Đọc hiểu Đá trổ bông

Lớp: Lớp 9
Môn: Ngữ Văn

Đá trổ bông là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tư, chạm đến trái tim của nhiều độc giả. Truyện không chỉ gây xúc động mà còn để lại trong lòng người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về tình người. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ một số mẫu đề đọc hiểu văn bản Đá trổ bông có đáp án chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Tóm tắt Đá trổ bông

Đá trổ bông" kể về cậu bé Khờ sống cùng mẹ trên núi. Vì hoàn cảnh khó khăn, người mẹ đành gửi Khờ lại cho những người dân trên núi và nói dối rằng khi nào đá trổ bông, mẹ sẽ quay lại đón cậu. Lời nói dối ấy đã trở thành niềm tin mãnh liệt trong lòng Khờ. Dù trải qua bao nhiêu khó khăn, thử thách, Khờ vẫn luôn tin rằng đá sẽ trổ bông và mẹ sẽ trở về.
Khờ- một cậu bé ngây thơ, chất phác, giàu tình yêu thương và niềm tin. Dù bị mẹ bỏ lại, Khờ vẫn luôn tin vào lời hứa của mẹ và sống lạc quan, yêu đời. Khờ là biểu tượng cho lòng tin và hy vọng, dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Mẹ của Khờ - một người mẹ nghèo khổ, thương con nhưng vì hoàn cảnh mà phải nói dối con. Quyết định của người mẹ có thể gây tranh cãi, nhưng ẩn sâu trong đó là tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Những người dân trên núi- những người tốt bụng, cưu mang Khờ và luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ cậu. Họ là biểu tượng cho lòng tốt, sự sẻ chia và tình người ấm áp.

Đá trổ bông thông điệp

Tình yêu thương của người mẹ dành cho con là vô điều kiện và bất diệt. Dù trong hoàn cảnh nào, mẹ cũng luôn mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho con.

Niềm tin vào những điều tốt đẹp sẽ giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Ngay cả khi hy vọng mong manh, niềm tin vẫn là động lực để con người tiếp tục sống và vươn lên.

Cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu con người biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Những người dân trên núi đã dang rộng vòng tay cưu mang Khờ, giúp cậu bé vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

Đọc hiểu văn bản Đá trổ bông - mẫu 1

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

(Lược trích: Khờ vẫn là một đứa trẻ. Năm Khét chín tuổi, mẹ đất nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đại đã trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Khở dần lớn lên nhờ chén cơm của cư dân trên suôn núi, cậu sẵn sàng làm bất cứ việc gì để giúp đỡ mọi người với lòng tốt vô tư.)

Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khở với núi chường tuần lễ. Nó bị sét đánh, Cải đầu trọc của nút mà nó đang chân giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mở thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lần ra, tốc chây xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đã trổ bông chưa?" Tôi ông trời còn không bứng thẳng Khờ ra khỏi mở đã đó, người mùi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quản nước tôi ngồi cùng máy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khô không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữu đó và nắng. Ngay khi ró bị che khuất bởi một của gất trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khô giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mùi lòng.

Hỏi mẹ Khờ cô từng quay lại không, người núi Xanh nôi biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, một mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tại nội chúng đã trổ bông mới lên đòn, giờ có trố xiu nào đâu", Khờ nói. Chỉ một lời đổi ầu ơ, nhưng với bộ nào ngờ nghệch của Khở, đã thành một thứ dây trỏi bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi. Mẹ Khả có ở đây, chắc e gi lay chuyển được vỏ, đã chưa nở bông nào. Dân núi Xanh có lần hồi tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khô, rằng đảm đà đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhữn thì biết, tới có còn không mọc nổi. Khở nói luôn, vậy mấy cục đá không bị trời đành thể nào cũng có bồi g Từ bữa đô nó leo trèo khắp núi. Lo bông đã đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.

Mình mà nói núi này đã đực khỏ ra bông, Khở sẽ hôi, vậy nút nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngỏ thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cải khạp da bò đặt ngay định trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.

Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đứng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đây. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chỉ, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miều cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bản mấy thứ thần được từ có cây mẹo mốc chở đậu. Nhưng Khờ xuất hiện, với đối thùng nước treo đầu gánh, rũ khơi khơi, lên núi chơi, bông đã nay mai sẽ trổ.

(Đá trổ bông, Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, 2019)

a. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể của truyện ngắn.

b. Chỉ ra biện pháp tu từ trong câu văn: Mua nó đi cọ rửa những bậc đã đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, công bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thắng Đen kẹt ở trường trong giông gió.

c. Anh/chị hiểu gì về hình ảnh "đá trổ bông" trong nhan đề và trong toàn bộ tác phẩm?

d. Qua truyện Đả trổ bông, anh/chị hãy nêu nhận xét về phong cách của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

e. Từ nội dung của văn bản anh/chị có suy nghĩ gì về sức mạnh của niềm tin trong cuộc sống?

g. Viết đoạn văn (khoảng 600 chữ) cảm nhận về nhân vật thẳng Khờ trong văn bản trên

Gợi ý

a. Trong truyện ngắn "Đá trổ bông", dấu hiệu để xác định ngôi kể là ngôi thứ nhất, khi người kể xưng "tôi". Điều này thể hiện qua những câu như "Tôi ông trời còn không bứng thẳng Khờ ra khỏi mở đã đó", hay "Tôi quay lại đứng cái chân núi..." Điều này cho thấy câu chuyện được kể từ góc nhìn của một người chứng kiến, không phải người trong cuộc, và sự kể chuyện mang tính trực tiếp, gần gũi với người đọc.

b. Câu văn: "Mua nó đi cọ rửa những bậc đã đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, công bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thắng Đen kẹt ở trường trong giông gió."

- Biện pháp tu từ trong câu này là liệt kê, với hàng loạt hành động khác nhau được nêu ra một cách liên tiếp để miêu tả công việc và sự vất vả của các nhân vật. Biện pháp này nhằm tạo ra một hình ảnh sống động về cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ của những con người trong tác phẩm.

c. Hình ảnh "đá trổ bông" là một phép ẩn dụ sâu sắc trong tác phẩm, thể hiện sự kiên cường, bền bỉ và khả năng vươn lên của nhân vật Khờ. "Đá" tượng trưng cho những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, còn "bông" là kết quả của sự kiên nhẫn, lòng tin và sự hy vọng. Câu chuyện về Khờ là hành trình chờ đợi "bông trổ" trên đá, tượng trưng cho khát khao sống, sự vươn lên từ những gian khó. Khờ, mặc dù là một đứa trẻ ngây ngô, vẫn có niềm tin mạnh mẽ vào những điều kỳ diệu, vào khả năng vượt qua thử thách mà không hề nản chí. Đây chính là hình ảnh của hy vọng và sự kiên cường trong cuộc sống.

d. Nguyễn Ngọc Tư có phong cách viết đặc trưng với lối kể chuyện giản dị, chân thật nhưng đầy ẩn dụ. Các tác phẩm của cô thường khám phá những khía cạnh sâu sắc của cuộc sống, nhân vật và tâm lý con người. Trong "Đá trổ bông", phong cách của tác giả thể hiện qua việc xây dựng một không gian núi non, hoang sơ và những nhân vật bình dị nhưng có nội tâm phức tạp. Những chi tiết nhỏ, như hình ảnh của Khờ leo núi, đem lại cảm giác mộc mạc, tự nhiên, nhưng lại sâu sắc và giàu ý nghĩa. Nguyễn Ngọc Tư thường sử dụng những hình ảnh đẹp và giàu tính tượng trưng để khắc họa những giá trị sống, niềm tin và hy vọng.

e. Niềm tin là yếu tố quan trọng giúp con người vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong cuộc sống. Trong "Đá trổ bông", nhân vật Khờ thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào điều kỳ diệu, vào khả năng bông "trổ" từ đá dù xung quanh mọi người đều nghĩ đó là điều không thể. Niềm tin của Khờ không chỉ là sự mong đợi một kết quả tốt đẹp mà còn là sự kiên nhẫn, dũng cảm để tiếp tục cố gắng dù không thấy rõ con đường phía trước. Câu chuyện cho thấy niềm tin là sức mạnh vô hình nhưng mạnh mẽ, giúp con người vượt qua mọi khổ ải và sống vững vàng hơn.

g. Nhân vật Khờ trong tác phẩm "Đá trổ bông" của Nguyễn Ngọc Tư là một hình mẫu nhân vật đặc biệt, mang đậm dấu ấn của sự ngây thơ, lạc quan và niềm tin vô bờ bến vào cuộc sống. Mặc dù chỉ là một đứa trẻ, Khờ thể hiện một sức mạnh nội tâm dẻo dai, kiên cường không thua kém những người lớn, điều này thể hiện rõ qua hành trình chờ đợi "bông trổ" trên đá của mình. Khờ không phải là nhân vật có trí tuệ sắc bén, cũng không phải là người thông minh hay khéo léo, nhưng chính sự chân thành, vô tư và niềm tin mãnh liệt vào những điều kỳ diệu trong cuộc sống đã tạo nên sức mạnh của cậu.

Khờ là một hình ảnh rất đặc biệt, một đứa trẻ vẫn giữ được sự ngây thơ và thuần khiết giữa cuộc sống đầy thử thách và gian khổ. Dù phải sống một mình trên núi, dù là người duy nhất gánh vác những công việc của người lớn, Khờ vẫn lạc quan và vô cùng tự tin. Cậu sẵn sàng làm bất cứ việc gì để giúp đỡ mọi người xung quanh mình, từ việc rửa bậc đá cho đến việc cung cấp nước cho du khách. Tất cả những hành động của Khờ đều được thực hiện với một tấm lòng chân thành và vô tư, không mong cầu đền đáp. Một trong những điểm nổi bật của Khờ là sự kiên nhẫn và niềm tin tuyệt đối vào một điều gì đó sẽ xảy ra, cho dù đó có thể là điều không tưởng. Khờ không ngừng leo núi, tìm kiếm những "bông" có thể nở từ đá, dù ai cũng nghĩ rằng điều đó là không thể. Hình ảnh "đá trổ bông" là một biểu tượng mạnh mẽ của sự hy vọng và kiên cường. Khờ tin rằng dù mọi người xung quanh có hoài nghi, thậm chí cười nhạo, thì chỉ cần cậu kiên trì, sự kỳ diệu sẽ đến. Qua nhân vật Khờ, tác giả Nguyễn Ngọc Tư gửi gắm một thông điệp sâu sắc về niềm tin và hy vọng. Khờ là hình mẫu của sự ngây thơ, của tình yêu và lòng tin vào cuộc sống, là sự khắc họa rõ nét về khả năng vượt qua khó khăn, thử thách chỉ nhờ vào một niềm tin mạnh mẽ. Chính niềm tin ấy giúp Khờ không ngừng bước đi, không ngừng tìm kiếm, mặc dù biết rằng không dễ dàng để đạt được mục tiêu.

Khờ, với những hành động vô tư và tâm hồn trong sáng, đã khiến người đọc cảm nhận được sức mạnh kỳ diệu của niềm tin. Đó là niềm tin không chỉ về những điều kỳ diệu có thể xảy ra, mà còn về sức mạnh của con người trong việc tạo dựng một cuộc sống tươi đẹp, bất chấp những khó khăn, thử thách. Chính sự kiên trì, niềm tin và lòng dũng cảm của Khờ đã làm nên một câu chuyện đẹp, đầy cảm động và đầy ý nghĩa về cuộc sống.

Đọc hiểu văn bản Đá trổ bông - mẫu 2

ĐÁ TRỔ BÔNG

Nguyễn Ngọc Tư(1)

Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói. Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm. Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi. Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi…
[…]

Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn(2) với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ căm đặt đâu ngồi đó. Chắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu nhờ uống nước trong gáo dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.

Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.
Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình. Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu(3) hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.

Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ. Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa?”

Tới ông trời còn không bứng thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.

Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ(4), nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi. Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.

Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.
Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.

Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu.

Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.

(In trong “Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm”, số Xuân Đinh Dậu, 2017)

(1) Nguyễn Ngọc Tư: sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau; là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam.

(2) Trửng giỡn: đùa cho vui

(3) Miễu: miếu nhỏ

(4) Lời dối ầu ơ: nói cho qua

Câu 1. Xác định ngôi kể trong văn bản trên. 

 Ngôi kể trong văn bản trên là ngôi thứ nhất

Câu 2. Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ trong câu văn sau: 

“Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió.”

Trả lời

Biện phép liệt kê: cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió.

- Hiệu quả: Diễn tả đầy đủ cụ thể những việc mà thằng Khờ đã làm cho người dân xóm núi Xanh. Qua đó cho thấy thằng Khờ là một thằng bé tốt bụng, giàu tình thương, sẵn lòng giúp đỡ dân làng.

Câu 3. Vì sao cậu bé Khờ tin là đá trổ bông?

Cậu bé Khờ tin là đá trổ bông bởi vì nó tin lời của người mẹ bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón.

Câu 4. Từ văn bản trên, em hãy rút ra một thông điệp có ý nghĩa với bản thân. 

Thông điệp có ý nghĩa với bản thân:

- Sống là phải có niềm tin. Niềm tin sẽ giúp con người vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

- Sống phải biết yêu thương cảm thông thấu hiểu và sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh...

* Học sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, miễn sao hợp lí.

Câu 5. Viết đoạn văn (200 chữ) phân tích một nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật (cốt truyện, cách xây dựng nhân vật, chi tiết tiêu biểu,…) của truyện ngắn trên. 

a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:

- Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (200 chữ) của đoạn văn.. Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng- phân - hợp,...

- Đảm bảo bố cục ba phần mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn. Đây chỉ là 1 đoạn trong bài văn phân tích tác phẩm văn học. HS Không biến thành bài văn thu nhỏ.

b. Xác định yêu cầu về mặt nội dung:

Đoạn văn phải phân tích một nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật (cốt truyện, cách xây dựng nhân vật, chi tiết tiêu biểu,…) của truyện ngắn.

Đoạn văn phải sử dụng lí lẽ, bằng chứng phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề trên.

c. Hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận

- Xác định được các ý phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề.

- Sắp xếp được hệ thống ý hợp lý theo đặc điểm bố cục của kiểu đoạn văn.

d. Viết đoạn văn đảm bảo các các yêu cầu sau:

- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề

- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.

- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục; lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp giữa lí lẽ và bằng chứng.

đ. Diễn đạt

Đảm bảo chuẩn chính tả, đúng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.

e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 190
Đọc hiểu Đá trổ bông
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
Đóng
Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm