Top 13 mẫu sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn THPT sách mới

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn THPT sách mới được Hoatieu chia sẻ đến bạn đọc trong bài viết này bao gồm tổng hợp mẫu sáng kiến kinh nghiệm môn Văn lớp 10, 11, 12 theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018. Sau đây là nội dung chi tiết mẫu sáng kiến kinh nghiệm dạy học môn Ngữ văn THPT, mời các bạn cùng tham khảo và tải về sử dụng.

Để xem trọn bộ nội dung các mẫu SKKN môn Ngữ văn THPT sách mới, mời các bạn sử dụng file tải về trong bài.

1. Sáng kiến kinh nghiệm dạy học Ngữ văn 12

PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lí do chọn đề tài

Nền giáo dục ở Việt Nam nói chung và quá trình dạy học môn Ngữ văn nói riêng đã và đang không ngừng đổi mới. Theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018, việc dạy học cũng như đánh giá HS sẽ dựa trên sự phát huy tối đa năng lực của người học. Vì thế, đa dạng hình thức kiểm tra miệng cũng là một trong những cách thức giúp GV đánh giá HS. Đây là một trong những hoạt động tất yếu trong quá trình đổi mới kiểm tra, đánh giá HS dựa theo năng lực và phẩm chất trong chương trình mới này.

Đặc biệt, kiểm tra miệng không chỉ là một trong những khâu hoàn thiện đánh giá kết quả học tập của HS mà còn mang lại nhiều ý nghĩa cho cả người dạy lẫn người học, trong đó rất đặc biệt đối với các giờ dạy văn bản đọc hiểu. Nó có vai trò tạo tâm thế ổn định, thoải mái cho lớp khi bước vào bài học mới. Đồng thời, khi trả lời bài cũ còn là phút giây HS được rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề và hình thành thái độ tự tin cho bản thân. Và GV cũng có cái nhìn tổng quát về kiến thức, thái độ của người học để có sự điều chỉnh trong dạy học và đánh giá phù hợp hơn.

Tuy nhiên, thực tế trong quá trình kiểm tra miệng trong các giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5, chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Với mong muốn các em trang bị kiến thức một cách đầy đủ để tham gia kì thi quan trọng, nên vẫn còn hiện tượng GV ép buộc HS ghi nhớ kiến thức một cách thuần túy và tái hiện bằng miệng trước lớp trong đầu giờ học. Và quá trình kiểm tra miệng trong các giờ dạy văn bản văn học chỉ đơn thuần là thuật lại nội dung của bài cũ như: đọc thuộc bài thơ, tóm tắt câu chuyện... Vì thế, thay vì hiểu và sáng tạo thì HS lại chú trọng quá trình học thuộc để hoàn thành yêu cầu bài cũ của GV trước khi đến lớp. Đồng thời, bản thân các em cũng chấp nhận cách học ghi nhớ này, với quan niệm: “học thuộc trước thì đỡ sau, tổng không đổi”. Tuy nhiên, cũng có một số trường hơp các em có e ngại, thậm chí có phần sợ sệt khi bị nhắc tên lên hỏi bài. Bởi lẽ, để thuộc lòng các văn bản thơ lớp 12 đó là một điều không dễ dàng khi mỗi bài có dung lượng tới 90 câu thơ. Các em gọi bông đùa những phút giây đó là “giờ xét xử”, “giờ hành hình”, “lên thớt”... Từ đó, đồng nghĩa với việc không khí của đầu giờ học luôn bắt đầu bằng những căng thẳng và nặng nề.

Xuất phát từ những cơ sở trên tôi lựa chọn giải pháp “Đa dạng hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong dạy học Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5” để nghiên cứu và thực hiện.

2. Đối tượng tác động

Khách thể nghiên cứu: học sinh khối 12 trường THPT Nghi Lộc 5

Nhóm lớp thực nghiệm: Lớp 12 A5, 12 A2

Nhóm lớp đối chứng: Lớp 12 A7

Thời gian: năm học: 2022 - 2023

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong Ngữ văn 12.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp khảo sát, thống kê.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp thể nghiệm.

Ở đề tài này chúng tôi tiến hành các bước sau:

Bước 1: Tiến hành khảo sát thực trạng kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong môn Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5

Bước 2: Thực hành đa dạng các hình thức kiểm tra miệng trong giờ đọc văn ở một số lớp tại trường THPT Nghi Lộc 5

Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau khi áp dụng hình thức kiểm tra mới

Bước 4: Kết luận

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Việc áp dụng đa dạng các hình thức kiểm tra miệng ở các giờ dạy đọc văn trong Ngữ văn 12 sẽ giảm bớt đi sự căng thẳng, lo sợ mà thay vào đó tạo được sự mới mẻ, hứng thú từ phía HS trường THPT Nghi Lộc 5 nói riêng và HS THPT nói chung trong mỗi giờ học. Nhờ đó các em không chỉ vui vẻ học tập mà còn có cơ hội phát huy được năng lực của mình một cách toàn diện, chứ không đơn thuần là việc “đọc thuộc”. Vì thế, các em được mở rộng được kiến thức và rèn luyện nhiều kỹ năng nhiều hơn. Giúp các em luôn tự tin, thể hiện năng lực của bản thân. Đúng với phương châm: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.

Đồng thời, đây cũng là một kênh thông tin hữu hiệu để GV đánh giá HS một cách chính xác và khách quan. Qua đó, các nhà giáo có những lựa chọn, điều chỉnh phù hợp trong phương pháp dạy học của mình.

PHẦN B: NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lí luận

1.1. Khái niệm kiểm tra miệng

“Kiểm tra”, “đánh giá” là một phần không thể thiếu trong bất cứ công việc, nhiệm vụ nào, đặc biệt là trong quá trình giáo dục và đào tạo. Vì thế, Nguyễn Thị Phương Hoa đã khẳng định: “Hoạt động dạy và học luôn cần những thông tin phản hồi để điều chỉnh kịp thời, nhằm tạo ra hiệu quả ở mức cao nhất”.[3]. Từ những nhận thức trên, khi chúng tôi bàn về khái niệm “kiểm tra”, “đánh giá” đã không quá xa lạ với HS lẫn GV hiện nay. Tuy nhiên, cũng không ít người còn ngộ nhận, chưa phân biệt rõ ràng các loại hình, thậm chí nhầm lẫn giữa chúng. Thực ra “đánh giá” là một quá trình, một khái niệm rộng, còn “kiểm tra” chỉ dạng thức cơ bản, quen thuộc, là một khâu quan trọng trong quá trình đánh giá. Ở phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ bàn về nội hàm của khái niệm “kiểm tra” trong dạy và học. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho rằng: “Kiểm tra, thi cử hoặc bài kiểm tra là một bài đánh giá giáo dục nhằm đo lường kiến thức, kỹ năng, năng khiếu, thể chất hoặc tính phân loại của người dự thi trong nhiều chủ đề khác nhau” [11]. Cùng quan điểm đó, Từ điển Tiếng Việt, nêu rõ “kiểm tra” được hiểu là: “Xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”. Dựa trên những khái niệm trên chúng ta hiểu đơn giản, “kiểm tra” là một khâu trong quá trình đánh giá HS, đó là lúc GV đo lường lượng kiến thức và kĩ năng của yêu cầu bài học ở HS, qua đó phát hiện ra những năng lực hay thiếu sót của các em, nhằm đưa ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời, để nâng cao kết quả học tập. Từ những thông tin thu được sẽ cung cấp dữ kiện cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá HS.

Nhận thức rõ được vai trò của “kiểm tra” trong dạy và học đối với HS lẫn GV nên hiện nay hoạt động này được mọi người quan tâm và chú trọng. Theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông mới các hình thức kiểm tra dần được thay đổi đa dạng. Trong dạy học, người ta thường sử dụng các hình thức kiểm tra như: kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ và kiểm tra tổng kết. Cùng với các hình thức trên, các phương pháp kiểm tra được thực hiện là: kiểm tra miệng, kiểm tra viết và kiểm tra thực hành. Như vậy, có thể hiểu “kiểm tra miệng” là một trong những phương pháp của kiểm tra thường xuyên. Hoạt động này thường được áp dụng ở nhiều thời điểm khác nhau trong giờ học. Có thể trước khi học bài mới, với nội dung kiểm tra bài cũ của tiết trước. Đây là thời gian được nhiều GV lựa chọn nhất. Nhưng nó cũng có thể phát sinh trong quá trình học bài mới hoặc sau khi kết thúc bài mới với những nội dung tranh luận có vấn đề hay hoạt động nhóm...

Tuy nhiên, kiểm tra miệng nếu không được áp dụng khéo léo thì sẽ dễ gây nên “hiệu ứng ngược” trong giờ dạy. Trước hết, kiểm tra miệng dễ sa vào phí phạm thời gian. Một số trường hợp HS chưa chuẩn bị kĩ lưỡng những yêu cầu của GV nên câu trả lời chiếm khá nhiều thời gian của tiết học. Đồng thời, về phía các em HS thường khá thụ động trong khi kiểm tra. Nào là: chưa chuẩn bị kĩ, chưa học thuộc, vì run nên ấp a ấp úng... Vì thế, chất lượng kiến thức GV thu nhận được còn quá mỏng so với dung lượng của bài học.

Nhằm phát huy tối đa tác dụng và hạn chế những nhược điểm của kiểm tra miệng GV cần lưu ý một số điểm như sau:

- Tạo điều kiện cho tất cả học sinh trả lời đầy đủ câu hỏi đề ra

- Giáo viên nghiên cứu kỹ những kiến thức cơ bản của bài, nắm chắc chương trình, chuẩn bị kiến thức tối thiểu do quy định.

- Dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi vừa phải, sát trình độ học sinh, học sinh có thể trả lời ngắn gọn trong vài phút.

- Sau khi nêu câu hỏi cho cả lớp, cần có thời gian ngắn để học sinh chuẩn bị, sau đó mới chỉ định học sinh trả lời câu hỏi.

- Sự hiểu biết của giáo viên về tính cách của học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm là những yếu tố giúp cho người thầy giáo thấy rõ thực chất trình độ kiến thức, kĩ năng của học sinh được kiểm tra.

- Cần kiên trì nghe học sinh trình bày. Khi cần thiết, phải biết gợi ý, không làm cho các em sợ hãi lúng túng.

- Yêu cầu học sinh trả lời sao cho cả lớp nghe được và yêu cầu cả lớp theo dõi câu trả lời của bạn và bổ sung khi cần thiết.

- Phải có nhận xét ưu khuyết điểm trong câu trả lời của học sinh về hình thức trình bày, nội dung, tinh thần thái độ .

- Phải công bố điểm công khai. Phải ghi điểm vào sổ điểm của lớp và sổ điểm cá nhân của mình.

- Thực hiện được những yêu cầu trên, hoạt động kiểm tra miệng sẽ được thực hiện phù hợp, đem lại nhiều hiệu quả trong quá trình dạy học.

Như vậy, có thể hiểu “kiểm tra miệng” là một trong những phương pháp của kiểm tra thường xuyên. GV có thể linh hoạt áp dụng vào thời gian thích hợp tùy theo đặc trưng của tiết học. Hoạt động này đem đến nhiều ý nghĩa cho người dạy lẫn người học, nhưng cũng tồn tại không ít những nhược điểm, đòi hỏi GV phải vận dụng cẩn thận, linh hoạt, khéo léo, đúng yêu cầu đề ra.

1.2. Đặc điểm của kiểm tra miệng ở giờ đọc văn trong Ngữ văn 12

Kiểm tra miệng cũng giống như kiểm tra viết, kiểm tra thực hành luôn được GV lựa chọn áp dụng thường xuyên trong quá trình dạy học của mình. Mỗi phương pháp trên đều có những đặc điểm riêng. Trước hết, kiểm tra miệng phải diễn ra trong một giới hạn thời gian nhất định trong giờ học, cụ thể là giao động từ 4-7p. Nếu không đảm bảo khung giờ này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến những hoạt động dạy học ở phía sau. Chính vì kiểm tra miệng diễn ra trong thời gian ngắn như vậy, đòi hỏi GV phải chuẩn bị kĩ lưỡng ở phần yêu cầu. Câu hỏi đặt ra cho HS phải ngắn gọn, tường minh và câu trả lời cũng chứa những nội dung vừa phải, đủ thời gian để các em suy nghĩ và trả lời trọn vẹn. Cũng trong thời gian cho phép đó, số lượng HS tham gia kiểm tra miệng cũng giới hạn nhất định, một tiết học như vậy cũng chỉ áp dụng được từ 2-3 HS. Và sau khi nhận được câu trả lời từ phía HS, GV có những đánh giá ngay lập tức trước lớp. Đó là những đặc trưng riêng của kiểm tra miệng trong dạy và học.

Tuy nhiên, sẽ dựa vào đặc thù của từng phân môn mà GV có cách thức áp dụng kiểm tra miệng khác nhau, đối với các giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 cũng vậy. Trong chương trình Ngữ văn 12 tập 1 và tập 2 hầu hết các văn bản đọc văn có dung lượng kiến thức rất lớn. Cụ thể về thơ, có một số bài lên tới 90 câu như: Việt Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)... Văn bản truyện ngắn trung bình đều chiếm từ 10 trang trở lên như: truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) dài 10 trang từ tr4 - tr14, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) lên tới 11 trang từ tr70 – tr 81... Chính vì số lượng kiến thức nhiều như vậy, nên quá trình kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong chương trình Ngữ văn 12 gặp nhiều trở ngại. Cùng với lượng thời gian cho phép nên đa số, nội dung kiểm tra miệng chỉ mới chạm đến những phần cơ bản nhất của văn bản như: tóm tắt, đọc một số đoạn thơ... Và chủ đạo GV vẫn thường yêu cầu HS ghi nhớ, tái hiện kiến thức nhận biết từ các văn bản đã học ở tiết trước. Và dĩ nhiên sẽ không đủ thời gian để GV và HS chạm đến vùng kiến thức thông hiểu và vận dụng. Cũng do đó, số lượng HS kiểm tra miệng trong những giờ học này cũng rất ít, hấu hết cũng chỉ đạt mức 1-2 HS tùy theo yêu cầu của GV và từng bài học riêng.

Như vậy, nhìn chung kiểm tra miệng trong các giờ dạy đọc văn nói riêng và dạy học nói chung còn có những khó khăn khi thực hiện. Vì thế, mỗi GV khi thực hiện cần cẩn thận chú ý, linh hoạt vận dụng để hoạt động được diễn ra đúng yêu cầu và đạt hiệu quả cao.

........................

2. Sáng kiến kinh nghiệm dạy học Ngữ văn 11

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Ngày 26/12/2018, Bộ trưởng Bộ GD – ĐT đã ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới kèm theo thông tư số 32/2018/TT – BGDĐT. Ngoài việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thì còn hướng tới mục tiêu đổi mới về phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Theo quan điểm dạy học phát triển năng lực, phương pháp dạy học không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động lĩnh hội tri thức mà còn đặc biệt chú ý đến hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn với hoạt động thực hành, thực tiễn. Không chỉ vậy, việc tăng cường hoạt động nhóm, đổi mới mối quan hệ giữa học sinh và giáo viên theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội cho học sinh. Chính vì vậy, bên cạnh việc học tập những tri thức và kĩ năng riêng biệt của môn học cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề chung mang tính phức hợp.

Thêm vào đó, đối tương học sinh ở các Trung tâm GDTX , phần lớn các em có hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn. Nhiều gia đình bộn bề với công việc mưu sinh chưa dành thời gian thỏa đáng cho việc giáo dục, theo dõi quá trình học tập của con cái. Thậm chí có phụ huynh không biết con mình học lớp nào, giáo viên chủ nhiệm là ai, kết quả học tập, rèn luyện của con như thế nào. Đây là một yếu tố gây khó khăn cho công tác giảng dạy của giáo viên. Khả năng tự học của đa số các em kém, tính ỷ lại vào thầy cô và các giờ học trên lớp của nhiều học sinh còn nặng nề. Một số học sinh còn chưa có ý thức trong học tập, có tâm lí coi nhẹ môn Văn khiến cho công việc giảng dạy khó khăn hơn nhiều.

Chính vì vậy với Trung tâm GDNN - GDTX Hưng Nguyên, một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu là nâng cao kết quả học tập của học sinh, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém trên tinh thần đánh giá đúng thực chất năng lực của các em. Trên thực tế, những khó khăn khách quan và chủ quan của TT đã xác nhận số lượng học sinh yếu kém cao hơn hẳn so với nhiều trường THPT trên địa bàn nói riêng, trên toàn tỉnh nói chung. Đặc biệt với môn Ngữ văn – môn học được học sinh coi là không “ưa thích”, “không thịnh hành” với những ngành nghề hiện đại nên học sinh lại càng chây lười, coi nhẹ, xem thường, học có tính chất đối phó với thầy cô trên lớp. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tỉ lệ yếu kém của TT, cũng như tỉ lệ phần trăm học sinh đạt điểm trên trung bình trong các kì thi tốt nghiệp.

Như vậy, trách nhiệm của người giáo viên nói chung, giáo viên Ngữ văn nói riêng là bám sát vào tình hình thực tế của Trung tâm để vạch ra những biện pháp cụ thể, phù hợp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng các mặt giáo dục, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác giáo dục, thực hiện cho được mục tiêu đề ra. Cộng thêm là sự trăn trở của cá nhân làm thế nào để mỗi bài dạy, mỗi tiết học nói chung được học sinh đón đợi, yêu thích, thấu cảm,..

Trong chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực, đổi mới phương pháp dạy học các môn học cần thực hiện đảm bảo các mục tiêu sau:

- Đề cao vai trò chủ thể học tập của học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung rèn luyện kĩ năng, hình thành và phát triển năng lực tự học để học sinh có thể tiếp tục tìm hiểu, mở rộng vốn văn hóa cần thiết cho bản thân, trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.

- Lựa chọn linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện, đảm bảo được nguyên tắc “ học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.

- Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể. Tùy theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện dạy học cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm, học trong lớp, học ngoài lớp….

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, sử dụng hợp lí và có hiệu quả các thiết bị dạy học như mô hình hiện vật, tranh ảnh địa lí, bản đồ, sơ đồ, bảng số liệu thống kê, phim video hay các phần mềm dạy học…nhằm minh họa bài giảng của giáo viên và hỗ trợ hoạt động học tập của học sinh. Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng các đồ dùng học tập tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh.

Việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên được thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau:

- Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp xếp sẵn.

- Chú trọng rèn luyện cho học sinh những phương pháp để các em biết cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, biết cách suy luận tìm tòi và phát hiện kiến thức mới… Cần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hóa, khái quát hóa, quy lạ về quen… để hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của các em.

- Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm “ tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.

- Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Chú trọng phát triển kĩ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như lời giải/ đáp án mẫu, theo hướng dẫn hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.

Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.

Trong dạy học, việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh chính là một trong những mục tiêu của dạy học tích cực và lấy học sinh làm trung tâm.

Nhận thức được những vấn đề trên của bộ môn, sáng kiến kinh nghiệm “Thiết kế bài dạy theo chủ đề nhằm phát huy năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn 11 tại Trung tâm GDNN – GDTX Hưng Nguyên” là một hướng nghiên cứu tìm tòi, đổi mới, với những cố gắng kết hợp một số bài học cùng chủ đề về nội dung, đặc điểm, văn hóa, lịch sử... thông qua một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực cảm thụ, năng lực học tập chủ động của học sinh . Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ minh họa một thiết kế bài học cụ thể và thử nghiệm trên 2 lớp học để thực hiện khảo sát.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

Mục tiêu là nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cao trong việc dạy học môn Ngữ văn tại Trung tâm GDNN - GDTX Khuyến khích sự sáng tạo, thực hiện dạy học theo chủ đề, chủ điểm có nội dung liên quan đến nhiều môn học và gắn liền với thực tiễn. Góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập; tăng cường hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học.

Nhiệm vụ là hướng dẫn giáo viên các môn học chủ động lựa chọn nội dung sách giáo khoa hiện hành để xây dựng các bài học theo chủ đề; thiết kế tiến trình dạy học theo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động học theo hướng phát huy năng lực học sinh. Tiến hành thực nghiệm giảng dạy ở lớp trong môn Ngữ văn lớp 11 GDTX cấp trung học phổ thông.

3. Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp dạy học chủ đề và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy phát huy năng lực học sinh trong dạy học môn Ngữ văn ở Trung tâm GDNN – GDTX Hưng Nguyên.

- Đối tượng nghiên cứu: Các bài học có cùng chủ đề của chương trình Ngữ văn 11.

- Phạm vi nghiên cứu: SGK Ngữ văn 11, đặc biệt nghiên cứu phần tác phẩm.

4. Giới hạn của đề tài

+ Về không gian: Đề tài được xây dựng từ việc tích lũy những kinh nghiệm giảng dạy và bồi dưỡng chuyên môn môn Ngữ văn GDTX cấp THPT ở Trung tâm GDNN – GDTX Hưng Nguyên.

+ Về thời gian: Đề tài được xây dựng từ việc tích lũy những kinh nghiệm giảng dạy và bồi dưỡng chuyên môn môn Ngữ văn từ năm 2019 – 2020, đặc biệt là năm học 2021- 2022.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

- Phương pháp nghiên cứu văn bản

- Phương pháp khảo sát

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, địa lý

..........................

3. Sáng kiến kinh nghiệm dạy học Ngữ văn 10 sách mới

PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lí do chọn đề tài

1.1 Mục tiêu của chương trình Giáo dục phổ thông 2018 là “tạo ra một môi trường học tập và rèn luyện giúp học sinh phát triển hài hòa giữa tri thức và năng lực, trở thành một người học chủ động và tích cực”. Yêu cầu từ nền giáo dục mới bắt buộc giáo dục phải dạy các phương pháp, giới thiệu các phương tiện để người học chủ động tiếp cận, chiếm lĩnh tri thức, tạo động lực say mê học tập. Đồng thời giúp người học nhận ra những năng lực của bản thân để đi tìm đáp án cho những vấn đề chưa được giải quyết theo con đường phù hợp nhất với năng lực vốn có. Vì thế dạy học hợp động là hướng đi cần thiết để đưa hoạt động dạy học và giáo dục đi vào quỹ đạo phát triển năng lực hiện nay.

1.2 Thực tiễn đổi mới giáo dục ở nhiều quốc gia đã khẳng định dạy học phân hóa dựa theo năng lực và nhu cầu của từng đối tượng là xu hướng tất yếu. Mỗi người học có những mong muốn, nhu cầu khác nhau, điều kiện sống và học tập khác biệt, kiến thức và kĩ năng không đồng đều. Giáo dục chỉ thực sự có hiệu quả nếu không đồng nhất tất cả mọi đối tượng. Dạy học và giáo dục phải chú trọng nhiều hơn đến cơ hội lựa chọn trong học tập của mỗi người học. Dạy học hợp đồng đáp ứng được tất cả sự khác biệt về nền tảng kiến thức, kĩ năng, mong muốn và thời gian thực hiện nhiệm vụ học tập của người học.

Dạy học họp đồng là dạy học phân hóa, dựa theo năng lực và nhu cầu cụ thể của từng đối tượng. Giáo viên định hướng, học sinh lựa chọn nội dung, hình thức bài tập, phương thức thực hiện, thời gian phù hợp với năng lực, kĩ năng sẵn có và điều kiện sống của bản thân để hoàn thành các nhiệm vụ từ đó hình thành các phẩm chất, rèn luyện thêm các kĩ năng, hoàn thiện các năng lực cơ bản.

1.3 Môn Ngữ Văn trong nhà trường luôn đóng vai trò tiên phong trong việc rèn luyện và phát triển các năng lực chủ yếu cho người học. Đặc biệt các văn bản văn học trong chương trình Ngữ Văn 10 ( sách Kết nối Tri thức với cuộc sống) sẽ cung cấp kiến thức về thể loại, các giá trị thẫm mĩ, giáo dục các phẩm chất, hình thành các năng lực như: năng lực ngôn ngữ, năng lực thẫm mĩ, năng lực tự học, sáng tạo…. Dạy học hợp đồng thích hợp với hoạt động hình thành kiến thức và vận dụng trong dạy đọc hiểu văn bản văn học. Áp dụng phương pháp dạy học hợp đồng, giáo viên sẽ tạo được môi trường học tập mà ở đó người học tự tin và tự do trình bày quan điểm, suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc. Học sinh được tôn trọng tính cách và cá tính sáng tạo, được khích lệ có những suy nghĩ độc đáo mới lạ, tích cực. Người học được tiếp nhận nhiều ý kiến đánh giá, tranh luận, phản biện có cơ sở, lí lẽ và ngoài giờ học trên lớp, việc học vẫn tiếp tục trong các tình huống thực của đời sống.

1.4 Yêu cầu của hoạt động dạy đọc hiểu các văn bản văn học của chương trình Ngữ Văn 2018 là dạy học học gắn với đặc trưng thể loại. Việc sử dụng phương pháp dạy học hợp đồng không những là hướng đi mới và còn phù hợp và hiệu quả nhất khi sử dụng các thẻ bài tập, nhiệm vụ có đặc điểm thể loại của văn bản văn học. Từ đó mỗi giờ đọc văn sẽ là một “Vòng tròn thảo luận văn chương” có kiến thức lí thuyết được minh họa bằng các dẫn chứng sát thực. Và trong mỗi giờ học, người đọc sẽ chủ động chiếm lĩnh tri thức hình thành kĩ năng, người dạy chỉ tham gia với vai trò hướng dẫn và tổng kết.

Từ thực tế trên, người viết quyết định chọn thực hiện đề tài “ Vận dụng phương pháp dạy học hợp đồng trong hoạt động hình thành kiến thức và hoạt động vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản văn học trong sách Ngữ Văn 10 (sách Kết nối tri thức với cuộc sống). Lựa chọn đề tài này, người viết mong muốn thay đổi phương pháp dạy học phù hợp với chương trình Ngữ Văn 2018, góp phần phát triển năng lực và phẩm chất cho người học hướng tới mục tiêu tạo ra những công dân toàn câu tự tin, năng động, sáng tạo.

2. Điểm mới, đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm

- Về mặt lí luận, sáng kiến hệ thống hóa phương pháp dạy học hợp đồng: khái niệm, các bước, các thẻ bài tập, nhiệm vụ.

- Về mặt thực tiễn, sáng kiến xây dựng hệ thống bài tập, hợp đồng học tập gắn với đặc trưng thể loại của văn bản văn học.

- Đề xuất một số cách thức tổ chức giờ đọc hiểu văn bản, làm phong phú thêm kiến thức lí luận và thực tiễn dạy học bộ môn Ngữ Văn đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông 2018.

- Sáng kiến giúp tôi và đồng nghiệp vận dụng trong quá trình dạy học thực tế, cũng là kho tài liệu số hữu ích cho học sinh và giáo viên.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến sáng kiến: dạy học hợp đồng, văn bản văn học, hoạt động hình thành kiến thức và hoạt động vận dụng.

- Xây dựng các thẻ bài tập, nhiệm vụ, hợp đồng học tập để dạy đọc hiểu văn bản văn học. Nghiên cứu các giải pháp áp dụng trong dạy đọc hiểu văn bản văn học.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính phù hợp và hiệu quả của đề tài.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Văn bản văn học trong chương trình Ngữ Văn 10 (Sách Kết nối Tri thức với cuộc sống), phương pháp dạy học hợp đồng, hoạt động hình thành kiến thức và vận dụng.

- Phạm vi kiến thức: các văn bản thơ, truyện trong chương trình Ngữ Văn 10 ( bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: HS lớp 10 tại trường THPT Yên Thành 3

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết

- Phương pháp phân loại, phương pháp quan sát và điều tra, phương pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp thực nghiệm.

.....................

Mời bạn đọc tham khảo thêm các bài viết hữu ích khác tại mục Dành cho giáo viên thuộc chuyên mục Tài liệu nhé.

Đánh giá bài viết
1 793
0 Bình luận
Sắp xếp theo