SKKN: Một số giải pháp giúp giáo viên dạy tốt môn Lịch sử lớp 5

Lịch sử là một trong những môn học có chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. SKKN: Một số giải pháp giúp giáo viên dạy tốt môn Lịch sử lớp 5 giúp quý thầy cô có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc tạo hứng thú, dạy học bộ môn Lịch sử khiến các em học sinh cảm thấy vui tươi và hào hứng khi bước vào bài học. Mời các thầy cô tham khảo và tải về nhé.

Một số giải pháp giúp giáo viên dạy tốt môn Lịch sử lớp 5

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:

Trong chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học, môn học Lịch sử hay như những môn học khác có vai trò tác động đến con người không chỉ trí tuệ mà còn cả về tư tưởng tình cảm. Môn học Lịch sử góp phần xây dựng con người phát triển hoàn thiện về “Đức - Trí - Thể - Mỹ” ở những mức độ khác nhau. Nếu các môn học khác giúp các em thấy được cái hay, cái đẹp để càng yêu quý con người, dân tộc Việt Nam thì thông qua môn học Lịch sử các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của đất nước, một dân tộc mà rộng hơn là cả một xã hội loài người. Bên cạnh đó, môn học này còn góp phần bồi dưỡng và phát triển cho học sinh thói quen ham học hỏi, tìm hiểu để biết về lịch sử dân tộc; tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử văn hóa; góp phần giáo dục và hình thành nên tính cách của một con người trong thời đại mới.

Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành và phát triển năng lực”. Để đạt được mục tiêu của nền giáo dục tiên tiến cũng như đáp ứng được quan điểm chỉ đạo của Bộ giáo dục và Đào tạo, cần phải hướng tới cách dạy theo hướng phát triển năng lực của học sinh, tạo được sự hứng thú trong giờ học thì tiết học mới mang lại hiệu quả cao. Giống như các môn học khác, dạy học Lịch sử cũng phải theo xu hướng đó.

Song trên thực tế, học sinh tiểu học phần lớn các em chưa yêu thích và cũng không coi trọng môn học Lịch sử. Vậy làm sao khơi dậy ở các em lòng đam mê, yêu thích môn học nhằm phát huy năng lực học tập tích cực trong giờ học Lịch sử? Chỉ khi thật sự yêu thích môn học các em sẽ không thấy nhàm chán, mà ngược lại cảm thấy thích thú, tích cực tham gia vào hoạt động học tập, chủ động khám phá, tìm tòi việc tiếp thu bài học sẽ diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả. Từ đó, giúp các em có được nền kiến thức vững chắc làm tiền đề cho việc tiếp thu những kiến thức ở những lớp học trên được dễ dàng hơn.

Xuất phát từ tầm quan trọng của môn học, định hướng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về đổi mới giáo dục và thực tế giảng dạy của bản thân, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp giáo viên dạy tốt môn lịch sử lớp 5”

2. Mục đích nghiên cứu:

Mục đích tôi chọn nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra: Một số giải pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử lớp 5.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp giúp học sinh phát huy năng lực học tập tích cực môn Lịch sử lớp 5.

Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 5A của trường Tiểu học ....... năm học ............

II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lí luận:

Chương trình Lịch sử lớp 5 hiện hành là những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu được sắp xếp theo trình tự về thời gian, đại diện cho các thời kì lịch sử. Đó là những tri thức khoa học lịch sử, không chứa đựng huyền thoại, truyền thuyết hay phóng tác, hư cấu lịch sử. Đối với học sinh tiểu học, yêu cầu về hiểu lịch sử chỉ ở mức độ sơ đẳng, chủ yếu là xem xét ý nghĩa của các sự kiện của các nhân vật lịch sử đối với xã hội. Nội dung của chương trình môn Lịch sử không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh một khối lượng tri thức cần thiết mà thông qua các nhân vật và sự kiện lịch sử bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc, lòng yêu thiên nhiên, quê hương đất nước; hình thành phát triển các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước. Đồng thời môn học này còn góp phần phát triển về năng lực tư - khoa học, thái độ khám phá, tìm tòi, vận dụng kiến thức được học vào thực tế, giúp các em có được phẩm chất và năng lực cần thiết thích ứng với cuộc sống.

Với vai trò to lớn của môn học Lịch sử mang lại, đòi hỏi người giáo viên phải sáng tạo trong dạy học, biết vận dụng linh hoạt phương pháp, kĩ thuật và tổ chức hình thức dạy - học sao cho phù hợp với từng bài học, từng đối tượng học sinh, đồng thời biết vận dụng sáng tạo các phương tiện trong dạy học nhằm tạo được sự thoải mái, vừa sức và hứng thú trong giờ học, lôi cuốn được các em tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động.

2. Cơ sở thực tiễn:

Trong thực tế dạy học nhiều năm ở khối lớp 5, môn học Lịch sử cũng là một trong những môn học chính ở Tiểu học. Tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng có nhận thức đúng về vai trò của môn học này vì thế mà vẫn có một số ít giáo viên xem nhẹ môn học này so với hai môn học Toán và Tiếng Việt. Việc giáo viên ít đầu tư, chưa có sự chuẩn bị chu đáo cho mỗi tiết dạy Lịch sử, dẫn đến sự đơn điệu trong tiết học, chưa tạo được sự tương tác giữa người dạy và người học, giữa người học với người học. Chính vì thế mà việc tiếp thu kiến thức, việc tham gia tiết học ở học sinh còn mang hình thức đối phó. Các em chỉ tập trung học vẹt những nội dung cần ghi nhớ của bài học hoặc tập trung học những nội dung cần kiểm tra vào cuối mỗi học kì. Với cách học như thế dẫn đến sự nhàm chán, sự yêu thích môn học Lịch sử ở các em hầu như không có. Như chúng ta biết, Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, các em không thể “phán đoán”, “suy luận”, “học vẹt” mà sự tiếp thu tri thức phải có khoa học đòi hỏi phải có sự tìm tòi, khám phá thì kiến thức mới tồn tại lâu bền trong tri thức của các em.

Vậy, muốn giúp các em học sinh lớp 5 phát huy năng lực học tập tích cực trong giờ học Lịch sử đòi hỏi người giáo viên phải thay đổi vai trò của người dạy từ: “là người chủ đạo truyền thụ tri thức cho học sinh” thành “là người định hướng cho hoạt động học lĩnh hội tri thức của học sinh”. Để thay đổi được vai trò của người dạy đòi hỏi mỗi giáo viên phải sáng tạo trong dạy học, tổ chức giờ hoc sao cho phù hợp với điều kiện thực tế, đối tượng học sinh của mình nhằm hình thành ở học sinh năng lực chủ động, tích cực, tự tìm và lĩnh hội tri thức mới. Việc đề ra: Một số giải pháp giúp giáo viên dạy tốt môn lịch sử lớp 5 là cần thiết góp phần hình thành những con người mới thích ứng với đời sống xã hội hiện nay.

3. Khảo sát thực trạng:

3.1 Điều tra và cập nhật số liệu:

Bước vào năm học......., tôi nhận sự phân công của Ban giám hiệu trường làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp .... Thông qua các giờ học môn Lịch sử, tôi tiến hành khảo sát tình hình học tập của học sinh lớp ...đã nắm bắt được những hạn chế ở học sinh trong giờ học Lịch sử như sau:

- Hầu hết học sinh chưa yêu thích môn học Lịch sử.

- Giờ học còn thụ động, không khí học tập trong giờ học Lịch sử trầm, học sinh lâu ghi nhớ kiến thức mà lại chóng quên.

- Kỹ năng hợp tác nhóm chưa tốt, chưa mạnh dạn, chưa tự tin khi chia sẻ kết quả học tập trong nhóm, trước lớp.

- Kĩ năng xem bản đồ, phân tích thông tin còn hạn chế, kĩ năng chỉ bản đồ chưa thuần thục.

- Kĩ năng phân tích tổng hợp kiến thức còn chậm.

Kết quả khảo sát về Thái độ học tập và Năng lực học tập môn Lịch sử vào đầu năm học của học sinh lớp 5A:

* Thái độ học tập môn học Lịch sử:

Lớp

Số HS khảo sát

Yêu thích môn họcChưa yêu thích môn học
5A

31

1021

100%

32,3%67,7%

* Năng lực học tập môn học Lịch sử:

Số lượng học sinh tham gia khảo sát là 31 học sinh.

Lớp 5AHoàn thành tốtHoàn thànhChưa hoàn thành
Số HS: 314207
100%12,9%64,5%22,6%

3.2 Thuận lợi:

- Nhà trường cung cấp đầy đủ các loại sách, tài liệu tham khảo, phương tiện dạy học.

- Nhà trường tổ chức phong trào làm đồ dùng dạy học hàng năm, góp phần xây dựng Bộ đồ dùng dạy học chung nhằm hỗ trợ tiết dạy mang lại hiệu quả cao.

- Hàng tháng tổ chuyên môn tổ chức học tập, chia sẻ kinh nghiệm thông qua hoạt động giảng dạy, học tập chuyên san, chuyên đề giúp giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn.

- Học sinh có đủ sách vở và đồ dùng học tập phục vụ cho môn học Lịch sử.

- Việc học tập Bồi dưỡng thường xuyên hàng tháng, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong tổ cũng góp phần bồi dưỡng về năng lực chuyên môn cũng như góp phần khêu gợi sự sáng tạo trong giảng dạy của giáo viên.

- Tài liệu “Bồi dưỡng hướng dẫn giáo viên về dạy học Lịch sử ở Tiểu học theo định hướng phát triển năng lực” cũng được triển khai học tập trong tổ chuyên môn trong năm học .......... góp phần hỗ trợ giáo viên trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học tạo được hứng thú ở học sinh trong giờ học Lịch sử.

- Bản thân nhiều năm liền làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm đối tượng học sinh lớp 5 nên nắm rõ chương trình, đặc điểm tâm lí của học sinh cũng như có kinh nghiệm trong giảng dạy.

- Học sinh đã nắm được kiến thức cơ bản cũng như làm quen với cách học môn Lịch sử ở lớp 4 làm tiền đề cho việc tiếp thu kiến thức môn học khi lên lớp 5.

3.3 Khó khăn:

* Về học sinh:

- Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại. Câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh thì chưa tư duy khi trả lời.

- Học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử chưa bền vững.

- Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, nhớ các kiến thức lịch sử một cách rời rạc và rất nhanh quên.

- Học sinh và gia đình chưa thật sự quan tâm, còn xem nhẹ môn Lịch sử cho là một môn học phụ chỉ cần học thuộc lòng nội dung ghi nhớ là đủ.

- Phụ huynh quan tâm đến việc học của con em nhưng kiến thức, sự hiểu biết của cha mẹ lại có hạn.

* Về giáo viên:

- Một số ít giáo viên chưa thật sự quan tâm, còn xem nhẹ môn Lịch sử, chỉ tập trung vào kèm cặp cho các em chủ yếu là hai môn Toán và Tiếng Việt.

- Giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy; giúp các em tự suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức.

- Giáo viên chưa tạo sự tập trung, chú ý bài dạy ngay từ hoạt động đầu tiên hoặc chưa tóm tắt lại các nội dung bài dạy ở phần củng cố giúp cho các em ghi nhớ bài sâu, kĩ hơn.

- Giáo viên tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu (kênh chữ, kênh hình) trong sách giáo khoa chưa khoa học. Trong quá trình dạy có sáng tạo, nhưng làm và sử dụng đồ dùng dạy học, trò chơi học tập chưa thường xuyên và hiệu quả.

- Giáo viên không thật sự yêu thích môn Lịch sử thì không thể truyền cho các em niềm đam mê, hứng thú và rất khó để học sinh phát huy hết năng lực học tập tích cực trong giờ học Lịch sử.

* Với kết quả khảo sát nêu trên tôi thấy bản thân cần phải nỗ lực vận dụng những phương pháp và kĩ thuật dạy học phù hợp đồng thời lên kế hoạch thực hiện tốt: “Một số giải pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử lớp 5 ”, tôi tin chắc rằng sẽ khắc phục được những mặt hạn chế còn tồn tại ở lớp 5B và mong muốn những giải pháp này sẽ triển khai phổ biến rộng cho giáo viên trong khối cùng thực hiện nhằm giúp học sinh toàn khối 5 cảm thấy hứng thú, tham gia học tập tích cực hơn đối với môn Lịch sử.

III. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

* Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môn Lịch sử trong giảng dạy và giúp học sinh phát huy năng lực học tập tích cực môn học này là một việc làm hết sức cần thiết của mỗi giáo viên. Để thực hiện tốt việc giúp học sinh phát huy năng lực học tập tích cực môn lịch sử lớp 5, tôi phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học Lịch sử”; sách giáo khoa, sách giáo viên môn Lịch sử.

- Nghiên cứu tài liệu gây hứng thú về dạy học ở tiểu học.

- Quan sát quá trình tham gia học tập của từng học sinh trong giờ học Lịch sử nhằm nắm bắt năng lực học tập của từng em để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng nhằm kích thích sự hứng thú giúp các em tham gia giờ học tích cực hơn.

- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh học để từ đó có hướng điều chỉnh và bổ sung những thiếu sót kịp thời giúp các em hoàn thiện hơn trong việc lĩnh hội kiến thức môn học.

- Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp, trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy.

* Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn quan tâm đến việc tổ chức giờ học như thế nào cho hấp dẫn, lôi cuốn và định hướng học sinh tham gia giờ học Lịch sử sao cho tích cực, chủ động. Cụ thể, tôi đã thực hiện một số giải pháp như sau:

Giải pháp 1: Sử dụng dụng cụ trực quan và khai thác kênh hình trong giảng dạy môn Lịch sử.

Như chúng ta đã biết muốn cho các em tiếp nhận những thông tin lịch sử một cách tốt nhất cần tái tạo lại lịch sử một cách có hệ thống. Vậy tái tạo bằng cách nào? Trước hết, phải kể đến những lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên. Đó là tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử thông qua tranh, ảnh, lược đồ, biểu đồ,....

1. Sử dụng lược đồ trong giờ học Lịch sử:

Lược đồ là một trong những đồ dùng trực quan tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp các em thuận lợi hơn trong việc tạo biểu tương lịch sử. Lược đồ thể hiện các trận đánh của ta như: Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947; Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950; Chiến dịch Điện Biên Phủ, ... Khi khai thác các lược đồ cần chú ý đến mục tiêu của tiết học, bài học.

* Ví dụ: Bài: Thu – đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”

Ở hoạt động 2: Diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, tôi sử dụng các bước sau:

- Giáo viên giới thiệu lược đồ sách giáo khoa trang 32.

- Hướng dẫn học sinh đọc và phân tích những kí hiệu trên lược đồ: (biểu tượng cái dù: nơi quân Pháp nhảy dù; mũi tên màu đen: đường tiến công của địch; mũi tên màu đỏ: quân ta tiến công, chặn đánh; mũi tên không liền nét màu đen: quân địch rút lui, tháo chạy). (Bước làm này giúp học sinh hình thành kĩ năng đọc và phân tích bản đồ để tìm kiếm thông tin cần thiết nhằm giải quyết các yêu cầu học tập.)

- Giáo viên tổ chức cho học sinh khai thác nội dung lược đồ bằng hệ thống câu hỏi gợi ý:

+ Lực lượng của địch khi bắt đầu tấn công lên Việt Bắc?

+ Quân địch tấn công lên Việt Bắc theo mấy đường? Nêu cụ thể?

+ Quân ta tiến công, chặn đánh quân địch như thế nào?

+ Sau hơn một tháng tấn công lên Việt Bắc, quân địch rơi vào tình thế như thế nào?

+ Sau hơn 75 ngày đêm chiến đấu, quân ta thu được kết quả ra sao?

- Học sinh làm việc theo nhóm: Dựa vào thông tin trong sách giáo khoa và lược đồ trình bày diễn biến của chiến dịch.

- Giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày diễn biến của chiến dịch theo lược đồ.

- Giáo viên tuyên dương khen ngợi học sinh đã mạnh dạn trình bày trước lớp.

* Các bước làm trên sẽ giúp học sinh dễ dàng thuật lại diễn biến của chiến dịch một cách dễ dàng. Từ đó các em cảm thấy không còn sợ môn học này và dần yêu thích, tạo sự hứng thú tham gia học tập tích cực ở các em trong giờ học Lịch sử.

2. Sử dụng sơ đồ, bảng so sánh trong tiết dạy môn Lịch sử:

Sơ đồ, bảng so sánh là những đồ dùng trực quan thể hiện rất nhiều thông tin và sự kiện lịch sử được người dạy thiết kế lại từ kênh chữ. Những kiến thức từ kênh chữ nhiều khó nhớ được hệ thống bằng sơ đồ, bảng so sánh thì bài học sẽ trở nên ngắn gọn và dễ hiểu, kích thích tư duy và hứng thú học tập cho học sinh giúp các em sẽ hiểu bài và ghi nhớ kiến thức bền vững hơn.

a) Sơ đồ:

* Ví dụ: Bài: “Bình Tây đại nguyên soái” Trương Định,

Ở cuối hoạt động 3: Lòng biết ơn, tự hào của nhân dân ta với “Bình Tây đại nguyên soái” Trương Định.

Sử dụng sơ đồ thay thế cho phương pháp hỏi đáp (thầy hỏi – trò đáp). Đây cũng là kiến thức giúp học sinh cũng cố toàn bài học.

Phiếu giao việc nhóm

- Việc 1: Cá nhân hoàn thành yêu cầu.

- Việc 2: Thống nhất ý kiến trong nhóm.

Hãy điền nội dung thích hợp vào chỗ chấm, hoàn thành sơ đồ sau thế hiện được quyết định của Trương Định giữa lệnh vua và tình cảm của nhân dân đối với ông.

Triều đình:………….

Nhân dân:.........................

→ Trương Định Quyết tâm:.................

- Giáo viên phát phiếu giao việc.

- Học sinh hoàn thành phiếu giao việc theo cá nhân, sau đó thống nhất trong

nhóm.

- Các nhóm trình bày kết quả.

- Các nhóm nhận xét, đánh giá kết quả làm việc của nhóm mình và nhóm bạn.

Triều đình: Kí hòa ước với giặc Pháp, và lệnh cho ông giải tán lực lượng nghĩa binh và đi nhận chức Lãnh binh.

Nhân dân: Suy tôn ông là “Bình Tây đại nguyên soái”.

TRƯƠNG ĐỊNH Quyết tâm: Không tuân lệnh vua, ở lại cùng nhân dân chống giặc.

- Giáo viên kết luận: Trương Định là một trong những tấm gương tiêu biểu trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Nam Kì. Nhân dân biết ơn ông đã lập đền thờ ghi lại những chiến công của ông, lấy tên ông đặt tên cho đường phố, trường học. (Ở phần kết luận này giáo viên có thể mở rộng hỏi thêm: Tên đường, tên trường mang tên Trương Định có ở thành phố, tỉnh nào mà em biết? nhằm phát huy năng lực học tập, tự tìm tòi tri thức ở các em. Nếu học sinh chưa biết thì giáo viên gợi ý cung cấp thêm kiến thức nhằm mở rộng vốn hiểu biết trong thực tiễn: Tên đường Trương Định (phố Trương Định) thuộc quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, tên trường Trương Định thuộc quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh)

b) Bảng so sánh:

* Ví dụ: Bài “Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX”

- Giáo viên hướng dẫn thực hiện ở hoạt động 3: Lập bảng so sánh tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta.

- Giáo viên phát phiếu giao việc cho nhóm và bảng so sánh tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta.

- Giáo viên yêu cầu cá nhân học sinh đọc thông tin sách giáo khoa, tìm kiếm thông tin liên quan hoàn thành bảng so sánh theo yêu cầu.

Tiêu chí so sánh

Trước khi thực dân Pháp xâm lược

Sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị
Các ngành nghề chủ yếu
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Đời sống nông dân và công nhân

- Các nhóm trưng bày kết quả thảo luận.

- Đại diện nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, nếu thắc mắc (nếu có).

- Giáo viên nhận xét, hoàn thiện phần trả lời của học sinh.

Tiêu chí so sánh

Trước khi thực dân Pháp xâm lược

Sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị
Các ngành nghề chủ yếu

Nông nghiệp

Thủ công nghiệp

Nông nghiệp

Thủ công nghiệp

Khai thác mỏ

Sản xuất điện, nước, xi măng, dệt

Lập và khai thác đồn điền cao su, cà phê, chè...

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội

Địa chủ phong kiến

Nông dân

Địa chủ phong kiến

Nông dân

Công nhân; Chủ xưởng; Viên chức; Nhà buôn; Trí thức

Đời sống nông dân và công nhânRất cực khổ, đói nghèoCàng cơ cực và đói nghèo hơn.

- Giáo viên kết luận: Dựa vào bảng so sánh các em nhận thấy trước đây xã hội Việt Nam chủ yếu chỉ có địa chủ phong kiến và nông dân, nay xuất hiện những giai cấp, tầng lớp như: Chủ xưởng, nhà buôn, viên chức, trí thức thành thị phát triển, lần đầu tiên ở Việt Nam có đường ô tô nhưng đời sống nông dân và công nhân thì ngày càng cơ cực dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

* Ví dụ: Bài “Ôn tập: Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ (1858 – 1945)”

- Để chuẩn bị cho tiết học này, ngay từ tiết học trước tôi cho các em kẻ sẵn bảng các sự kiện lịch sử tiêu biểu từ năm 1858 – 1945, yêu cầu các em về nhà dựa vào nội dung các bài đã được học hoàn thành bảng thống kê sau:

Thời gianSự kiện tiêu biểuNội dung cơ bản (ý nghĩa lịch sử) của sự kiệnCác nhân vật lịch sử tiêu biểu
1/9/1958
Nửa cuối thế kỉ XIX
Đầu thế kỉ XX.
3/2/1930
19/8/1945
2/9/1945

- Vào tiết học, giáo viên treo bảng thống kê đã hoàn chỉnh nhưng che kín các nội dung.

- Học sinh đọc lại bảng thống kê mình đã làm ở nhà theo yêu cầu chuẩn bị của tiết học trước.

- Giáo viên chọn 1 học sinh giỏi điều khiển hoạt động, nêu câu hỏi.

+ Ngày 1/9/1858 xảy ra sự kiện lịch sử gì?

+ Sự kiện này có nội dung cơ bản hay ý nghĩa gì?

+ Kể tên nhân vật tiêu biểu cho sự kiện lịch sử đó?

- Học sinh cả lớp trả lời, bổ sung ý kiến.

- Học sinh điều khiển kết luận đúng sai, nếu đúng thì mở bảng thống kê, nếu sai yêu cầu bạn khác bổ sung.

- Tôi đóng vai trò làm trọng tài khi học sinh không giải quyết được vấn đề.

Cách làm này đã giúp các em rèn luyện năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề, biết chia sẻ sự hiểu biết của mình với bạn, mạnh dạn, tự tin trình bày ý kiến đồng thời phát huy được năng lực tự quản dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

* Ví dụ: Bài “Sấm sét đêm giao thừa”

Phần củng cố, tôi có thể dùng sơ đồ sau (giáo viên tự vẽ) để khái quát nội dung bài.

Học sinh trình bày tóm tắt nội dung bài bằng sơ đồ hình vẽ.

- Sơ đồ sẽ được đưa về các nhóm.

- Mỗi nhóm sẽ tổng hợp nội dung bài vừa học, trình bày những hiểu biết của mình sau bài học bằng sơ đồ hình vẽ. (học sinh dựa vào sơ đồ, khái quát lại nội dung bài học (Cuộc tấn công mang tính bất ngờ vì: về thời gian: đêm giao thừa; Về địa điểm: tại các thành phố lớn, tấn công vào các cơ quan đầu não của địch; cuộc tấn công mang tính đồng loạt có quy mô lớn: tấn công vào nhiều nơi, trên một diện rộng vào cùng một lúc.)

- Tổ chức thi đua cho hai nhóm hoàn thành xong trước nhất. (Các nhóm khác làm trọng tài – nhận xét)

- Tuyên dương cá nhân, nhóm năm được nội dung bài học thông qua việc trình bày nội dung vừa học qua sơ đồ.

* Với cách tóm tắt nội dung bài học bằng sơ đồ hình vẽ giúp học sinh dễ ghi nhớ và là điểm tựa để các em phát huy năng lực diễn đạt trước lớp. Từ đó, các em cảm thấy dễ dàng khi ghi nhớ kiến thức từ trực quan hình ảnh đến phát triển tư duy trừu tượng ở học sinh.

3. Khai thác kiến thức từ kênh hình sách giáo khoa:

Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng để tạo hứng thú cho các em trong học tập đó là các kênh hình. Kênh hình trong sách không chỉ có ý nghĩa minh họa cho bài viết, góp phần tạo ra sinh động, hấp dẫn của bài học mà còn là nguồn tư liệu giúp tôi tổ chức cho học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức. Để khai thác được kênh hình một cách tốt nhất tôi phải nắm chắc nội dung kênh hình, xác định rõ kiến thức cơ bản của bài và phải chuẩn bị một số câu hỏi phù hợp với trình độ của các em để gợi ý các em tự khai thác kiến thức từ kênh hình.

* Ví dụ: Bài “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”

- Quan sát hình 3 sách giáo khoa trang 25, em hãy mô tả nội dung bức ảnh và cho biết bức ảnh đó giúp em hiểu được điều gì?

- Giáo viên hướng dẫn các em khai thác bức ảnh bằng các câu hỏi gợi mở như: (Nhân dân ta học tập trong điều kiện như thế nào? Lớp học bao gồm những thành phần nào? Tinh thần và thái độ học tập của mọi người thể hiện điều gì?).

- Học sinh quan sát bức ảnh và trả lời (Nhân dân ta học tập trong đêm tối, dưới ngọn dầu le lói, mọi người đều chăm chú say sưa học tập. Lớp học lôi cuốn mọi lứa tuổi, mọi thành phần, không phân biệt trẻ, già, trai gái, giàu nghèo đều đi học chữ. Tinh thần và thái độ học tập của mọi người thể hiện khí thế của một dân tộc đang vươn lên làm chủ vận mệnh của chính mình).

Kênh hình về bản đồ lịch sử, về nhân vật lịch sử với ưu thế của nó: rõ ràng, sinh động, dễ nhớ, dễ ấn tượng, dễ đi vào lòng người... sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống tổ tiên, với các lãnh tụ, các danh nhân cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà cũng như lịch sử văn minh nhân loại.

Việc cho các em tiếp cận các nguồn sử liệu (kênh chữ, kênh hình) trong sách giáo khoa giúp các em có những hình ảnh cụ thể về sự kiện, hiện tượng lịch sử. Đây là khâu quan trọng của quá trình nhận thức lịch sử. Bởi nếu không dựa trên các hình ảnh của sự kiện thì không thể nhận thức và phát triển tư duy.

* Một số lưu ý khi thực hiện giải pháp này:

- Lược đồ, sơ đồ, bảng so sánh, bảng thống kê, kênh hình là phương tiện không thể thiếu được trong hoạt động dạy học. Khi thực hiện, tôi chọn và sử dụng cùng với phương pháp tốt nhất giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức nhằm phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập.

- Trong khi sử dụng những dụng cụ trực quan cần phải phù hợp với nội dung bài dạy, với trình độ nhận thức của học sinh, đặc biệt là những dụng cụ trực quan tạo ấn tượng, giúp học sinh khắc sâu, nhớ kỹ, tái hiện lại những kiên thức đã học.

- Luôn luôn phải sử dụng tư liệu, kết hợp với đồ dùng trực quan, tranh ảnh, lược đồ để miêu tả, tường thuật, kể chuyện. Bên cạnh lời nói sinh động cùng chất giọng phù hợp với nội dung từng bài cũng góp phần quan trọng trong việc tạo hứng thú cho học sinh học tốt môn học này.

Bên cạnh lược đồ, sơ đồ, bảng so sánh, bảng thống kê, kênh hình, kênh chữ thì việc đưa công nghệ thông tin vào dạy học như: Các thước phim tài liệu, lược đồ động đã hỗ trợ rất nhiều trong việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử. Giáo viên tổ chức được những tiết học sinh động, nhẹ nhàng, hiệu quả, xóa đi kiểu dạy học nhồi nhét một cách vô cảm về những sự kiện, con người, ngày tháng. Các em rất thích thú với những tiết học có áp dụng công nghệ thông tin trực tiếp được nghe nhiều âm thanh, nhìn hình ảnh minh hoạ về các sự kiện, nhân vật lịch sử, được làm chủ những kiến thức của bài học. Từ đó, học sinh tiếp thu kiến thức một cách hào hứng, vui tươi... và qua đó tăng thêm lòng yêu nước, tự hào dân tộc, chủ động tìm tòi, khám phá, thêm yêu lịch sử nước nhà.

Giải pháp 2: Sử dụng thơ-ca để tạo hứng thú cho học sinh khi học Lịch sử:

Trong thực tế, Lịch sử là môn học có kiến thức liên quan với các môn học khác, chúng có mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau nhiều nhất là môn Tiếng việt. Lịch sử đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống cho nên việc lồng ghép thơ - ca vào trong giờ dạy Lịch sử là điều không thể thiếu được. Nếu như thơ- ca mô tả những sự kiện bằng hình tượng thì lịch sử tái tạo lại quá khứ bằng những con số, sự kiện cụ thể, điều đó đã tác động lớn đến nhận thức của học sinh. Đã có không ít tác phẩm văn học từ bản thân nó là một tư liệu lịch sử (“Hịch Tướng Sĩ”; “Bình Ngô Đại Cáo”) hay nhạc phẩm (Hành quân xa, ...) là những minh chứng hùng hồn cho mối quan hệ tương đông giữa lịch sử và văn học. Việc vận dụng thơ ca trong tiết học giúp cho tiết học trở nên sinh động, bớt nhàm chán hoặc tạo điều bất ngờ lí thú, kích thích sự tò mò, hứng thú trong tiết học. Giải pháp này có thể sử dụng linh hoạt, tùy vào từng thời điểm đưa thơ ca vào sao cho phù hợp trong tiết học: có thể đưa thơ ca vào phần giới thiệu bài tạo sự lôi cuốn học sinh bước vào tiết học, hoặc đưa vào giữa tiết minh chứng cho nội dung bài học và cũng có thể đưa thơ ca vào cuối tiết học nhằm khắc sâu nội dung bài học.

* Ví dụ: Bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”

Giáo viên đặt câu hỏi:

Thông qua bài học, em hiểu Bác Hồ là người như thế nào?

Nếu không có Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì nước ta sẽ như thế nào?

Giáo viên liên hệ: sau khi rời cảng Nhà Rồng, từ năm 1911 đến 1917, Bác đã bôn ba nhiều năm ở Pháp, Anh, Đức, châu Phi, châu Mĩ,... làm nhiều nghề như làm vườn, quét tuyết, phục vụ khách sạn, chụp ảnh,... và cuối cùng Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Hình ảnh của Người đã được nhiều nhà thơ viết như bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của tác giả Chế Lan Viên.

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi

Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác

Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất

Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre,

Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ

Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương

Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở

Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương.

Mỗi lần đọc đến bài thơ này, một cảm giác xúc động khó tả khi nghĩ đến việc một mình Bác ra đi tìm đường cứu nước. Cảm giác xúc động ấy sẽ truyền tải đến với các em học sinh.

* Ví dụ: Bài “Thu- Đông 1947", "Việt Bắc" “Mồ chôn giặc Pháp”

Giáo viên liên hệ: Khi biết được địch có âm mưu tấn công quy mô Việt Bắc, Trung ương Đảng đã họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu quyết tâm “phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Nhà thơ Tố Hữu có một số câu thơ viết về Việt Bắc:

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

* Ví dụ: Bài “Xô Viết Nghệ - Tĩnh”

- Giáo viên giới thiệu thêm: Phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh là phong trào đấu tranh lớn nhất của nhân dân ta trong những năm 1930 – 1931 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đã có nhiều áng thơ, văn hay viết về phong trào này. Các em hãy nghe một đoạn thơ viết về phong trào này:

Than ôi nước mất nhà xiêu

Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau!

Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước

Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên

Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyện

Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi

Không có lẽ ta ngồi chịu chết

Phải cùng nhau cương quyết một phen

Tổng này xã nọ kết liên

Ta hò ta hét thét lên thử nào

Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng.

* Ví dụ: Bài “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”.

Hoạt động củng cố: Giáo viên có thể hát hoặc cho học sinh nghe hát qua băng đĩa một bài hát tiêu biểu về chiến thắng Điện Biên Phủ như Hành quân xa của nhạc sĩ Đỗ Nhuận:

Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi

Mắt ta sáng chế căm thù bảo vệ đồng quê ta tiến bước đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi

Dù đôi chân qua những chặng đường có mỏi vẫn bước dồn ta hãy hỏi vì đâu

Mấy năm trước sống cơ cực vì bọn giặc kia nó áp bức đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi

Bọn xâm lăng kia nó gây nhiều đau khổ kia đồng bào ta mắt đỏ chờ ta.

Qua bài hát giáo dục các em tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của nhân dân ta.

Giải pháp 3: Sử dụng trò chơi học tập tạo không khí học tập sinh động:

Vui chơi không những giúp cho các em được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan mà nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với nhau, được hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, trong tổ... Thông qua đó, các em sẽ dần được hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp. Một số trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức tạo được hứng thú trong giờ học Lịch sử:

1. Trò chơi “Ô chữ kì diệu”: Vận dụng vào bài: “Ôn tập” trang 23 (SGK)

Mục tiêu: Giúp học sinh:

- Ghi nhớ các sự kiện lịch sử với nhân vật lịch sử theo trình tự mốc thời gian.

- Tìm từ được ẩn giấu ở cột dọc.

- Phát triển kĩ năng nhanh nhẹn, ghi nhớ lâu.

Chuẩn bị:

- Một bảng phụ có kẻ săn ô chữ gồm 14 hàng ngang và 1 hàng dọc.

- 3 chuông reng.

- Hệ thống các câu hỏi:

1. Tên của Bình Tây đại nguyên soái (10 chữ cái)

2. Một phong trào yêu nước do Phan Bội Châu tổ chức (6 chữ cái)

3. Một trong hai tỉnh nổ ra phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh (6 chữ cái)

4. Phong trào yêu nước diễn ra sau cuộc phản công ở kinh thành Huế (8 chữ cái)

5. Cuộc Cách mạng mùa thu của dân tộc ta diễn ra vào thời gian...(8 chữ cái)

6. Nơi mà Trương Định phải về đây nhận chức lãnh binh theo lệnh của triều đình. (5 chữ cái)

7. Thủ đô của nước ta? (5 chữ cái)

8. Ngày 12/9/1930 nhân dân huyện nào tham gia biểu tình chống lại để quốc và phong kiến? (6 chữ cái)

9. Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường .... (6 chữ cái)

10. Nông dân mất ruộng, nghèo đói đi làm cho các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trở thành .....(8 chữ cái)

11. Nơi diễn ra Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (8 chữ cái)

12. Cách mạng tháng Tám đã giải phóng cho nhân dân ta thoát khỏi kiếp gì? (4 chữ cái)

13. Người lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, ra Chiếu Cần vương kêu gọi nhân

dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước (13 chữ cái)

14. Người lập ra Hội Duy Tân (11 chữ cái)

Học sinh tham gia trò chơi “Ô chữ kì diệu”

Tiến hành: Chia lớp thành 3 đội chơi. Mỗi đội chơi được chọn ngẫu nhiên 5 bạn tham gia, các bạn còn lại làm cổ động viên.

- Lần lượt các đội chơi được chọn từ hàng ngang, giáo viên đọc gợi ý của từ hàng ngang, 3 đội chơi cùng suy nghĩ, đội nào rung chuông nhanh được quyền trả lời. Đúng được 10 điểm, sai không được điểm, đội khác được quyền trả lời bổ sung đạt tối đa 5 điểm nếu trả lời đúng.

- Trò chơi kết thúc khi tìm được từ hàng dọc. Đội tìm được từ hàng dọc được 30 điểm. Đội nào được nhiều điểm nhất là đội chiến thắng.

2. Trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”:

Trò chơi này trường hay sử dụng ở cuối tiết học nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức giúp các em hệ thống lại kiến thức sau tiết học, rèn luyện kĩ năng ghi nhớ bền vững.

* Ví dụ dạy bài: “Bến tre đồng khởi”

Mục tiêu: Giúp học sinh hệ thống lại kiến thức sau bài học.

Chuẩn bị: Học sinh: Thẻ A, B, C, D tương ứng với 4 đáp án ở mỗi câu hỏi.

Giáo viên: Câu hỏi và đáp án.

Tiến hành: Tổ chức cho cả lớp cùng chơi.

- Giáo viên nêu câu hỏi, mỗi câu hỏi tương ứng có 4 ý trả lời.

- Học sinh sau 10 giây suy nghĩ lựa chọn ý trả lời và đưa kết quả trả lời của mình bằng cách giơ thẻ bằng chữ cái tương ứng với ý trả lời.

- Giáo viên mở kết quả đúng, tổng kết, tuyên dương.

Câu 1: Phong trào “Đồng khởi” ở Bến tre nổ ra trong hoàn cảnh nào?

A. Trước sự tàn sát của thực dân Pháp.

B. Trước ách thống trị khắc nghiệt của chế độ phong kiến.

C. Trước âm mưu cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp.

D. Trước sự tàn sát của Mĩ-Diệm.

Đáp án: D

Câu 2: Phong trào đồng khởi diễn ra ở Bến Tre vào thời gian nào?

A. 17/01/1960

B. 17/01/1954

C. 17/01/1965

D. 17/01/1968

Đáp án: A

Câu 3: Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” ở Bến Tre có tác động như thế nào đối với cách mạng miền Nam?

A. Giải phóng miền Nam.

B. Là ngọn cờ tiên phong, đẩy mạnh cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam.

C. Giúp đồng bào miền Nam thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.

D. Là ngọn cờ tiên phong, giúp đồng bào miền Nam đẩy lùi được “Giặc đói”, “Giặc dốt”, “Giặc ngoại xâm”.

Đáp án: B

Học sinh tham gia trò chơi học tập: “Ai nhanh, ai đúng”

- Việc tổng kết khen thưởng bằng những bông hoa học tốt có viết tên của các em sau mỗi trò chơi, hoặc tuyên dương nhóm học tốt sau mỗi tiết học được chính các em bình chọn. Việc làm này cũng góp phần khích lệ học sinh tham gia giờ học tích cực giúp các em cảm thấy hứng thú học tập tốt hơn môn học này.

Hoa cá nhânHoa nhóm

* Hiệu quả mang lại khi thực hiện trò chơi học tập trong tiết dạy học môn Lịch sử:

- Giúp học sinh nhớ ngay nội dung bài học tại lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em.

- Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái; học sinh hứng thú, tích cực học tập và tìm hiểu lịch sử thông qua các bài đã học.

- Giáo dục thêm cho các em về kĩ năng sống, đó chính là tôn trọng các nhân vật lịch sử và có ý thức bảo vệ các di tích và lịch sử dân tộc.

- Rèn luyện năng lực học tập tích cực, phát triển tư duy, kĩ năng hợp tác.

Giải pháp 4: Lựa chọn hình thức, kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực giúp giờ học Lịch sử thêm sinh động tạo hứng thú ở học sinh:

Ngày nay, mô hình dạy học theo nhóm là điều rất cần thiết nhằm phát huy được năng lực hợp tác, làm việc theo nhóm của học sinh. Vì trong cuộc sống, làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện, khắc phục được những điểm yếu của mỗi người. Mặc dù việc chia nhóm tùy thuộc vào đặc điểm từng lớp nhưng khi chia nhóm giáo viên cần đảm bảo được những yêu cầu cơ bản sau: Trình độ học tập mỗi nhóm có sự đồng đều nhau, nên có những học sinh tích cực, học sinh khá giỏi và học sinh yếu để hỗ trợ lẫn nhau; học nhóm còn cần thực hiện theo nguyên tắc bao giờ cũng làm việc cá nhân, sự chủ động học tập cá nhân sẽ giúp các em hiểu sâu kiến thức từ đó ghi nhớ bền vững sau đó bước hợp tác chia sẻ trong nhóm thực hiện sau cùng nhằm hoàn thiện kiến thức ở các em. Bên cạnh việc học nhóm còn giúp các em mạnh dạn, tự tin

Việc tổ chức học theo nhóm và vận dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học phù hợp giúp học sinh ham thích môn học mạnh dạn tự tin, chia sẻ kết quả học tập trong nhóm, trình bày ý kiến trước lớp về kết quả thảo luận của nhóm. Đồng thời rèn luyện được kĩ năng hợp tác trong nhóm và hình thành ý thức trách nhiệm với công việc được giao khi thực hiện cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ của nhóm.

Ví dụ: Bài “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”.

* Hoạt động 1: Những khó khăn của nước ta sau Cách mạng tháng Tám.

Mục tiêu:

- Học sinh năm được những khó khăn của nước ta ngay sau Cách mạng

tháng Tám .

- Phát triển kĩ năng trình bày cá nhân, kĩ năng hợp tác.

Chuẩn bị: Học sinh: Các bảng nhóm (khăn trải bàn), viết lông, sách giáo khoa.

Giáo viên: Phiếu giao việc.

PHIẾU GIAO VIỆC

Nhóm trưởng hướng dẫn các bạn thực hiện các việc sau:

Việc 1: Cá nhân đọc thầm thông tin sách giáo khoa trang 24, 25 đoạn:

“Cách mạng thành công...nghìn cân teo sợi tóc”

Việc 2: Cá nhân dựa vào thông tin sách giáo khoa trả lời câu hỏi:

Hãy nêu những khó khăn của nước ta sau Cách mạng tháng Tám?

Việc 3: Thảo luận nhóm thống nhất nội dung trả lời.

Hình thức, kĩ thuật dạy học: Hình thức học nhóm, kĩ thuật “Khăn trải bàn”

Học sinh làm việc cá nhân, nhóm vận dụng kĩ thuật “Khăn trải bàn”

Tiến hành:

- Giáo viên phát lệnh cho học sinh các nhóm thực hiện yêu cầu của phiếu giao việc:

- Nhóm trưởng điều hành thực hiện yêu cầu của phiếu giao việc trong nhóm.

- Các nhóm trưng bày kết quả học tập xung quanh lớp học.

- Các nhóm quan sát, đánh giá kết quả học tập của nhóm mình và nhóm bạn.

- Giáo viên tổng hợp, đánh giá kết quả học tập của các nhóm.

- Giáo viên đánh giá tuyên dương, khích lệ năng lực học tập của cá nhân, nhóm có sự tiến bộ trong quá trình học tập.

Giải pháp 5: Giảng dạy lịch sử địa phương:

Trong giờ học lịch sử địa phương với thời lượng dành cho những tiết học này chỉ có 2 tiết (Tiết 31 và Tiết 32) rất ít ỏi nên giáo viên cần phải xây dựng kế hoạch dạy học thật cụ thể, chuẩn bị thật kĩ tài liệu, phương pháp hay trò chơi... phù hợp nhằm giúp các em thông qua giờ học lĩnh hội nhiều kiến thức ở địa phương, khơi dậy ở các em niềm tự hào về mảnh đất mình đang sống, học tập và lớn lên để từ đó tình yêu quê hương nuôi dưỡng các em trở thành những người con có ích cho xã hội góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu, đẹp.

Bản đồ hành chính tỉnh Bình Thuận

- Việc xây dựng kế hoạch dạy học lịch sử địa phương còn cần phải phối : Đội thiếu niên với Chi đoàn của Nhà trường nhằm giúp tiết học đạt hiệu quả hơn: thực hiện nội dung giáo dục truyền thống cho học sinh nhân các buổi lễ. chăm sóc gia đình Thương binh, liệt sĩ, gia đình có công.

* Bên cạnh việc chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy, hay sự phối hợp với ban ngành, đoàn thể để tổ chức tiết học Lịch sử địa phương đạt hiệu quả, giúp cho học sinh có kiến thức sâu rộng về lịch sử địa phương mà thông qua các tiết học này còn nung đúc ở các em truyền thống yêu quê hương đất nước, về tinh thần đấu tranh quật cường trong chiến đấu cũng như trong sản xuất góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp.

Giải pháp 6: Giúp học sinh yêu thích môn Lịch sử thông qua “Hoạt động ngoại khóa”, “lồng ghép giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”:

1. Dạy học lồng ghép nội dung giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

+ Ví dụ: Dạy bài: “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”

Giáo viên lồng ghép giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi giới thiệu tập sách “Bác Hồ kính yêu”: tập sách kể về cuộc đời hoạt động của Bác đi theo dài lịch sử của dân tộc ta.

Thông qua tập sách: “Bác Hồ kính yêu” giúp học sinh thấy rõ hơn về tấm gương đẹp nhất: “bảy mươi chín tuổi đời, sáu mươi năm hoạt động cách mạng của Người”. Bác Hồ là cả một kho những câu chuyện hết sức hấp dẫn, giá trị về nhiều mặt, có ý nghĩa giáo dục cao. Cuốn sách “Bác Hồ kính yêu” với nhiều mẫu chuyện hay, giúp cho bạn đọc hiểu hơn về con người vị lãnh tụ kính yêu. Qua đó giáo dục các em lòng kính yêu với Bác và cố gắng học tập chăm chỉ để đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu như ý nguyện của Bác đối với thiếu nhi, nhi đồng.

2. Hoạt động ngoại khóa:

Hình thức học tập hoạt động ngoại khóa rất có lợi, tạo tâm lí thoải mái theo phương châm “Học mà chơi, chơi mà học”, là một sân chơi bổ ích để phát triển kỹ năng giao tiếp của các em với môi trường bên ngoài.

Các em là lứa tuổi thích khám phá điều lạ, hay học hỏi và bắt chước người lớn. Trong năm học, nhà trường thường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tôi khuyến khích các em tham gia giúp các em có điều kiện tiếp xúc môi trường xung quanh, có cơ hội để giao lưu, học hỏi lẫn nhau, chia sẻ thông tin với bạn. Việc ghi chép lại những kiến thức bổ ích khi tham gia các hoạt động ngoại khóa này chính là tư liệu giúp các em không chỉ học tốt môn học Lịch sử mà nó còn giúp ích cho việc học tốt các môn học khác. Nhờ sự tiếp thu môn học dễ dàng từ "g tiện thông qua các hoạt động ngoại khóa nên dần hình thành ở các em niềm đam mê, yêu thích môn học Lịch sử, phát huy được năng lực học tập tích cực trong giờ học Lịch sử.

Giải pháp 7: Làm – sử dụng đồ dùng dạy học tự làm:

Học sinh Tiểu học là lứa tuổi thích khám phá, tìm tòi và học qua các hình ảnh, mô hình vì:

Tôi nghe Tôi quên

Tôi nhìn Tôi hiểu

Tôi làm Tôi nhớ

Vì thế, có thể thấy được đồ dùng dạy học là phương tiện hỗ trợ tích cực cho tiết dạy và chỉ đạt hiệu quả khi đồ dùng dạy học được vận dụng đúng lúc, đúng chỗ phù hợp với nội dung bài dạy.

Phong trào làm đồ dùng dạy học tự làm được nhà trường quan tâm phát động hàng năm, riêng bản thân tôi cũng khuyến khích tổ chức cho các em học sinh lớp 5B tự làm đồ dùng phục vụ cho tiết học. Đồng thời việc sưu tầm những tài liệu, sách báo có liên quan đến bài học cũng góp phần giúp các em hiểu sâu, nắm chắc nội dung bài học, tiết học sinh động, học sinh hứng thú tham gia học

Học sinh cùng tham gia làm đồ dùng dạy học tập tích cực.

Bản đồ đa năng - Đồ dùng dạy học GV tự làm

IV. KẾT QUẢ:

Qua gần một năm tiến hành vận dụng các biện pháp đã nêu trên vào từng bài dạy một cách thường xuyên. Vì vậy, tiết học Lịch sử đối với các em lớp 5A bây giờ không còn nhàm chán, tẻ nhạt nữa mà thật sự lôi cuốn các em tham gia - động học tập, các em cảm thấy hứng thú học tập tốt trong tiết học; . . ở kiến; mạnh dạn nêu những thắc mắc để tự tìm kiến thức mới; trình - nội dung trước nhóm, trước lớp tự tin và mạnh dạn hơn nhiều so với đầu năm.

Học sinh biết tự tìm tòi, khám phá để tự chiếm lĩnh kiến thức, hiểu sâu, - lâu kiến thức bền vững hơn. Các em tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội các kiến thức lịch sử, các sự kiện, mốc thời gian lịch sử, từ đó các em biết liên hệ thực tế cuộc sống (trong đó tìm hiểu lịch sử địa phương là một cách giúp các em hiểu được truyền thống yêu nước của mỗi người công dân đối với dân tộc mình). Thái độ hứng thú, yêu thích môn Lịch sử, tham gia giờ học chủ động giúp phát huy năng lực học tập tích cực của học sinh góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Lịch sử.

Qua so sánh kết quả thu được từ năng lực học tập của học sinh, tôi thấy chất lượng học môn Lịch sử của lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt, và điều đặc biệt hơn nữa là các em tự chiếm lĩnh kiến thức, tìm tòi lịch sử như: Tìm truyện các anh hùng lịch sử, truyện các danh nhân, những mẫu chuyện về Bác Hồ kính yêu

Khi được diễn đạt trước lớp, các em trình bày khá lưu loát, tạo tâm lí thoải mái, tự tin trong học tập của các em. Lớp học sôi nổi, sinh động, thu hút mọi đối tượng học sinh; đặc biệt là những học sinh yếu kém, nhút nhát dần dần tự tin và 1 gia phát biểu xây dựng bài. Hứng thú học tập giúp học sinh phát huy năng lực học tập tích cực trong giờ học nói chung và trong giờ học Lịch sử nói riêng.

Kết quả khảo sát về thái độ và năng lực học tập môn Lịch sử đến thời điểm cuối học kì 1 như sau:

*Thái độ học tập môn học Lịch sử:

Lớp

Số HS khảo sát

Yêu thích môn họcChưa yêu thích môn học
5A

31

283

100%

90,3%9,7%

* Năng lực học tập môn học Lịch sử:

Số lượng học sinh tham gia khảo sát là 31 học sinh.

Lớp 5AHoàn thành tốtHoàn thànhChưa hoàn thành
Số HS: 312551
100%80,7%16,1%3,2%

Trong thời gian tới, việc tiếp tục thực hiện các giải pháp trên và đồng thời tiếp tục nghiên cứu vận dụng giải pháp sao cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay tại địa phương nhằm đảm bảo mục tiêu, chương trình môn học Lịch sử là cần thiết. Với đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng này, tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp học sinh phát huy năng lực học tập tích cực môn Lịch sử lớp 5. Mặc dù tôi rất cố gắng trong việc nghiên cứu tìm ra một số giải pháp giúp học sinh lớp có hứng thú học tập tốt môn Lịch sử lớp 5, tuy nhưng khả năng có hạn nên chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của đồng nghiệp, Hội đồng Khoa học các cấp để đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng của tôi được hoàn thiện hơn, từ đó áp dụng vào thực tế giảng dạy đạt hiệu quả hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Phan Thiết, ngày 02 tháng 03 năm 2021
Minh Thoại

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP THÀNH PHỐ

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

……………………………………………………………

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 5.094
0 Bình luận
Sắp xếp theo