Phân tích bài Khóc Dương Khuê

Khóc Dương Khuê là một bài thơ được viết theo thể thơ song thất lục bát của tác giả Nguyễn Khuyến. Bài thơ thể hiện một tình bạn tri âm, tri kỉ của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ mẫu dàn ý phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê cùng với một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê hay và chi tiết sẽ giúp các em nắm được cách làm bài.

Phân tích Khóc Dương Khuê

1. Dàn ý phân tích tác phẩm Khóc Dương Khuê

Mở bài:

- Dẫn dắt: Tình bạn là một trong những thứ tình cảm cao quý nhất của loài người.

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Trong kho tàng văn học nhân loại, có rất nhiều tác phẩm giá trị viết về đề tài này. Trong đó, “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến xứng đáng là một áng văn bất hủ.

- Nêu nhận định chung về tác phẩm: Tác phẩm là tiếng khóc ỉ ôi, là nỗi đau chua xót của Nguyễn Khuyến khi đứng trước cái chết của người bạn tâm giao của mình.

Thân bài:

1. Giới thiệu chung

- Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) sinh ra tại quê ngoại ở tỉnh Nam Định, nhưng lớn lên và sống chủ yếu tại tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một nhà Nho nghèo, đến năm 1864 ông mới đỗ đầu kì thi Hương, năm 1871 đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình. Dù đỗ đạt cao nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan trong vòng mười năm sau đó lại về quê dạy học sống thanh bạch chốn quê nhà. Nguyễn Khuyến là một người rất có tài, có cốt cách thanh cao và một tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết. Những sáng tác của ông thành công trên cả chữ Hán và chữ Nôm với những giá trị hết sức to lớn.

- Dương Khuê là một trong những người bạn thân thiết nhất của Nguyễn Khuyến. Họ kết giao từ thuở mới bước vào trường thi, cùng chia sẻ với nhau hết những ngọt bùi của chốn quan trường. Sau này, khi kinh thành thất thủ, Nguyễn Khuyến cáo quan về quê ở ấn, còn Dương Khuê vẫn còn nấn ná lại với triều đình để gắng làm tròn chữ nghĩa theo cách của mình. Đến năm 1902, khi nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ này để khóc bạn.

- “Khóc Dương Khuê” là một áng thơ vô cùng giản dị, với lối câu từ giản dị, chất phác tiếng khóc của Nguyễn Khuyến cứ thế mà được trải dài trong những vần thơ. Những kỉ niệm năm xưa ngọt ngào, một thực tế đau đến phũ phàng đều được tác giả thể hiện một cách rất chân thực và sâu sắc.

2. Phân tích đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ

*Hai câu thơ đầu: Báo tin Dương Khuê mất

- Hình ảnh:

+ “Bác Dương thôi đã thôi rồi”: Nguyễn Khuyến đã thể hiện sự gần gũi cùng tôn kính của mình với người bạn của mình qua cách xưng hô “bác Dương”.

+ “Nước mây man mác”: không gian cũng nhuộm màu tang thương.

+ “Ngậm ngùi lòng ta”: nhận được tin bạn mất khiến cho Nguyễn Khuyến cảm thấy vô cùng đau xót, như đứt từng khúc ruột ra vậy.

- Từ ngữ: thôi đã thôi rồi, man mác, ngậm ngùi

- Biện pháp tu từ:

+ Nói giảm nói tránh: thôi đã thôi rồi: làm giảm đi cảm giác đau buồn, hiện thực phũ phàng với tác giả.

+ Điệp từ: thôi: nhấn mạnh vào sự mất mát, trống vắng, nỗi đau trong lòng của nhân vật trữ tình.

=> Kết luận: Hai câu thơ mở đầu như một tiếng nấc nghẹn ngào được tác giả cất lên khi hay tin người bạn chí cốt của mình đã ra đi mãi mãi.

*Mười hai câu thơ tiếp theo: Sự hồi tưởng về những kỉ niệm thời xuân xanh

- Hình ảnh:

+ “Thuở đăng khoa ngày trước”, “tôi với bác cùng nhau”, “chơi nơi dặm khách”, “tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”, “tầng gác cheo leo”, “rượu ngon cùng nhắp”, “bàn soạn câu văn”: Sau những phút giây hốt hoảng vì sự ra đi đột ngột của người bạn tôn quý, Nguyễn Khuyết bình tĩnh trở về với lòng mình, tác giả nhớ lại những kỉ niệm trước đây hai người cùng nhau trải qua, cả một quãng thanh xuân tươi đẹp hiện ra trước mắt tác giả. Đó là những kỉ ức, những kỉ niệm không bao giờ có thể quên được của cả hai người. Từ những lần gặp nhau đầu tiên “thuở đăng khoa”, cho đến những ngày tháng cùng nhau rong ruổi tận hưởng những thú vui ở đời, cũng có khi say xưa bên chén rượu, hay những khi ngâm đàn hát xướng ca. Nhưng giờ đây, tất cả cũng chỉ còn là kỉ niệm mà thôi.

- Từ ngữ: nhớ, sớm hôm, cùng nhau, kính yêu, duyên trời, có khi, cũng có lúc, biết bao => Thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết và nhấn mạnh vào những kí ức ngọt ngào giữa hai người.

- Biện pháp tu từ:

+ Liệt kê kết hợp cùng điệp cấu trúc: cũng có lúc, cũng có khi đan chéo vào nhau vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha, thể hiện một tình bạn vô cùng đẹp đẽ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.

=> Kết luận: Khổ thơ là những kỉ niệm vô cùng sâu sắc, đẹp đẽ về tình bạn, là những kí ức không bao giờ quên được đối với tác giả.

*Tám câu thơ tiếp: Ấn tượng trong lần gặp cuối cùng, lúc cả hai đã mãn chiều xế bóng.

- Hình ảnh:

+ “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn/ Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”: Ý của Nguyễn Khuyến đang muốn nói đến sự nhiễu nhương của buổi giao thời. Đứng trước những biến động của xã hội, Nguyễn Khuyến đã chọn cho mình con đường cáo quan ở ẩn, còn Dương Khuê vẫn chọn ở lại làm quan. Chính vì vậy mà họ đã xa cách từ đó.

+ “Cầm tay nói hết xa gần/ Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”: Sau những năm tháng xa cách mỗi người một phương trời, gặp lại tri kỷ nói hết những chuyện gần xa, tâm sự hết những vấn đề của cuộc sống. Thật vui sướng và hạnh phúc vì người bạn của mình vẫn còn rất khỏe mạnh và vẫn giữ được chí hướng ban đầu.

- Từ ngữ: than, già, mừng rằng, chưa can, hỏi hết xa gần

=> Kết luận: Bằng giọng điệu chua xót, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng với cụ Dương Khuê. Đó là vào ba năm trước, hạnh phúc và vui sương vì bác vẫn giữ nguyên được cốt cách của mình, cũng như vẫn còn khỏe mạnh so với tuổi. Nhưng thật không ngờ lần gặp đó lại là lần gặp cuối, chia tay lần ấy lại là lời vĩnh biệt.

*Mười sáu câu cuối: Nỗi đau khôn tả lúc bạn dứt áo ra đi

- Hình ảnh:

+ “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác/ Tôi lại đau trước bác mấy ngày/ Làm sao bác vội về ngay/ Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”: Trở lại với thực tế phũ phàng, dường như Nguyễn Khuyến vẫn chưa thể tin rằng đây là một sự thật. Nhìn vào thực tế, tác giả cho rằng xét về tuổi tác mình già hơn Dương Khuê, xét về sức khỏe, tác giả còn đau ốm cả trước người bạn già của mình. Tác giả giãi bày nỗi đau tê tái, bủn rủn của mình. Tin bạn mất đã khiến cho ông không còn tin vào thực tại, chỉ thấy chân tay mình trở nên rụng rời. Nhưng trớ trêu thay, đó lại là một sự thật nghiệt ngã.

+ “Ai chẳng biết chán đời là phải/ Vội vàng sao đã mải lên tiên”: Nguyễn Khuyến có ý trách cứ người bạn của mình. Dẫu biết rằng cuộc đời này đáng chán, nhưng tại sao lại bỏ ông mà về bên kia trước. Sao lại để tác giả phải một mình giữa cái thời thế chán kinh người này.

+ “Rượu ngon không có bạn hiền”, “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết”, “Giường kia treo những hững hờ”, “Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”: Thẩn thơ một mình nhìn vào thực tại chán chường, giờ đây trước mắt tác giả là một sự trống vắng đến ghê người. Nhớ trước kia tôi với bạn cùng nhau uống rượu ngâm thơ, cùng nhau say sưa đàn ca dưới ánh trăng. Ấy thế mà giờ đây, rượu ngon đã có nhưng bác ở đâu, thơ viết ra cũng chẳng còn ai tâm đầu ý hợp mà luận mà ca, giường kia cũng trở nên lạnh lẽo khó gần, đàn kia gẩy lên cũng chẳng còn thấy hay ho tí nào. Sự trống vắng cứ thế mà dâng trào trong trái tim của thi sĩ, đọng lại một niềm đau đáu nhớ bạn đến khôn nguôi.

+ “Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.": Thể hiện một nỗi đau triền miên đến bất tận, đó là tiếng khóc không nước mắt, là những hàng lệ chảy ngược vào trong. Hai câu thơ đã cực tả nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.

- Từ ngữ: lên tiên, không viết, hững hờ, đưa ai, ngẩn ngơ, hạt lệ, chứa chan... => thể hiện sự đau đớn khôn nguôi trong tâm hồn của thi sĩ.

- Biện pháp tu từ: Liệt kê thực tế phũ phàng khi không còn có bạn đồng hành qua => nhấn mạnh thêm nỗi đau và sự trống vắng trong lòng của tác giả.

=> Kết luận: Như vậy, với mạch cảm xúc ấy, nỗi đau khi mất đi ngừi bạn thân thiết của mình đã được Nguyễn Khuyến đặc tả dưới những cung bậc khác nhau: có khi thì bộc phát, khi lại trở nên ngậm ngùi nuối tiếc, lúc lại lắng đọng vào sâu trong tâm hồn của tác giả.

3. Đánh giá chung

- Nghệ thuật

+ Sử dụng thể thơ song thất lục bát mang đậm đà bản sắc dân tộc.

+ Ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu, lời thơ chân thành, thấm thía.

+ Các biện pháp tu từ như nói giảm nói tránh, điệp cấu trúc, so sánh, câu hỏi tu từ... cũng góp một phần không nhỏ trong việc làm nên thành công của tác phẩm.

- Nội dung: Bài thơ mang một nỗi niềm tiếc nuối sâu sắc về sự ra đi của người bạn thân thiết của mình, từ đó góp phần khẳng định những giá trị tốt đẹp về tình cảm giữa con người với con người. Bài thơ đã để lại cái nhìn cao đẹp về tình bạn cũng như nhân cách cao đẹp của Nguyễn Khuyến.

4. Liên hệ mở rộng

Nếu Việt Nam có tình bạn đẹp của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, thì Trung Hoa có đôi bạn Lý Bạch và Đỗ Phủ. Dù tính cách của hai người này có nét trái ngược nhau, Lý Bạch có tâm hồn phóng khoáng, phiêu liêu, thích tự do, bồ bã. Đỗ Phủ lại là một nặng tình, nhiều tâm tư, lắm nguyên tắc, kính thánh tôn hiền. Nhưng họ đã gặp nhau và trở thành những người bạn bè thân thiết của nhau. Viết về chuyện tình này, Đỗ Phủ đã từng thổ lộ rằng:

“Dư diệc Đông Mông khách

Liên quân như đệ huynh

Tuý miên thu cộng bị

Huề thủ nhật đồng hành.”

Nghĩa là:

“Tôi cũng là khách như ông ở Đông Mông.

Ta thương nhau như anh em ruột.

Trời thu lạnh, say ngủ đắp chung chăn

Ban ngày nắm tay cùng đi đây đó.”

Họ gặp nhau khi cả hai cùng làm khách ở Đông Mông. Như một mối lương duyên trời định, cả hai thi thánh đã kết duyên bạn bè với nhau. Có biết bao kỉ niệm buồn vui, cùng gắn bó với nhau trên những chặng đường lớn nhỏ, lang thang cùng với nhau khắp chốn đó đây. Như vậy, có thể thấy, tình bạn là một chủ đề rất quen thuộc trong thơ ca, mỗi người đều sẽ có những câu chuyện khác nhau. Và nghiễm nhiên rằng, mỗi tác giả đều cũng sẽ có những cách thức khác nhau để chuyển tải câu chuyện của mình.

Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị và ý nghĩa của tác phẩm: “Khóc Dương Khuê” xứng đáng là một trong những bài thơ đặc sắc nhất viết về tình bạn của thơ ca nhân loại.

- Liên hệ bản thân, thời đại: Chính nhờ những cảm xúc chân thành được cất lên từ chính trái tim mình, mà Nguyễn Khuyến đã tạo nên cho tác phẩm một dấu ấn khó phai trong lòng độc giả đến muôn đời.

2. Phân tích Khóc Dương Khuê lớp 9

Đề bài: Viết bài văn nghị luận (khoảng 900 chữ) phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến.

* Giới thiệu được vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm cá nhân về vấn đề nghị luận:

Tình bạn là một trong số nhưng đề tài có từ lâu đời trong lịch sử văn học Việt Nam. Bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn. Tác phẩm là dòng cảm xúc đau xót khôn nguôi của tác giả khi hay tin người bạn tri âm tri kỉ qua đời.

* Triển khai vấn đề cần nghị luận:

Khái quát:

- Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiết như vậy khi hay tin bạn qua đời.

- Bài "Khóc Dương Khuê" lúc đầu viết bằng chữ Hán, sau đó được chính Nguyễn Khuyến dịch ra chữ Nôm và bản chữ Nôm lại có phần phổ biến hơn. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm lệ, gồm có 38 câu.

Phân tích bài thơ:

Luận điểm 1: Phân tích nội dung chủ đề của văn bản

- Trước tiên, hai câu thơ đầu diễn tả nỗi đau đột ngột của nhà thơ khi mất bạn:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”

+ Câu lục ngắt nhịp 2/1/3 => đọc lên nghe nhói đau, quặn thắt như những tiếng nấc nghẹn trong nỗi đau đến quá bất ngờ.

+ Cách dùng “thôi đã thôi rồi”: cách nói giảm nói tránh để giảm bớt nỗi đau của cảnh sinh li tử biệt.

+ Cách xưng hô “bác” thể hiện sự thân thiết trân trọng với người đã khuất.

+ Các từ láy “man mác, ngậm ngùi” kết hợp với nhịp thơ 4/4 ở câu bát đã diễn tả nỗi đau kéo dài như vô tận. Nỗi đau từ chính cõi lòng nhà thơ lan tỏa ra cả không gian rộng lớn, bao la.

Lời thơ như một tiếng than đầy thương tiếc, nhẹ nhàng mà thắm thiết.

- Đoạn thơ tiếp theo gồm 20 câu đã tái hiện lại những kỉ niệm về tình bạn trong hồi tưởng của nhà thơ:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

[...]

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

+ Từng kỉ niệm như sống lại trong trí nhớ của nhà thơ với người bạn của mình: Cùng nhau thi đỗ làm quan; cùng nhau rong chơi khắp chốn; cùng ngân nga hát ả đào; cùng nhau uống rượu và bình luận thơ văn; cùng nhau trải qua những buổi hoạn nạn, vật đổi sao rời. => Đây là những kỉ niệm kéo dài từ tuổi trẻ cho đến lúc về già, thể hiện tình bạn gắn bó keo sơn, thắm thiết.

+ Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” thể hiện một tình bạn chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.

+ Nhà thơ đã sử dụng cách diễn đạt trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và “có khi” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện, vừa liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha. Những kỉ niệm ấy sâu sắc, đẹp đẽ về tình bạn, không bao giờ

quên.

=> Trong đoạn thơ hồi tưởng này, những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian kết hợp với phép liệt kê, trùng điệp để gây ấn tượng về một tình bạn lâu bền, sâu sắc, thuỷ chung và thắm thiết.

- Đoạn thơ cuối đã diễn tả thật cảm động nỗi đau mất bạn cùng nỗi hụt hẫng, chơi vơi khi đối diện với hiện thực phũ phàng:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

[...]

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.

+ Giọng thơ kể lể thấm đầy nước mắt. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai con người đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên.

+ Nỗi đau đớn, trống vắng khi bạn mất: Chân tay rụng rời; rượu ngon không có bạn; câu thơ hay không có người bình luận; đàn kia gảy cũng không ai thấu hiểu…

=> Mất bạn, nhà thơ trở nên cô đơn: rượu không muốn uống,

thơ không muốn làm, đàn không gảy,...

+ Kết cấu trùng điệp, điệp ngữ: “không có, không mua, không phải” (điệp từ “không” 5 lần) => cảm giác nức nở, sự trống vắng đến nghẹn ngào, chua xót.

+ Sử dụng điển tích Trung Quốc giường kia, đàn kia nói về tình bạn giữa Trần Phồn - Từ Trĩ, Bá Nha - Chung Tử Kì. Qua đó, tác giả muốn diễn tả tình bạn tri âm, tri kỉ gắn bó keo sơn bền chặt, cùng nỗi trống vắng, hụt hẫng khi bạn không còn.

+ Từ “đàn” đầu câu láy lại cuối câu: trạng thái ngẩn ngơ chuyển sang thống thiết, tình cảm như đợt sóng trào dâng.

+ Sự tinh tế ở hai câu thơ cuối “Tuổi già... chứa chan" cho thấy nhà thơ tuổi già không còn nước mắt để khóc bạn, nhưng kì thực câu thơ đầm đìa nước mắt.

Luận điểm 2: Phân tích một số đặc sắc nghệ thuật và hiệu quả thẩm mĩ của nó.

- Thể thơ song thất lục bát với quy định rất chặt chẽ về vần, về nhịp.

+ Vần chân xen vần lưng, vần trắc xen lẫn vần bằng. Như ở khổ thơ:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

T

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,

T B

Kính yêu từ trước đến sau,

B

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

B

+ Nhịp thơ của cặp câu song thất chủ yếu nhịp lẻ trước chẵn sau (3/4), ví dụ hai câu:

Cũng có lúc/ rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương/ ăm ắp bầu xuân

Cặp lục bát chủ yếu ngắt nhịp chẵn, ví dụ hai câu sau:

Có khi/ bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích,/ điển phần trước sau

Vần nhịp ấy góp phần tạo nên giọng điệu riêng của đoạn thơ: vừa kể việc, vừa trải nỗi niềm, vừa tái hiện những xót xa hụt hẫng khi mất bạn.

+ Đặc biệt, thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc biểu đạt nội dung của đoạn thơ. Đó là nỗi đau đớn khôn nguôi, trống vắng, hụt hẫng khi nhà thơ mất đi người bạn tri âm tri kỉ.

+ Ngôn ngữ, hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc mà giàu giá trị biểu cảm. Sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, dùng điển tích, nói giảm nói tránh,.... Tất cả đã diễn tả sâu sắc, thấm thía nỗi niềm của nhà thơ trước sự ra đi của bạn.

Đánh giá; liên hệ, mở rộng:

- Khái quát về nội dung, nghệ thuật của bài thơ: Bằng tài năng của mình, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết. Qua nỗi đau đớn, tiếc thương trước sự ra đi của bạn, ta thấy được tình bạn cao quý của tác giả đối với người bạn tri kỉ lâu năm của mình.

- Liên hệ mở rộng: Trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình bạn đẹp đẽ chân thành. Trong Bạn đến chơi nhà, Nguyễn Khuyến cũng thể hiện thật xúc động tình cảm giữa ông và bạn, vượt lên trên vật chất tầm thường, gắn bó với nhau trên cơ sở tình cảm bạn bè trân quý:

“Đầu trò tiếp khách, trầu không có

Bác đến chơi đây, ta với ta”

Một số vần thơ khác của Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tình bạn chân thành, đậm đà:

Đến thăm bác, bác đang đau ốm

Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay

Bác bệnh tật, tôi yếu gầy

Giao du rồi biết sau này ra sao

(Gửi thăm quan Thượng Thư họ Dương)

Như vậy có thể thấy, những sáng tác của Nguyễn Khuyến đã thể hiện thật chân thành, giản dị về tình bạn trọng tình cảm hơn vật chất.

* Kết thúc vấn đề nghị luận

Khóc Dương Khuê thể hiện một tình bạn đẹp và cảm động của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy bùi ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Ai chẳng biết chán đời là phải...”.

3. Phân Tích 16 câu thơ cuối trong bài thơ Khóc Dương Khuê

Đã từ lâu, tình bạn đã được đề cập đến trong các tác phẩm văn học. Nguyễn Khuyến là nhà văn sở hữu số lượng lớn các bài thơ mang chủ đề rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày như thế. Nếu như trong Bạn đến chơi nhà, ông dùng giọng văn hóm hỉnh, khôi hài để nói về tình bạn không màng vật chất, thì sang bài thơ Khóc Dương Khuê, giọng thơ đã thay đổi hẳn. Cả bài thơ như tiếng khóc nấc lên trong sự buồn bã của Nguyến Khuyến khi đến đám tang của người bạn Dương Khuê. Đặc biệt trong 16 câu thơ cuối:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nỗi xót thương cho người bạn quá cố càng được thể hiện đậm nét.

Nguyễn Khuyến xuất thân là nhà nho, có tài văn chương, đỗ đầu cả ba kỳ thi nên còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông thường viết về gia đình, bạn bè, quê hương và châm biếm bọn thực dân. Bài thơ Khóc Dương Khuê ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được Nguyễn Khuyến dịch lại bằng chữ Nôm. Dương Khuê là bạn của Nguyễn Khuyến, mặc dù kém tuổi nhưng Dương Khuê cũng đỗ chức tước cao, trở thành tri âm của Nguyễn Khuyến. Mười sáu câu thơ cuối là nỗi đau đáu, thương xót của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột của bạn.

Hai câu thơ mở đầu được nhà thơ viết bằng giọng văn khôi hài, nhưng chua xót, bộc lộ sự đau lòng của ông:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.”

Quả thật, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê bốn tuổi, nhưng Nguyễn Khuyến vẫn gọi Dương Khuê bằng giọng thân mật “tôi - bác”. Câu thơ “đau trước bác mấy ngày” sử dụng biện pháp ẩn dụ, ý chỉ sự ra đi của Dương Khuê quá đột ngột, khiến tác giả không thôi giật mình và đau đớn.

Trong bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc trầm lắng, đau thắt lòng:

“Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng mà mải lên tiên.”

Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh và biện pháp nói quá rất khéo léo,, ý nhị. Để chỉ sự ra đi của người bạn thân, ông dùng những từ “vội về ngay”, “chán đời”, “vội vàng”, “lên tiên”, với mục đích để giảm đi sự đau thương, nhưng sao câu thơ vẫn đau bội phần như vậy. Nói tránh đi sự ra đi của bạn, Nguyễn Khuyến phóng đại nỗi đau của mình “chân tay rụng rời”. Chắc hẳn, vì quá bất ngờ, ông đã không kìm được cảm xúc mà suy sụp, đau như “chân tay rụng rời”.

Trước kia, tất cả những thú vui trên cõi đời đều có ông và Dương Khuê hưởng thụ. Nhưng nay, những niềm vui đó bỗng trở nên chán chường, vô nghĩa bởi đã mất bạn rồi:

“Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gãy củng ngẩn ngơ tiếng đàn.”

Rượu luôn là thức uống yêu thích của thi nhân, thế nên mới có thi tửu. Nhưng rượu chỉ ngon khi được uống cùng bạn hiền. Biện pháp điệp từ “không” ba lần liên tiếp trong một câu thơ như nhân lên ba lần sự vô vị, không ham muốn thi tửu của Nguyễn Khuyến khi không có bạn. Hôm nay không mua rượu, không phải do không có tiền, mà là do không còn tri âm.

Bài thơ vẫn còn dang dở, chưa viết xong, bởi với ông, mất bạn rồi thì còn ai để đọc. Một lần nữa, biện pháp điệp ngữ lại xuất hiện, điệp từ “ai” và”đưa” hai lần, kết hợp với biện pháp chơi chữ “viết đưa ai” - “ai biết mà đưa”. Đây như một vòng luẩn quẩn, viết xong cũng không biết đưa cho ai, mà cũng không có ai để đưa. Mất đi Dương Khuê, Nguyễn Khuyến gần như mất đi cả một người đọc tri kỉ của mình.

Các sự vật tạo niềm vui khác như giường, đàn cũng mất đi sự sống, trở nên “hững hờ” và “ngẩn ngơ”. Đây là hai từ láy rất đặc sắc trong đoạn thơ, đồng thời là hai từ ngữ nhân hóa, khiến các sự vật tưởng như vô cảm ấy cũng đang hòa dần với nỗi đau mất mát bạn của nhà thơ. Sau cùng, thú vui để thưởng ngoạn với bạn, mất bạn rồi, thú vui cùng dần trở thành nỗi buồn sâu lắng.

Đau đớn là vậy, xót thương là vậy, nhưng Nguyễn Khuyến cũng đành chấp nhận sự thật rằng bạn đã đi xa:

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nguyễn Khuyến trách móc, hờn dỗi bạn khi “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở”. Đây là một điều vô lý nhưng hết sức hợp lý. Vô lý bởi Dương Khuê mất do tuổi già, nên cho dù nhà thơ có trách móc, van nài thì Dương Khuê cũng đâu thể nghe thấy được. Nhưng hợp lý là bởi, Nguyễn Khuyến quá nhớ thương Dương Khuê, mong muốn bạn ở lại với mình, nên mới buông lời mà trách nhẹ nhàng thế.

Mãi đến tận cuối bài thơ, ta mới thấy xuất hiện giọt nước mắt của nhà thơ. Nhưng sao giọt nước mắt ấy lại “như sương”, mà còn phải ‘ép” mới ra? Đọc đến đây, ta chợt nhớ lại giọt nước mắt cũng phải “ép” mới ra của Lão Hạc trong tác phẩm của Nam Cao. Một phần cũng là do tuổi cao nên khó chảy nước mắt. Nhưng phần nhiều, do lão quá đau khổ vì mất cậu Vàng, nên không thể khóc thành dòng được nữa. Cũng như vậy, Nguyễn Khuyến cũng nói một phần do “tuổi già”, nhưng thật ra, sâu trong thâm tâm, ông đau lòng đến độ thật khó để có “hai hàng chứa chan”. Nước mắt chảy ngược vào trong, như thể ông đang “nuốt” cái thương bạn vào trong bụng.

Bằng những câu thơ sử dụng ngôn ngữ bình dân mộc mạc, gần gũi, từng câu thơ chất chứa cảm xúc mãnh liệt, sử dụng tài tình biện pháp nhân hóa, phép điệp ngữ, biện pháp so sánh, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ lòng thương bạn, đau đớn muôn phần khi mất bạn, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ chấp nhận sự thật. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân trọng hơn những tình bạn đẹp đẽ, trong sáng giữa đời thường.

4. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam với những vần thơ viết về làng quê, thôn xóm mộc mạc, bình yên... Một mạch ngầm khác trong thơ Nguyễn Khuyến là những bài thơ viết về tình bạn. Có thể nói Nguyễn Khuyến sống vì tình bạn và tình bạn nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ. Bài thơ “Khóc Dương Khuê" (Nguyễn Khuyến) là một bài thơ cảm động, sâu sắc viết về tình bạn son sắt, gắn bó, tri kỉ, tri âm, tấm lòng cao đẹp mà Nguyễn Khuyến dành cho người bạn của mình là Dương Khuê.

Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ vào năm 1902, khi Dương Khuê - người bạn của ông qua đời. Từ chữ Hán là “Vân đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư" (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê". Toàn bộ tác phẩm là sự buồn thương và bàng hoàng của nhà thơ trước sự ra đi người bạn tri kỷ. Có thể đánh giá đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết, cảm động của Nguyễn Khuyển, và đó cũng là bài thơ thể hiện tình bạn đậm sâu, nổi tiến trong nền thơ ca dân tộc.

Mở đầu bài thơ là nỗi đau đớn, bàng hoàng khi nghe tin bạn mất:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

Đầu tiên chúng ta chú ý về cách xưng hô của tác  giả. Trá giả gọi bạn mình là bác Dương, từ “bác” ở đây là một từ ngữ thể hiện sự gần gũi, ấm áp nhưng lại có sự kính trọng ở trong đó. Như vậy, bằng cách xưng hô này chúng ta thấy được tình cảm gần gũi, yêu mến kính trọng mà Nguyễn Khuyến dành cho người bạn của mình. Thứ hai chúng ta thấy sự ra đi của người bạn, tác giả dùng từ ở đây đó là “thôi đã thôi rồi”. Biện pháp nói giảm, nói tránh , từ “thôi” là chỉ sự ra đi của người bạn, một mặt đã thể hiện được tâm trạng đau đớn, bàng hoàng nhưng mặt khác tác giả cũng dùng biện pháp nói giảm, nói tránh để giảm bớt đi nỗi đau đớn mất bạn. Từ láy “man mác, ngậm ngùi” với nhịp thơ 2/ 2 kết hợp với nhịp 4/ 4 để diễn tả bàng hoàng của tác giả khi nghe tin bạn mất.

Như vậy, ta vừa tìm hiểu hai câu thơ đầu để thấy được tâm trạng đau đớn, bàng hoàng của tác giả khi nghe tin người bạn thân của mình bị mất. Chúng ta thấy rằng cái nỗi đau này đến ở phần thứ 2 thể hiện bằng việc tác giả nhớ lại, hồi tưởng lại những kỷ niệm gắn bó sâu đậm giữa mình và Dương Khuê.

Nếu 2 câu thơ độc thể thể hiện nỗi đau đớn bàng hoàng khi nghe tin bạn mất thì đến 20 câu thơ tiếp tác giả thể hiện dòng hồi tưởng về những kỷ niệm cũ. Tình bạn giữa Dương Khuê và Nguyễn Khuyến đó là tình bạn tri âm, tri kỉ giữa 2 người. Họ cùng đi thi, cùng đỗ cử nhân, cùng đỗ tiến sĩ và sau này lại cùng làm quan dưới triều Nguyễn. Có nghĩa là cái thời gian gắn bó giữa họ là 1 quãng thời gian gắn bó rất là lâu, trải qua nhiều biến cố thăng trầm trong cuộc đời và vận mệnh chung của đất nước dân tộc. Ở đây khi mà chúng ta tìm hiểu khổ thơ này thì chúng ta xem là tác giả đã gợi nhắc lại đến kỷ niệm nào. Kỷ niệm đầu tiên mà nhà thơ Nguyễn Khuyến nhớ tới đó là

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?”

Đăng Khoa có nghĩa là thi đỗ bởi vì chúng ta thấy rằng là Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng thi đỗ cùng một khóa, cùng đỗ cử nhân đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều nhà Nguyễn. Điều đặc biệt là khi nhớ lại những kỷ niệm này thì Nguyễn Khuyến nhận ra là dù thời gian có đổi thay nhưng cái tấm lòng kính yêu mà tôi và bác dành cho nhau dường như vẫn không thay đổi và Nguyễn Khuyến nhận ra một điều nữa đó là cái sự gặp gỡ giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê dường như đó là “khác đâu duyên trời” có nghĩa là một cuộc gặp gỡ se duyên của trời dành cho đôi bạn thân tri âm tri kỷ và trong suốt quãng thời gian đó sự kính yêu tấm lòng của họ dành cho nhau là không thay đổi. Kỷ niệm tiếp theo mà nhà thơ Nguyễn Khuyến nhớ tới khi nhắc đến bạn đó là kỷ niệm hai người cùng chu du nay đây mai đó để thưởng ngoạn cái vẻ đẹp của thiên nhiên

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Chúng ta nhớ cho cô ở đây “cầm xoang” là khúc hát ả đào một trong những cái thú vui được những nhà nho ngày xưa rất ưa chuộng. Như vậy cả Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng thưởng  ngoạn thiên nhiên, cùng lắng nghe những khúc hát ả đào một thú vui mà chúng ta đến ngày xưa một nhà nho rất là ưa chuộng. Một thú vui tiếp theo đó là kỷ niệm mà cả Nguyễn
Khuyến và Dương Khuê:

“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân”.

“ Quỳnh tương” có nghĩa là chén rượu ngon, từ “nhấp” có nghĩa là họ cùng thưởng thức những
chén rượu ngon để bàn đàm đạo thơ ca. “nhấp” ở đây là gợi chúng ta liên tưởng tới những cái chén  rượu nhỏ mà những nhà nho ngày xưa vừa nhấm nhám vừa thưởng thức vừa đàm đạo chuyện đời

“Có khi bàn soạn câu văn
Biết bao đông bích, điển phần trước sau”.

“đông bích” có nghĩa là tường ở phía đông là nơi  để sách “điển phần” có nghĩa là những cuốn sách kinh điển mà những bậc nhà Nho rất là nên đọc. Như vậy cả Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vừa cùng uống rượu vừa cùng đàm đạo chuyện đời, cùng đọc sách, cùng nghiên cứu sách vở thì đấy chính là những kỷ niệm mà Nguyễn Khuyến có lẽ đã không bao giờ quên, nó gắn liền với niềm vui, những cái thú vui của những bậc nhà nho ngày xưa. Tuy nhiên trong những cái chuỗi kỷ niệm mà Nguyễn Khuyến nhớ tới còn có những đoạn mà chúng ta đi nó trùng xuống mang cả 1 cái nỗi buồn về thời thế về cuộc đời ở đây “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,  Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời;” “dương cửu” có nghĩa là 1 cái từ ở trong kinh dịch để chỉ cái cuộc sống khó khăn còn từ “đẩu thăng” là 1 dụng cụ để đo thóc gạo. Chúng ta hình dung ngày xưa khi mà người làm quan thì thường nhận lương là họ nhận bằng thóc bằng gạo cho nên phận “đẩu thăng” đó là để chỉ phận làm quan. Như vậy 2 câu thơ này chúng ta thấy cái bóng dáng thời đại ở trong đó đó là “buổi dương cửu” là buổi khó khăn đặt vào cái bối cảnh thời đại ngày ấy bấy giờ chúng ta thấy có thể là đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến khi mà thực dân Pháp sang xâm lược thì đó chính là cái quãng đời mà khó khăn gian khổ đối với nhà thơ. Chính vì thế mà chúng ta thấy Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có 10 năm thôi sau đó thì ông lui về ở ẩn. Có lẽ là vì những cái sự bất bình cũng như là cái sự bất lực của bản thân trước
thời cuộc mà ông không làm gì được cho nên đến mãi sau này đến nỗi buồn về cuộc đời, về đất nước, về sự bất lực của bản thân vẫn bàng bạc trong những trang thơ và những suy nghĩ của nhà  thơ Nguyễn Khuyến mãi về sau:

“Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Câu thơ giống như một tiếng thở dài vậy, đó là thở dài vì cái tuổi già của bản thân không cưỡng
lại được cái quy luật của tạo hóa đặc biệt chữ “thôi” được lặp lại đến 3 lần “biết thôi thôi thế thì
thôi mới là” chữ thôi ở đây thể hiện sự bất lực của  con người, sự buông xuôi của con người trước thời cuộc mà bản thân mình chỉ là những cái con người nhỏ bé và bất lực không làm gì để thay đổi được vận mệnh. Như vậy chúng ta thấy rằng khi mà nhà thơ Nguyễn Khuyến nhắc về những kỷ niệm giữa mình với Dương Khuê có cả những kỷ niệm vui, có những thú vui cả 2 người cùng trải qua và có cả những đoạn trùng xuống, buồn thể hiện những cái tâm sự thời thế mà nhà thơ gửi gắm ở trong những câu thơ này. Thể hiện được tình bạn keo sơn gắn bó hòa trong nỗi đau đớn xót xa nghẹn ngào của tác giả khi nhớ về những kỷ niệm giữa mình và bạn. Tất cả giống như 1 thước phim quay chậm quay chậm nó sống dậy, thồn thức trong lòng của nhà thơ Nguyễn Khuyến để dồi đến đoạn thơ thứ 3 chúng ta thấy tác giả quay trở lại thực tế để nói về nỗi đau đớn khi không còn bạn nữa. Ở phần thứ 3 tác giả quay trở lại với hiện thực và trở về với nỗi đau đớn khi không còn bạn nữa và nỗi đau này đã được tác giả thể hiện qua những từ nào? Đó là những từ chúng ta chú ý: 1 là “chân tay rụng rời” có nghĩa là từ nỗi đau về tâm hồn đã chuyển sang nỗi đau về thể chất và khi đến mất bạn nhà thơ Nguyễn Khuyến Dường Như đã mất đi rất nhiều thứ chỉ còn lại sự hụt lưu ý “ rượu ngon không có bạn hiền không mua không phải...mua”. Câu thơ này có nghĩa là khi không còn bạn hiền nữa thì rượu ngon cũng để làm gì. Đến câu thơ tiếp theo, câu thơ “ Nghĩ đắn đo không viết” nhà thơ không viết thơ là bởi vì “biết đưa ai ai biết mà đưa” liệu là có ai để cùng thưởng rượu, để cùng ngâm thơ đàm đạo với mình nữa hay không. Đặc biệt hai câu thơ

“Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.

Ở đây liên quan tới 2 điển tích Trần Phồn và Tử Trĩ đây là 2 người bạn tri âm tri kỷ sống ở thời Hậu Hán Trần Phồn đã đóng riêng 1 chiếc giường dành cho Tử Trĩ đến chơi và khi mà Tử Trĩ về thì ông lại treo cái giường đấy lên.

Cũng như câu chuyện Bá Nha và Tử Kỳ, Bá Nha và Tử Kỳ là 2 người bạn thân sống ở thời Xuân Thu ở Trung Quốc Bá Nha thủ đánh đàn rất giỏi còn Tử Kỳ thì có thể nghe và hiểu được cái tâm can của Bá Nha gửi gắm ở trong tiếng đàn. Vì vậy khi Tử Kỳ mất thì Bá Nha đã đập vỡ cây đàn bởi vì nghĩ rằng không còn ai có thể hiểu và nghe để cảm nhận được tiếng đàn mà mình gửi gắm nữa. Chúng ta có cái cụm từ gọi là cụm từ “tri âm tri kỷ” cũng vì điển tích này mà ra. “Tri âm tri kỷ” có nghĩa là nghe hiểu được âm thanh giống như hiểu chính bản thân mình vậy. Vậy thì ở đây đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến khi Dương Khuê mất đi dường như mình đã mất đi cả tâm hồn, những thú vui như là uống rượu, ngâm thơ cũng không còn nữa. Và mất đi cả cái người tri âm tri kỷ có thể thấu hiểu lòng mình.

Đặc biệt ở 4 câu thơ cuối: Nếu như ở đoạn trên đó là nỗi đau đớn khi không còn bạn thì đến ngay đoạn này chúng ta thấy tác giả thể hiện cái giọng điệu trầm xuống, lắng xuống giống như tác giả chấp nhận sự thật không thể nào thay đổi được. “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở, Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương” ở đây tác giả đã sử dụng điệp ngữ “chẳng” và “thương” khiến cho giọng thơ trùng xuống để nhấn mạnh nỗi buồn thê thiết và đằng sau đó là sự chấp nhận 1 sự thật không thể nào thay đổi. Ở 2 câu thơ cuốn tác giả sử dụng biện pháp so sánh Tuổi già hạt lệ như sương, Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan! “hạt lệ “ ở đây chỉ giọt nước mắt được tác giả so sánh như xưa bởi vì ở cái tuổi gần đất xa trời này nước mắt của tôi không còn nhiều nữa và cũng không còn những giọt nước mắt chứa chan để thể hiện được nỗi đau của tôi với bạn. Từ “sương” ở đây nó thể hiện hai ý một là cái giọt nước mắt nó không còn nhiều và thứ hai nó cũng thể hiện được sự trong sáng của tình bạn khiến câu thơ lấp lánh giọt lệ đầy trong sáng mà nhà thơ Nguyễn Khuyến dành cho người bạn của mình. Đoạn thơ này chúng ta thấy tác giả thể hiện một giọng thơ trầm buồn và dường như cái nỗi đau đã chảy ngược vào trong nó không thể hiện ra bằng những giọt nước mắt vỡ òa mà thay vào đó là nỗi ngậm ngùi xót xa thương cảm với sự ra đi mãi mãi của người bạn tri kỷ, tri âm.

Thành công của bài thơ phải kể đến thể thơ song thất lục bát, thể thơ dân tộc cực kì phù hợp khi diễn tả tâm trạng, nỗi đau đớn xót xa. Điệp ngữ, câu hỏi tu từ, so sánh, điển cố điển tích. Giọng thơ tha thiết, thâm trầm; ngôn ngữ thơ bình dị sâu lắng để hòa quyện phối hợp cùng diễn tả nỗi đau đớn khi bạn mất. Trong thơ Nguyễn Khuyến, cùng viết về đề tài tình bạn còn có bài thơ “Bạn đến chơi nhà". Điểm giống nhau của hai bài thơ này là đều viết về đề tài tình bạn. Tuy nhiên, “Bạn đến chơi nhà" là niềm vui, nụ cười hóm hỉnh khi chào đón người bạn tới thăm mình. Còn “Khóc Dương Khuê": nhà thơ thể hiện nỗi đau đớn, xót xa, nghẹn ngào khi nghe tin
bạn mất. Cùng là tình bạn nhưng mỗi một bài thơ lại có 1 sắc thái khác nhau nhưng cả 2 bài thơ đều   thể hiện được sự trân trọng tình bạn của nhà thơ Nguyễn Khuyến vì lẽ đó mà chúng ta nói rằng Nguyễn Khuyến không chỉ là 1 nhà thơ quê hương là cảnh Việt Nam mà Nguyễn Khuyến còn là 1 nhà thơ của tình bạn và tâm hồn ông được nuôi dưỡng bởi tình bạn.

Kho tàng thơ ca Việt Nam giàu có với rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình cảm bạn bè đẹp đẽ, chân thành, “Khóc Dương Khuê" của Nguyễn Khuyến là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Với thể thơ song thất lục bát, giọng điệu tha thiết, ngôn ngữ bình dị, sâu lắng, bài thơ cho thấy một tình bạn son   sắt, từ đó giúp bạn đọc cảm nhận tấm lòng cao đẹp của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê. Bài thơ giúp chúng ta hiểu và trân trọng hơn tình bạn mà chúng ta đang có bởi vì tình bạn chính là ánh mặt trời sưởi ấm trái tim chúng ta.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
6 2.907
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi