(Có dàn ý) Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ Ai tư vãn (không chép mạng)

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học thơ song thất lục bát là nội dung bài học trang 53 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập 1 Kết nối tri thức. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ mẫu dàn ý nghị luận phân tích bài thơ Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân có kèm theo bài văn mẫu chi tiết để các em nắm được cách làm bài văn nghị luận phân tích tác phẩm Ai tư vãn.

Nghị luận phân tích tác phẩm Ai tư vãn

1. Dàn ý phân tích Ai tư vãn

1. Mở bài:

- Dẫn dắt: Tố Hữu đã từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời”.

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Nỗi buồn quả phụ là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất được trích từ tác phẩm Ai tư vấn của Lê Ngọc Hân.

- Nêu nhận định chung về tác phẩm/đoạn trích: Đoạn trích đã để lại trong lòng người đọc những day dứt khó quên bởi chính nỗi đau xé triền miên của một người quả phụ khóc thương cho người chồng của mình.

- Trích đoạn trích:

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:

Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?

2. Thân bài

1. Giới thiệu chung

- Lê Ngọc Hân (1770 – 1799) hay còn gọi là công chúa Ngọc Hân, là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông. Nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn, từ nhỏ đã tinh thông kinh sử và biết làm thơ. Năm 16 được, Ngọc Hân vâng lời vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Dù cuộc hôn nhân này nhằm mục đích chính trị nhưng tình cảm của hai người dành cho nhau sớm đã mặn nồng. Hạnh phúc không được bao lâu thì đến năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, để lại cho nàng hai đứa con nhỏ. Cũng chính vì thế mà bài thơ “Ai tư vẫn” được ra đời.

- “Ai tư vãn” có nghĩa là “Bài vãn ca về nỗi buồn đau tưởng nhớ". Như chính tên gọi của nó, bài thơ là tiếng khóc thành thơ, là nỗi buồn đau khôn xiết của công chúa Ngọc Hân khi biết người chồng yêu quý của mình đã không còn tồn tại trên cõi đời.

- Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” thuộc phần cuối, thể hiện rất rõ tư tưởng chính của tác phẩm cũng như tài năng văn chương của công chúa Ngọc Hân.

2. Phân tích đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích *Khổ thơ 1, 2:

- Hình ảnh:

+“Trăng” là một hình ảnh thường hay xuất hiện trong thơ ca trung đại. Trăng đại diện cho những điều đẹp đẽ, cho hẹn ước của đôi lứa, cho cả những khát vọng chưa thể thực hiện. Người quả phụ đứng trước nỗi buồn, ngước nhìn lên trăng với mong ước giải bớt nỗi u sầu nhưng thật khó vì trăng cũng không còn trọn trịa, đầy đặn như một thời quá khứ viên mãn. Phải chăng, “trăng mờ” chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là do giọt nước mắt còn vương trên mi nàng đã làm cho trăng cứ thế mở đi mãi.

+ Đứng trước gương, gương soi chiếu hình ảnh của chính mình, thi sĩ lại càng thấy hổ thẹn với lòng mình hơn.

+ “Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà”: ngỡ là một mối lương duyên trời ban, nhưng khi đứng trước thực tại âm dương cách biệt, nhìn lại hiện thực phũ phàng, chỉ thấy lòng người càng thêm lạnh giá. Thương cho chồng chốn biên cương lạnh lẽo, cũng thương cho số phận hẩm hiu của chính mình.

+ “Hoa buồn”, “Cảnh hải đường đã quyện giọt sương”: hoa hải đường là loài hoa tượng trưng cho sự may mắn, tốt đẹp. Nhưng nay hải đường đã quyện sương, hay chính ý tác giả là hải đường đang khóc như là một điềm gở. Thiên nhiên cũng khóc thương cho chuyện tình của nàng.

+ “Trông chim càng dễ đoạn trưởng/ Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi”: trông chim bay thì thấy chim tan đà lẻ bóng, uyên ương nay chỉ còn lại chiếc bóng, phượng hoàng cũng chỉ còn là lẻ đôi. Nhìn vào đâu đâu cũng chỉ thấy sự chia lìa xa cách.

- Từ ngữ:

+Các từ ngữ: “buồn”, “tui”, “thẹn”, “lạnh lẽo”, “quyện”, “lẽ đôi”... góp phần làm tăng thêm màu sắc u buồn, bi lụy cho câu thơ; nhấn mạnh và xoáy sâu vào trong nỗi buồn của người quả phụ.

- Biện pháp tu từ:

+ Điệp từ, điệp cấu trúc “Buồn trông”, “buồn xem”, “nhìn gương”, “trông chim”... đã góp phần thể hiện tâm trạng: khiến cho nỗi buồn cứ trở đi trở lại trong những vần thơ, mang một cảm thức não nùng thê lương. Cũng như giúp cho bài thơ trở nên nhịp nhàng, uyển chuyển, tăng thêm giá trị nghệ thuật cho bài thơ.

+ Nhân hóa; hoa buồn, uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẽ đôi => Làm cho vạn vật trở nên có hồn hơn, từ đó nỗi sầu cũng bao trọn không gian.

=> Kết luận: Những hình ảnh và từ ngữ đã nhuốm lên trang thơ một màu sắc bị thương khó tả. Người quả phụ nhìn lên trăng, thấy trăng mờ, nhìn xuống hoa chỉ thấy hoa tàn úa. Một mình cô đơn trong phòng khuê lạnh lẽo, đến bầu bạn cùng hoa cũng chỉ thấy hoa đã tàn úa. Nỗi buồn cứ thế lan dần ra, chiếm hết mọi ngõ ngách không gian.

* Khổ 3:

- Hình ảnh:

+ “Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy/ Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!”: Ngắm nhìn cảnh vật, người quả phụ chỉ thấy một màu đau buồn tang tóc. Trở về thực tại, về với chính cõi | lòng của mình, nàng thấy tiếc thương cho những tháng năm hạnh phúc trong quá khứ, cho cuộc tình oái ăm này.

+ Thành ngữ “Bãi bể nương dâu” được tác giả sử dụng để chỉ những biến cố, những thay đổi lớn trong cuộc đời. Ở đây, đó chính là cái chết của vua Quang Trung, một sự mất mát vô cùng to lớn trong cuộc đời của công chúa Ngọc Hân.

- Từ ngữ: “ngùi ngùi”, “còn thấy chi đâu”, “bãi biển nương dâu”... có tác dụng trong việc miêu tả một cuộc đời không mấy thuận lợi. Làm tăng thêm nỗi buồn, sự ai thán về cuộc đời

của người quả phụ.

- Biện pháp tu từ: Việc sử dụng thành ngữ cùng với câu hỏi tu từ “cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?” như chính là một lời trách cử cho số phận của mình, cũng như thể hiện sự bất lực của nàng trước sự xoay chuyển của cuộc đời.

=> Kết luận: Khổ thơ là tiếng lòng xót thương cho cuộc đời của mình, là nỗi đau buồn khi phải sống trong cảnh quá phụ cô đơn lẻ chiếc một mình.

Đánh giá chung

- Nghệ thuật:

+ Bút pháp tả cảnh ngụ tỉnh: Xuyên suốt đoạn trích, cảnh vật thê lương, ảm đạm: trăng mờ, hoa buồn, hải đường quyện giọt sương, uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi... Không có một hình ảnh nào ấm áp, vui tươi. Nỗi buồn của nàng đã ngấm sâu vào trong cảnh vật, làm cho mọi thứ nhuốm một màu sắc bị thương, u tối.

+ Giọng điệu u buồn, xót xa.

+ Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng đã góp phần làm nên thành công của đoạn trích.

- Nội dung: Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” khắc họa nỗi buồn triên miên của người phụ nữ cũng như thể hiện tình yêu của bà dành cho vua Quang Trung.

4. Liên hệ mở rộng

Có thể liên hệ với một số câu thơ cũng viết về tình cảnh lẻ loi, cô đơn hoặc sự buồn tủi của người phụ nữ trong văn học trung đại. Cụ thể:

- Sự lẻ loi, cô đơn, luôn ngóng trông người chồng mình trở về của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn:

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thẩu,

Nỗi nhớ chàng đau đầu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phùn."

Khác với “Ai tư vấn” của “Lê Ngọc Hân, bài thơ “Chinh phụ ngâm” thể hiện nỗi nhớ đến tột cùng của người chinh phụ, luôn ngóng trông tin của người chồng từ phương xa trở về. Một nét chung có thể thấy ở cả hai tác phẩm là bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng điêu luyện. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình đã ngấm sâu vào trong cảnh vật, làm cho thiên nhiên, trời đất cũng phải buồn theo con người.

Kết bài

- Khẳng định lại giá trị và ý nghĩa của đoạn trích: Là tiếng lòng được cất lên từ chính cuộc đời của mình, “Nỗi buồn quả phụ” là một đoạn trích rất đặc sắc, là những dòng tâm sự của nàng về cuộc đời của mình, về nỗi buồn chua xót khi mất đi người chồng.

- Liên hệ bản thân/thời đại: Chính những cảm xúc chân thành ấy đã làm nên sự thành công cho tác phẩm của nàng cũng như ghi dấu ấn với bạn đọc muôn thế hệ.

2. Phân tích tác phẩm thơ song thất lục bát Ai tư vãn

Như nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời”. Phải chăng chính vì điều đó mà ta bắt gặp một chất giọng sầu thương ai oán trong tác phẩm “Ai tự vãn” của Lê Ngọc Hân. Nổi bật lên trong thi phẩm là đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” bởi chính nỗi đau xé triền miền của một người quả phụ khóc thương cho người chồng của mình:

“Buồn trông trùng, trăng mờ thêm tủi:

Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?”

Lê Ngọc Hân (1770-799) hay còn gọi là công chúa Ngọc Hân, là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông. Nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn, từ nhỏ đã tinh thông kinh sử và biết làm thơ. Năm 16 được, Ngọc Hân vâng lời vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Dù cuộc hôn nhân này nhằm mục đích chính trị nhưng tình cảm của hai người dành cho nhau sớm đã mặn nồng. Hạnh phúc không được bao lâu thì đến năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, để lại cho nàng hai đứa con nhỏ. Cũng chính vì thế mà bài thơ “Ai tư vẫn” được ra đời.

Ai tư vãn” có nghĩa là “Bài văn ca về nỗi buồn đau tưởng nhớ”. Như chính tên gọi bài thơ là tiếng khóc thành thơ, là nỗi buồn đau khôn xiết của công chúa Ngọc Hân khi biết người chồng yêu quý của mình đã không còn tồn tại trên cõi đời. Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” thuộc phần cuối, thể hiện rất rõ tư tưởng chính của tác phẩm cũng như tài năng văn chương của công chúa Ngọc Hân.

Ở hai khổ thơ đầu tiên, ta đã thấy được nỗi buồn triền miên từ sâu thẳm trong tâm hồn của nhân vật trữ tỉnh. Ngay từ đầu đoạn trích, một màu sắc u ám đã bao lấy toàn bộ cảnh vật:

“Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:

Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!"

Một mình lẻ loi trong căn phòng trống, người quả phụ ngước nhìn lên trăng, để tìm cho mình chút an ủi, nhưng dường như mọi thứ lại càng trở nên tồi tệ hơn. “Trăng” là một hình ảnh thường hay xuất hiện trong thơ ca trung đại. Trăng đại diện cho những điều đẹp đẽ, cho hẹn ước của đôi lứa, cho cả những khát vọng chưa thể thực hiện được. Người quả phụ đứng trước nỗi buồn, ngước nhìn lên trăng với mong ước giải bớt nỗi u sầu nhưng thật khó vì trăng cũng không còn trọn trịa, đầy đặn như một thời quá khứ viên mãn. Phải chăng, “trăng mờ” chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là do giọt nước mắt còn vương trên mi nàng đã làm cho trăng cứ thế mờ đi mãi.

Lặng ngắm mình trước gương, thi sĩ lại càng thấy hổ thẹn với lòng mình hơn:

“Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,

Thiên duyên lạnh lẽo, đêm động biên hà.”

Cứ ngỡ cuộc tình này là một mối lương duyên trời ban, nhưng khi đứng trước thực tại âm dương cách biệt, nhìn lại hiện thực phũ phàng, chỉ thấy lòng người càng thêm lạnh giá. Thương cho chồng chốn biên cương lạnh lẽo, cũng thương cho số phận hẩm hiu của chính mình.

Nỗi buồn của người quả phụ ấy đã ngấm sâu vào cả trong những bông hoa trong vườn. Quanh quẩn buồn chán, ngắm nhìn những bông hoa, nhưng nào biết rằng hoa cũng đã nhuốm màu tâm trạng của chính mình:

“Buồn xem hoa, hoa buồn Nệm thẹn

Cảnh hải đường đã quyện giọt sương!”

Hoa hải đường là loài hoa tượng trưng cho sự may mắn, tốt đẹp. Nhưng nay hải đường đã quyện sương. Đấy là giọt sương hay giọt lệ của hoa. Phải chăng, ý của tác giả là hải đường đang khóc. Như vậy, thiên nhiên cũng khóc thương cho chuyện tình của nàng. Nhìn lên trăng, trăng cũng đeo sầu, nhìn vào gương chỉ thấy mình thêm thẹn, nhìn xuống hoa thấy hoa đang khóc, nhìn ra xa lại thấy chim lẻ bóng đơn côi. Nhìn vào đâu đâu, nàng cũng chỉ thấy sự chia lìa xa cách:

Trông chim càng dễ đoạn trường

uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi”

Việc sử dụng các hình ảnh trên kết hợp cùng lớp từ ngữ: buồn”, “tủi”, “thẹn”, “lạnh lẽo”, “quyện”, “lễ đôi”... góp phần làm tăng thêm màu sắc u buồn, bi lụy cho câu thơ; nhấn mạnh Và xoáy sâu vào trong nỗi buồn của người quả phụ. Ngoài ra, ta còn thấy sự tài năng của tác gia được thể hiện qua các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp cấu trúc “Buồn trông”, “buôn xem”, “nhìn gương”, “trông chim”... đã góp phần thể hiện tâm trạng: khiến cho nỗi buồn cứ trở đi trở lại trong những vần thơ, mang một cảm thức não nùng thê lương. Cũng như giúp cho bài thơ trở nên nhịp nhàng, uyển chuyển, tăng thêm giá trị nghệ thuật cho bài thơ. Hay là biện pháp tu từ nhân hóa: hoa buồn, uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi làm cho vạn vật trở nên có hồn hơn, từ đó nỗi sầu cũng bao trọn không gian.

Sự kết hợp của các từ hình ảnh và từ ngữ trong hai khổ thơ trên đã nhuốm lên trang thơ một màu sắc bị thương khó tả. Người quả phụ nhìn lên trăng, thấy trăng mờ, nhìn xuống hoa chỉ thấy hoa tàn úa. Một mình cô đơn trong phòng khuê lạnh lẽo, đến bầu bạn cùng hoa cũng chỉ thấy hoa đã tàn úa. Nỗi buồn cứ thế lan dần ra, chiếm hết mọi ngõ ngách không gian.

Nếu hai khổ thơ trước, Lê Ngọc Hân khắc họa nỗi buồn của mình hòa vào thiên nhiên cảnh vật, thì tới khổ thơ tiếp theo ta như được nghe thấy tiếng lòng ai oán của nàng về cuộc tình hẩm hiu của chính mình:

“Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.

Tiệc vui mừng còn thấy chỉ đâu!

Phút giây bãi biển nương dâu,

Cuộc đời là thể, biết hầu nài sao?”

Ngắm nhìn cảnh vật, người quả phụ chỉ thấy một màu đau buồn tang tóc. Trở về thực tại, về với chính cõi lòng của mình, nàng thấy tiếc thương cho những tháng năm hạnh phúc trong quá khứ, cho cuộc tình oái ăm này. Thành ngữ “Bãi bể nương dâu” được tác giả sử dụng để chỉ những biến cố, những thay đổi lớn trong cuộc đời. Ở đây, đó chính là cái chết của vua Quang Trung, một sự mất mát vô cùng to lớn trong cuộc đời của công chúa Ngọc Hân. Các từ ngữ “ngùi ngùi, “còn thấy chi đâu”, “bãi biển nương đâu”... có tác dụng trong việc miêu tả một cuộc đời không mấy thuận lợi. Làm tăng thêm nỗi buồn, sự ai thán về cuộc đời của người quả phụ. Việc sử dụng thành ngữ cùng với câu hỏi ta từ “cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?” như chính là một lời trách cứ cho số phận của mình, cũng như thể hiện sự bất lực của nàng trước sự xoay chuyển của cuộc đời. Khổ thơ là tiếng lòng xót thương cho cuộc đời của mình, là nỗi đau buồn khi phải sống trong ảnh quá phụ cô đơn lẻ chiếc một mình.

Chỉ vỏn vẹn trong ba khổ thơ ngắn, đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” đã khắc họa rất thành công nỗi buồn triền miên, sự đau khổ trong tấm hồn của tác giả cũng như thể hiện tình yêu mà nàng dành cho người chồng của mình. Và để có thể chuyển tải một cách sâu sắc tâm trạng cũng như tấm lòng của Ngọc Hân dành cho Quang Trung, đoạn trích đã xây dựng rất thành công một số biện pháp nghệ thuật, đặc biệt phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Xuyên suốt đoạn trích, cảnh vật thê lương, ảm đạm: trăng mờ, hoa buồn, hải đường quyện giọt sương, uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi... Không có một hình ảnh nào ấm áp, vui tươi. Nỗi buồn của nàng đã ngấm sâu vào trong cảnh vật, làm cho mọi thứ nhuốm một màu sắc bị thương, u tối. Bên cạnh đó, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng đã góp phần làm nên thành công của đoạn trích. Từ đó ta có thể thấy được sự tài năng của tác giả.

Cùng viết về nỗi buồn, sự cô đơn của người phụ nữ, nhưng ở mỗi tác phẩm khác nhau, mỗi tác gia lại có những cách thể hiện khác nhau. Trong đó, có thể kể đến bài thơ “Chinh phụ ngâm. Đặng Trần Côn đã tập trung khắc họa sự lẻ lôi, cô độc, luôn ngóng trông người

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phùn”.

Khác với “Ai tư vãn” của “Lê Ngọc Hân, bài thơ “Chinh phụ ngâm” thể hiện nỗi nhớ đến tột cùng của người chinh phụ, luôn ngóng trông tin của người chồng từ phương xa trở về. Một nét chung có thể thấy ở cả hai tác phẩm là bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng điêu luyện. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tỉnh đã ngấm sâu vào trong cảnh vật, làm cho thiên nhiên, trời đất cũng phải buồn theo con người.

Là tiếng lòng được cất lên từ chính cuộc đời của mình, “Nỗi buồn quả phụ” là một đoạn trích rất đặc sắc, là những dòng tâm sự của nàng về cuộc đời của mình, về nỗi buồn chua xót khi mất đi người chồng. Chính những cảm xúc chân thành ấy đã làm nên sự thành công cho tác phẩm của nàng cũng như ghi dấu ấn với bạn đọc muôn thế hệ.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
3 1.396
0 Bình luận
Sắp xếp theo