa để làm những bánh vuông tròn mà cúng Tiên vương?
Thật khó mà nói được cái nguồn gốc xuất phát của thứ cây dẻo dai mà kiên cường ấy! Chỉ biết rằng, cây lúa hay nghề trồng lúa đã có ở nước ta từ rất lâu đời. Giống như một giá trị trường tồn vĩnh cửu, bốn ngàn năm lịch sử đã qua đi, đất nước từng ngày thay đổi với những diện mạo mới, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với nghề trồng lúa nước, là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Khắp các làng quê Việt nam, đi đâu ta cũng thấy cánh đồng thẳng cánh với những cây lúa xanh rì trĩu bông. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn nhất nước ta. Lúa nước không chỉ là một nghề giúp người nông dân của ta kiếm sống mà còn làm nên một nền văn hóa của những vùng đất phù sa xứ sở.
Một năm có hai vụ lúa chính: Vụ chiêm và vụ mùa. Người nông dân chọn hạt giống, ngâm thóc giống, nâng niu đến khi đưa những mầm non mới nhú ấy xuống mặt đất, rồi dày công chăm sóc, chăm đồng thăm ruộng, nâng niu chăm sóc như người mẹ chăm con. Phải trải qua cả một quá trình như thế, mới có những cây lúa trĩu bông. Cũng giống như nhiều loại cây khác, lúa nước cũng có nhiều giống lúa như: lúa móng chim, lúa di hương, lúa ba giăng, lúa gié, lúa mộc tuyền,…
Nhưng quý nhất vẫn là cây lúa tám xoan, lúa dự, cho những hạt gạo trắng như hạt ngọc trời, ăn dẻo và thơm. Lúa nếp cũng có nhiều loại: nếp cái hoa vàng, thường được các bà các mẹ chọn để đồ xôi, cất rượu; rồi nếp rồng, nếp nàng tiên, nếp mỡ... Con trâu, cây lúa, cánh đồng từ bao giờ đã trở thành người bạn của nhà nông. Chẳng phải vì thế mà ta vẫn thường nghe những câu hát:
"Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa."
(ca dao)
Trồng lúa là nghề căn bản của nhà nông. Người nông dân quanh năm dầm sương dãi nắng, cần cù ngày này qua tháng nọ bám lấy ruộng đồng: cày bừa, cấy hái, tát nước, bón phân, làm cỏ, bắt sâu,…Với người dân cày, cánh đồng mảnh ruộng là món gia tài nhỏ nhỏ cả một đời vun vén.
Miền Nam thường sạ lúa thì người miền Bắc kì công lại gieo mạ và cấy lúa. Khi vụ mùa vừa kết thúc, vào tiết lập xuân, người nông dân tiến hành chọn hạt giống, ngâm thóc giống rồi quăng bùn gieo mạ. Khi cây mạ non cao chừng mười phân và thời tiết thuận lợi, người nông dân sẽ đem mạ ấy cấy xuống đồng ruộng đã được cày xới tơi xốp. Công việc giản dị ấy đã đi vào lời một bài hát ru của tuổi thơ như thế:
"Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần."
(Trích "Bầm ơi!" - Tố Hữu)
Lúa thì con gái xanh ngắt một màu. Những cơn mưa rào cuối xuân đầu hè được gọi là cơn mưa vàng, làm cho đồng lúa tốt bời bời:
Lúa chiêm đứng nép đầu bờ
Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên.
(ca dao)
Lúa đứng cây rồi lúa có đòng đòng. Lúa trổ bông tỏa hương thơm thoang thoảng. Hoa lúa màu trắng nõn. Rồi lúa ngậm sữa, lúa uốn câu. Chừng độ nửa tháng sáng, đồng lúa ửng vàng rồi chín rộ. Cả cánh đồng lúa mênh mông như một tấm thảm nhung màu vàng khổng lồ.
Đường quê thôn xóm thêm nhộn nhịp. Người ta đi hái lúa, tuốt lúa rồi đem phơi. Những khoảng sân nhà đầy ăm ắp những thóc, những rơm. Nắng vàng, rơm vàng, màu thóc vàng,… tất cả như tô điểm cho những thôn xóm những chiếc áo rực rỡ sắc màu của niềm vui và sự sung túc đủ đầy!
Cây lúa thật quý giá vô cùng! Hạt thóc người ta đem xay ra hạt gạo trắng ngần. Lớp vỏ bị tróc ra thường được gọi là trấu, dùng để nhóm lửa hoặc ủ phân cho cây trái trong vườn. Giữa lớp vỏ trấu ấy và hạt gạo trắng nõn ngọt lành là một lớp vỏ dinh dưỡng, khi xát lúa người ta thu được gọi là cám, dùng trong chăn nuôi rất thuận lợi. Đến phần thân cây lúa khi gặt về, cũng được đem ra phơi nắng thành rơm thành rạ để nhóm bếp. Những bông lúa nếp sau khi tuốt hạt thì được chọn lọc kĩ càng và dùng để làm chổi.
Hạt lúa là hạt vàng, Hạt gạo là hạt ngọc. Từ hạt gạo có thể chế biến được nhiều món ăn. Gạo xay giã thành bột để làm bánh, làm bánh đúc, bánh cuốn, bánh đa:
Bánh đúc thiếp đổ ra sàng
Thuận thiếp thiếp bán, thuận chàng chàng mua
(ca dao)
Bánh chưng, bánh dày, bánh ú, bánh gai, bánh xèo. Hàng trăm thứ bánh, hàng trăm thức quà đều làm từ hạt gạo dẻo thơm. Ngoài ra hạt gạo ở một số vùng qua còn được dùng để làm những thức quà riêng đặc sản của vùng miền như cốm làng Vòng.
Nâng bông lúa trên tay, ta càng thêm mến yêu mến và trân trọng! Màu xanh của lá lúa là màu xanh của sự sống, là sự trường tồn mãi mãi như câu ca dao xưa:
"Khi nào cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn." (ca dao)
8. Thuyết minh về cây lúa chi tiết - mẫu 2
“Trời cao đất rộng thênh thang
Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng
Cá tươi gạo trắng nước trong
Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê.”
Những câu thơ trên hàm ý muốn nhắn nhủ cho mỗi chúng ta về tinh yêu quê hương với những cánh đồng lúa bát ngát, mênh mang với hương lúa nồng nàn tình người, tình quê. Cây lúa là một trong những biểu tượng của quê hương Việt Nam, chính vì vậy mỗi người con Việt Nam khi xa quê đều nhớ về quê hương với cánh đồng lúa bao la, bát ngát mênh mông. Cây lúa vừa mang tính biểu tượng, bên cạnh đó nó cũng là nguồn lương thực chính của Việt Nam và hầu hết các nước châu Á.
Cây lúa và hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã là một hình ảnh bình dị, gần gũi thân thuộc và đi vào tiềm thức con người Việt Nam. Cây lúa đã gắn bó với người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam qua hàng bao đời nay. Là một nước nông nghiệp chính vì vậy lúa là loại cây lương thực chính với số lượng lớn ở Việt Nam.
Ở châu Á thì lúa được coi là cây lương thực chính trong năm loại cây lương thực: ngô, lúa mì, sắn, khoai tây và là nguồn lương thực quan trọng cho hầu hết các nước châu Á và trong đó có Việt Nam lúa là cây trồng nông nghiệp gắn bó với người nông dân Việt Nam bao đời nay nên lúa là cây trồng nông nghiệp chủ yếu và là cây trồng đem lại nguồn thu nhập kinh tế chính cho người nông dân. Lúa được xếp vào loại cây ngũ cốc.
Lúa là thực vật được xếp vào các loài cỏ đã thuần dưỡng vì vậy lúa có thân mềm, lá lúa dài mềm, thuôn nhọn về phía đầu lá, cây lúa thường có hình dáng nhỏ và cao khoảng 50cm. Để tạo ra những hạt gạo trắng ngần yêu cầu sự đòi hỏi chăm sóc, tưới tiêu rất cẩn thận của người nông dân. Lúa là loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn nên cây lúa có bộ rễ chùm. Lúa là loại cây thân mềm nên được người nông dân trồng sát nhau xếp thành từng hàng, từng lối thẳng hàng.
Người nông dân thường trồng lúa thẳng hàng, thành từng cụm để thuận tiện chăm sóc, tưới tiêu vừa tạo vẻ đẹp bình dị, nên thơ cho cánh đồng lúa và khi những làn gió khẽ lướt qua làm những cây lúa rung rinh, chuyển động, xô nhau theo làn gió tạo nên những làn sóng nhỏ đuổi nhau, khung cảnh ấy đẹp bình dị và thơ mộng biết bao, nó khiến tâm hồn ta trở nên trong trẻo và thuần khiết hơn.
Cây lúa có hai màu lá xanh và vàng. Tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng mà cây lúa có màu khác nhau. Khi mới trồng và trong giai đoạn phát triển lúa có màu xanh và khi lúa chín cây lúa tự chuyển sang màu vàng. Đặc biệt trong giai đoạn lúa chín, những bông lúa sẽ tỏa ra hương thơm rất đặc biệt, đó là hương thơm rất khó để có thể diễn tả được, phải tự bản thân mình tận hưởng mùi hương ấy mới có thể thấy hết sự trong trẻo nồng nàn trong hương thơm ấy.
Hạt thóc sau khi được thu hoạch sẽ được phơi khô rồi mang đi xát vỏ ngoài sẽ thu được hạt gạo và các phụ phẩm là cám và trấu. Tuy chỉ là những phụ phẩm nhưng trấu cũng có những công dụng của nó như để lót chuồng ủ làm phân, làm đất trồng cây. Còn cám sẽ được người dân tận dụng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Để trồng được một cây lúa cho ra những hạt thóc chắc mẩy ta cần chọn những hạt thóc chắc mẩy không sâu bệnh để làm giống. Rồi lấy những hạt thóc đó gieo xuống vùng đất thích hợp, để một thời gian chờ những hạt thóc đó lên mầm phát triển thành mạ. Khi chúng lên mạ, những cây lúa con (mạ) sẽ được người dân mang ra đồng cấy, chăm bón để trở thành những cây lúa trưởng thành. Trong giai đoạn này yêu cầu người dân chăm sóc cây kỹ lưỡng và chế độ nước tưới tiêu và phân bón hợp lý sau khoảng thời gian cần thiết lúa sẽ trổ bông và chín.
Lúa là loại cây trồng gắn bó với mỗi người nông dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử bởi lúa có những công dụng thiết thực trong cuộc sống. Trước hết cây lúa sản sinh ra những hạt gạo nguồn lương thực chính trong mỗi bữa ăn hằng ngày của mỗi chúng ta. Gạo còn là một trong những loại lương thực xuất khẩu ra nước ngoài, đem lại lợi ích kinh tế cho đất nước.
Với những lợi ích kinh tế của việc trồng lúa dần dần trồng lúa trở thành một nghề chính gia tăng kinh tế trong từng hộ gia đình. Gạo không chỉ nấu lên thành cơm, mà ngày nay gạo còn biến thành các món ăn khác nhau. Với những lợi ích công dụng của mình, cây lúa dần dần trở thành cây trồng chính trong các loại cây nông nghiệp ở Việt Nam.
9. Đoạn văn thuyết minh về cây lúa
Từ xa xưa, lúa đã loài cây vô cùng gần gũi với con người. Lúa là cây quan trọng không chỉ với người VIệt Nam mà còn là với hầu hết các nước châu Á. Nó là loài cây thuộc rễ chùm, có một lá mầm. Nói về trồng lúa thì ta biết nhiều về hai vụ chiêm và mùa- hai vụ trồng chính của người dân Việt Nam. Cây lúa được trồng và phát triển từ cây mạ. Mạ được gieo trên sân hoặc cấy trên ruộng. Người nông dân sẽ nhổ mạ và đem trồng trên ruộng đã có cày bừa, bơm nước. Mạ được trồng theo hàng, lối để đảm bảo khi mạ lớn lên thì sẽ có không gian phát triển. Nó lớn lên, đẻ nhánh và thành từng cụm lớn. Một màu xanh sẽ bao trùm trên đồng ruộng khi mạ lớn dần lên. Người nông dân sẽ chăm bón, phun thuốc sâu để cây lúa có thể thu hoạch tốt nhất. Lúa sau một thời gian chăm bẵm sẽ chín và ngả sang màu vàng với những hạt thóc chắc, mẩy. Lúa chín, người nông dân sẽ th hoạch mang về nhà rồi dùng máy tuốt phân biệt hạt thóc và phần rơm riêng biệt. Cây lúa nước là cây lương thực chủ đạo của Việt Nam, mặc dù bên cạnh nó còn có các loại cây khác như ngô, khoai, sắn…nhưng không loại cây nào có thể thay thế được vị trí, vai trò quan trọng của lúa nước.Lúa chính là thành quả của một quá trình lao động sản xuất nhiều công đoạn, trải qua nhiều nắng mưa, nhiều mồ hôi và lo toan của người nông dân. Bởi thế người ta vẫn bảo nhau rằng:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 9 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.
Tham khảo thêm
Top 16 bài thuyết minh về một đồ dùng mà em yêu thích
Thuyết minh về ngôi trường em đang học
Top 6 mẫu dàn ý thuyết minh về chiếc nón lá hay chọn lọc
Top 7 mẫu dàn ý thuyết minh về cây bút bi siêu hay
Top 16 mẫu thuyết minh về chiếc nón lá hay chọn lọc
Soạn Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh ngắn nhất
Viết đoạn văn thuyết minh về con trâu siêu hay (mới cập nhật)
Thế nào là văn bản thuyết minh?
- Chia sẻ:Trần Thu Trang
- Ngày:
Tải thuyết minh về cây lúa doc
08/11/2022 2:28:59 CH
Gợi ý cho bạn
-
(Chi tiết) Viết bài văn nghị luận xã hội về một vấn đề cần giải quyết biến đổi khí hậu
-
Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy
-
(Có đáp án) Chuyện gã Trà đồng giáng sinh đọc hiểu
-
(Có đáp án) Bộ đề thi thử vào 10 môn Văn tỉnh Bắc Giang
-
(Cực hay) Tổng hợp tri thức Ngữ văn 6, 7, 8, 9 Chân trời sáng tạo
-
Thực hành tiếng Việt - Một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn và cách phân biệt
-
Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi được thưởng thức một tác phẩm văn nghệ
-
Viết đoạn văn về đức tính khiêm nhường
-
(Cực hay) Soạn Văn 9 Kết nối tri thức Buổi tiễn đưa
-
Viết đoạn văn về việc sử dụng điện thoại của học sinh ngày nay
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Phân tích khổ 4 bài Tràng giangHướng dẫn khai Phiếu đảng viên (mẫu 2-HSĐV)
Cách viết Phiếu đảng viênMẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Bài thu hoạch học tập nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của ĐảngBiên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viên
Mẫu biên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viênTop 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Cảm nhận về bài thơ Sóng - Xuân QuỳnhThực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Đáp án bài tập cuối khóa module 9 môn ToánBài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2024 mới cập nhật
Module rèn luyện phong cách làm việc khoa học của người GVMNBộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2024
Lịch thi vẽ tranh Thiếu nhi Việt Nam mừng đại hội Đoàn 2024Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2024
Cách hủy tờ khai thuế giá trị gia tăngMẫu tờ trình xin kinh phí hoạt động 2024 mới nhất
Cách viết tờ trình xin kinh phí hoạt độngSuy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ NươngTờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2024
Áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công
Bài viết hay Văn mẫu 9
(Dàn ý) Viết bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết ô nhiễm môi trường biển
Đọc hiểu Nam Kim – Thị Đan
Phân tích truyện ngắn Anh Hai của Bùi Quang Minh
Viết một đoạn văn bình khổ 2 hoặc 3 của bài thơ Viếng lăng Bác
(Có đáp án) Đọc hiểu Hải khẩu linh từ
Viết đoạn văn về việc sử dụng điện thoại của học sinh ngày nay