Phân tích một tác phẩm truyện mà em thấy sâu sắc nhất trong sách Ngữ văn 8

Phân tích một tác phẩm truyện mà em thấy sâu sắc nhất trong sách Ngữ văn 8 là nội dung đề số 2 trang 127 SGK văn 8 Cánh Diều tập 2 bài Tự đánh giá cuối học kì 2. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến các em một số mẫu phân tích một tác phẩm truyện mà em thấy sâu sắc trong chương trình Ngữ văn 8 để các em có thêm ngữ liệu tham khảo khi viết các bài văn phân tích một tác phẩm truyện lớp 8.

Phân tích một tác phẩm truyện mà em thấy sâu sắc nhất

Phân tích một tác phẩm truyện mà em thấy sâu sắc nhất - Người thầy đầu tiên

Nhà văn người Cư-rơ-gư-dơ-xtan Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp là một cây bút quen thuộc với độc giả Việt Nam. Các sáng tác của ông thường viết về cuộc sống khắc nghiệt ở quê hương nhưng rất giàu chất thơ. Nổi bật trong số đó phải kể đến truyện "Người thầy đầu tiên". Tác phẩm là lời ngợi ca chân thành về tình cảm cao đẹp giữa thầy Đuy-sen và cô bé An-tư-nai.

Đoạn trích "Người thầy đầu tiên" đã mở ra những câu chuyện xoay quanh thầy Đuy-sen và các em nhỏ làng Cư-rơ-gư-dơ-xtan. Đuy-sen là người thầy đầu tiên mang tri thức, con chữ đến với vùng quê miền núi nghèo nàn, lạc hậu. Với tấm lòng nhiệt huyết, tràn đầy yêu thương, thầy vẫn ngày ngày cố gắng thay đổi tương lai của học trò. Để rồi, sau này, cô học trò bé bỏng An-tư-nai đã trở thành một viện sĩ. Như vậy, qua tác phẩm, nhà văn Ai-tơ-ma-tốp muốn ngợi ca tình cảm thầy trò cao đẹp, thiêng liêng.

Trước hết, tình cảm ấy được dựng xây bởi chính con người giàu tình thương yêu như thầy Đuy-sen. Là người thầy đầu tiên đến với làng, Đuy-sen đã tự tay sửa sang lại trường lớp. Thầy làm tất thảy mọi việc, từ đắp lò sưởi đến bắc ống khói trên mái nhà. Lo sợ lớp học sẽ rét buốt khi vào đông, thầy còn tính tới chuyện dự trữ củi để sưởi ấm, trải rơm ở sàn nhà. Giây phút thấy các em nhỏ phải mang những bao ki-giắc to hơn cả người, thầy Đuy-sen đã nhẹ nhàng an ủi, hỏi thăm. Tình thương cao cả, rộng lớn ở thầy giống như ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn học trò. Và rồi, ngọn lửa ấy trở thành sức mạnh, tiếp sức chúng đến trường. Chứng kiến cảnh mấy em nhỏ chịu đau vì chân lạnh cóng, thầy Đuy-sen không ngại gian khổ, sẵn sàng bế từng em qua dòng nước buốt giá. Giữa tiết trời mùa đông, thầy vẫn bì bõm lội ở suối nước, lấy đá cùng tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ. Thầy luôn mong muốn học trò sẽ đến trường an toàn. Đứng trước việc làm xấu xí, ngỗ ngược cùng lời nói lỗ mãng của bọn nhà giàu, thầy Đuy-sen chẳng để tâm chút nào. Thay vào đó, thầy lo học trò buồn bã nên "nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự". Không chỉ vậy, khi An-tư-nai bị chuột rút ở suối, thầy Đuy-sen đã cẩn thận đưa cô bé lên bờ và chăm sóc tỉ mỉ "Thầy hết xoa chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi". Có thể nói, thầy Đuy-sen là người có trái tim tràn đầy tình thương, luôn tận tình, tâm huyết trong mọi việc. Lúc nào thầy cũng khao khát học trò sẽ vươn xa, bay cao tới những miền tri thức mới lạ. Thầy mang trong mình bao ý nghĩ tốt lành về tương lai của chúng. Dường như, trong hành trình làm nghề giáo, thầy chỉ có một ước muốn “Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào”.

Tình cảm thầy trò quý giá còn được nhà văn Ai-tơ-ma-tốp phác họa qua tấm lòng biết ơn, trân trọng ở An-tư-nai đối với công ơn to lớn của thầy Đuy-sen. Trước những hành động, ý nghĩ tốt đẹp từ thầy, cô bé cảm thấy vô cùng xúc động. Cô bé và các bạn chưa bao giờ ngừng yêu mến, kính trọng thầy vì "tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi". Sau này, khi trở thành bà viện sĩ, An-tư-nai vẫn khắc ghi công ơn dạy bảo của người thầy đầu tiên. Vì thế, An-tư-nai đã viết một bức thư cho người họa sĩ, nhờ anh ta tìm cách truyền đi câu chuyện tốt đẹp về thầy. An-tư-nai hi vọng câu chuyện ấy sẽ "không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này".

Tình thầy trò cao đẹp của thầy Đuy-sen và An-tư-nai cũng để lại niềm xúc động cho người họa sĩ. Không giống như An-tư-nai - người trực tiếp trải qua mọi chuyện, anh họa sĩ chỉ đơn thuần được nghe kể lại. Thế nhưng, khi biết toàn bộ câu chuyện, anh cũng không khỏi "mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền". Chính bởi vậy, với khát khao câu chuyện sẽ được lan tỏa tới tất cả mọi người, anh họa sĩ đã cảm thấy băn khoăn, lo lắng. Anh rối bời trong việc tìm ý tưởng cho bức vẽ. Anh tự dặn mình bằng mọi cách phải nghĩ ra thứ gì đó liên quan đến thầy "hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc". Để rồi, các ý tưởng về bức vẽ lần lượt ra đời. Anh nghĩ tới việc vẽ hai cây phong của thầy và An-tư-nai. Anh cũng nghĩ tới bức tranh "Người thầy đầu tiên", tái hiện lại khoảnh khắc "Đuy-sen bế trẻ con qua con suối và cạnh đấy, những con ngựa no nê hung dữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua chế giễu ông...". Và trong một giây phút bất chợt, người họa sĩ còn nảy ra ý tưởng vẽ cảnh thầy Đuy-sen tiễn An-tư-nai lên tỉnh học tập.

Để làm nổi bật chủ đề tác phẩm, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp quan trọng của nghệ thuật. Trước hết, tác giả rất khéo léo trong việc sử dụng nhiều điểm nhìn. Lời kể chuyện đan xen của người họa sĩ và An-tư-nai đã giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, chân thực. Tiếp đến, đặc sắc về hình thức nghệ thuật còn đến từ nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã làm nổi bật đặc điểm của các nhân vật thông qua ngôn ngữ đối thoại, hành động. Từ đó, giúp bộc lộ phẩm chất, tính cách ở nhân vật. Ngoài ra, ngôn ngữ giàu chất thơ, nhẹ nhàng, sâu lắng cũng làm tác phẩm trở nên gần gũi, dễ in dấu ấn trong lòng bạn đọc.

Qua đoạn trích "Người thầy đầu tiên", nhà văn Ai-tơ-ma-tốp khéo léo gửi gắm niềm trân trọng, yêu mến, ngợi ca tới những thầy cô đang miệt mài chèo lái con thuyền tri thức. Đồng thời, ông còn thể hiện tấm lòng thương yêu, nâng niu những số phận bất hạnh biết vươn lên trong cuộc sống như cô bé An-tư-nai. Cảm ơn ngòi bút tài hoa của tác giả đã khắc họa thật chân thực câu chuyện cảm động về tình thầy trò.

Theo dòng thời gian, "Người thầy đầu tiên" vẫn luôn là tác phẩm được nhiều bạn đọc yêu thức. Khép lại trang sách, ta sẽ không thể quên hình bóng người thầy tận tụy Đuy sen cùng cô học trò lương thiện An-tư-nai.

Phân tích một tác phẩm truyện mà em thấy sâu sắc nhất - Lão Hạc

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong long người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.

Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân.

Tác giả lựa chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hang xóm của lão Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn. Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố.

Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết.

Cuộc đời của lão Hạc thật là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa. Lão thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho con.

Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác, chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt, cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm. Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nỡ, bao nhiêu lần mà lão không bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau.

Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tý. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.

Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.

Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con trai duy nhất.

Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một người cha yêu thương con hết mực và là một ngươi suy nghĩ quá thấu đáo, chu toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.

Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói". Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm ngùi than thở: "Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ối…toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”. Thực sự đây là một đoạn hội thoại có giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.

Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người. Cái chết đó đã phản ảnh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm đó.

Ông giáo đã có suy nghĩ ai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.

Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp tinh thần lấp lánh trong con người họ.

Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng

O’Hen-ri là nhà văn Mĩ (1862-1910). Thuở nhỏ, vì nhà nghèo nên ông không được học hành đến nơi đến chốn. Năm mười lăm tuổi, ông đã phải thôi học, đến phụ việc tại hiệu thuốc của người chú ruột. Thời trai trẻ, ông trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như nhân viên kế toán, thủ quỹ ngân hàng, bốc vác… O’Hen-ri chuyên viết truyện ngắn, nổi tiếng với những tác phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo, tình yêu thương những con người nghèo khổ. Nhiều truyện ngắn đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc, trong đó có truyện Chiếc lá cuối cùng. Tác phẩm thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự sống, khẳng định giá trị nhân văn cao cả của con người.

Bối cảnh của truyện là ngôi nhà trọ ba tầng cũ kĩ, tồi tàn với những căn phòng cho thuê giá rẻ trong một khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn. Thời điểm xảy ra sự việc là tháng mười một, khi những cơn gió lạnh mùa đông tràn về. Hai nữ họa sĩ trẻ là Xiu và Giôn-xi thuê chung một căn phòng nhỏ trên tầng thượng sát mái. Cụ Bơ-men là một họa sĩ nghèo sống ở tầng hầm. Giôn-xi bị sưng phổi nặng. Vì nghèo không có tiền thuốc thang nên cô buồn bã không thiết sống nữa. Mặc cho Xiu chăm sóc, động viên, Giôn-xi cứ nằm quay mặt ra phía cửa sổ, nhìn những chiếc lá thường xuân rụng dần từng chiếc một. Mỗi lần có chiếc lá rơi, cô lại cảm thấy mình gần cái chết thêm một chút. Trước khi trời tối, Giôn-xi đếm còn lại bốn chiếc lá và tự nhủ sau khi chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì mình cũng lìa đời. Nghe Xiu kể chuyện ấy, cụ Bơ-men bực mình nghĩ rằng tại sao trên đời này lại có người muốn chết chỉ vì một cây dây leo nào đó rụng hết lá?! Rồi Xiu đưa cụ Bơ-men lên gác…

Đoạn trích này tiếp nối câu chuyện trên, kể về việc vì thương Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã thức trắng đêm để vẽ chiếc lá thường xuân lên tường. Sáng hôm sau thức giấc, Giôn-xi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng vẫn còn bám chặt vào cây. Cô như được tiếp thêm sức mạnh và thoát qua cơn hiểm nghèo. Nhưng cũng vì vẽ chiếc lá trong đêm đông giá buốt nên cụ Bơ-men đã bị cảm lạnh rồi qua đời chi sau hai ngày. Qua đoạn trích, tác giả bày tỏ thái độ trân trọng, cảm phục trước tình yêu thương chân thành và lòng vị tha cao cả của những con người trong cảnh nghèo khổ.

Câu chuyện mà Ô Hen ri mang đến đầy hấp dẫn bằng nghệ thuật viết truyện đêu luyện mà trước tiên đó còn là cách xây dựng nhân vật độc đáo, ấn tượng thông qua các yếu tố miêu tả cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật ấy. Ngòi bút văn xuôi đương đại nổi tiếng nước Mĩ - O Hen-ri đã để ba nhân vật trong truyện nhắn nhủ với chúng ta những điều đáng quý về tình yêu cuộc sống và trân trọng những tình cảm đã làm nên cuộc sống tươi đẹp.

Người đọc bắt gặp một cô Giôn-xi ngây thơ đến lạ lùng khi cô cho rằng sẽ buông xuôi tất cả và lìa cõi đời này vào lúc chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Bệnh viêm phổi hành hạ và sự nghèo khó đã dập tắt niềm tin và ý chí muốn sống trong lòng cô gái trẻ. Khi bị bệnh, cô đã vô cùng tuyệt vọng: “mở to cặp mắt thẫn thờ và thều thào ra lệnh”. Những từ láy tượng hình tượng thanh được nà văn mô tả thể hiện sự yếu ớt, cạn kiệt của Giôn-xi. Cô luôn suy nghĩ rằng khi chiếc lá cuối cùng rụng thì cô sẽ chế. Trong cô tinh thần suy sụp, mất hết niềm tin, nghị lực, tâm trạng buông xuôi, tuyệt vọng. Nhưng rồi chiếc lá vô tri đó đã trở thành niềm hi vọng của Giôn-xi khi mà cô còn giữ được “lửa” trong trái tim mình, khiến cô tìm lại được tình yêu cuộc sống với những mơ ước, khát khao. Khi ấy, Giôn-xi tin vào cuộc đời bằng một tình yêu cuộc sống mãnh liệt đã giúp cô vượt qua lưỡi hái tử thần. Cô tin rằng chiếc lá sẽ mãi còn đó, mãi xanh tươi như sự sống bất diệt, cô tin rằng trái tim mình cũng sẽ đập mãi, tâm hồn mình cũng sẽ trẻ mãi và tràn đầy ước mơ về bức kiệt tác “vịnh Na-plơ”. Cô tự thấy mình là hư. Muốn ăn cháo, uống nước, muốn soi gương và muốn vẽ. Từ đây tâm trạng hoàn toàn thay đổi, cô thoát khỏi cái chết, có tình yêu cuộc sống, yêu nghệ thuật. Chính sự dai dẳng của chiếc lá chính là nguồn gốc hồi sinh tâm trạng của Giôn-xi. Như vậy, sự sống của chiếc lá đã thăng hoa tình cảm thiết tha yêu cuộc sống trong trái tim cô gái yếu đuối này. Con người cần phải có niềm tin, nghị lực để chiến thắng bệnh tật và vượt lên chính mình

Bằng các yếu tố miêu tả cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật, một lần nữa hình ảnh nhân vật - cô bạn thân của Giôn - xi là Xiu hiện lên cũng thật rõ nét. Bệnh tật, sự tuyệt vọng của Giôn-xi dường như hành hạ Xiu về cả vật chất lẫn tinh thần. Cuộc sống vốn trước đây đã rất khó khăn giờ chỉ còn mình cô gánh vác, lại cần có tiền thuốc thang chữa bệnh cho bạn. Là một cô gái có tấm lòng nhân hậu, đức hi sinh, có sự đồng cảm sâu sắc và yêu thương bạn như người thân ruột thịt, cô lo lắng, luôn động viên, chăm sóc Giôn-xi. Xiu không muốn kéo mành lên để bạn nhìn thấy sự sống níu kéo từng giây từng phút trên chiếc lá còn sót lại nhưng cô khó có đủ ánh sáng mà vẽ tranh, lấy tiền chữa trị cho Giôn-xi khi cửa so là nguồn sáng không phải trả tiền duy nhất đối với những người nghèo khổ như cô. Xiu day dứt, băn khoăn giữa hai sự lựa chọn vô cùng khó khăn. Xiu sợ khi chỉ còn 1 chiếc là thường xuân cuối cùng còn bám lại trên tường. Khi Giôn-xi bảo kéo màn,” cô làm theo cô làm theo một cách chán nản”. Chính trong những lúc thế này ta mới thấy hết được cái tình, cái nghĩa mà Xiu dành cho Giôn-xi, chiếc lá một lần nữa lại chứa nặng nỗi lo lắng khôn nguôi của cô gái trẻ, nó nhân lên trong cô sức mạnh của nghị lực, thăng hoa trong trái tim cô một tình yêu vô bờ bến với người bạn trẻ. Ngoài ra ở nhân vật này khi Xiu kể về cái chết của cụ Bơ-men cho Giôn – xi bằng một giọng cảm động và chân thành còn có cả sự biết ơn khôn xiết. Ở đó thể hiện sự kính trọng, thương nhớ, khâm phục cụ Bơ-men biết nhường nào.

Nhà văn đã dành trọn cảm xúc tình cảm và cả ngòi bút tài hoa để khắc hoạ hình ảnh cụ Bơ-men trong tác phẩm. Là một họa sĩ già, nghèo, vô danh, suốt bốn mươi năm, cụ ấp ủ ý định sẽ vẽ một bức tranh tuyệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu công việc. Giống như chị Xiu, cụ Bơ-men rất quan tâm đến tình cảnh tội nghiệp của Giôn-xi. Biết cô gái đang tuyệt vọng, muốn tìm đến cái chết để giải thoát, cụ đã nhờ chị Xiu đưa lên gác để thăm. Hai người sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì vì thấy những chiếc lá thường xuân đang theo nhau rụng, chỉ còn một vài chiếc. Có lẽ trong thâm tâm cả hai đều lo lắng cho số phận của Giôn-xi. Riêng cụ Bơ-men, chắc là cụ đang nghĩ đến cách vẽ chiếc lá cuối cùng để đem lại cho Giôn-xi niềm hi vọng.

Tình thương và lòng trắc ẩn đã khơi dậy trong tâm hồn cụ Bơ-men một ý tưởng sáng tạo tuyệt vời. Cụ lẳng lặng làm theo lời trái tim mách bảo, không hé răng cho ai biết ý định của mình. Nhà văn không tiết lộ ngay việc cụ Bơ-men vẽ chiếc lá trong đêm mưa tuyết ra sao mà đợi đến những dòng cuối cùng của truyện mới cho mọi người biết qua lời của chị Xiu. Cách kể truyện như thế tạo được bất ngờ và hứng thú cho người đọc. Người đọc thực sự cảm động trước hình ảnh một cụ già 60 tuổi run rẩy trong đêm mưa to gió lớn, tuyết ngập khắp đường, một tay bám vào chiếc thang đã mục, tay kia vừa cầm đèn bão vừa cầm bảng màu với hai sắc xanh vàng và bút vẽ để leo lên tường nơi cửa sổ phòng Giôn-xi nhìn ra. Bàn tay già nua miệt mài vẽ. Bằng nét vẽ tài hoa và chân thực hòa vào cùng với tình thương yêu cháy bỏng của “người cha”, cụ đã đem đến cho chiếc lá thường xuân bình thường một sức sống bất tử. Để đáp lại đức hi sinh cao cả của người hoạ sĩ già, chiếc lá đã trở thành kiệt tác của cuộc đời cụ Bơ-men, thể hiện hoàn hảo và sinh động nhất tình yêu thương lớn lao, cao cả. Điều mà hơn 40 năm theo đuổi nghệ thuật không lúc nào trái tim cụ không ngừng hướng tới với một mong ước ráo riết, nồng nàn. (.)

Chiếc lá cụ Bơ-men vẽ lên bức tường gạch đối diện với cửa sổ căn gác nhỏ của Giôn-xi đúng là một kiệt tác vì trước hết trông nó giống y như thật: Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ, khiến Giôn-xi tưởng đấy chính là chiếc lá cuối cùng. Quan trọng hơn cả là chiếc lá do cụ Bơ-men vẽ đã đem lại sự sống cho Giôn-xi. Chiếc lá không phải chỉ được vẽ bằng bút lông, bột màu, mà bằng cả tình cảm chân thành và lòng vị tha cùng đức hy sinh cao cả của cụ Bơ-men. Người hoạ sĩ già đã quên cả tuổi tác lẫn sức khỏe của mình để cố gắng nhen nhóm lại hi vọng sống trong lòng cô gái trẻ đáng thương.

Không chỉ xây dựng nhật vật hấp dẫn, truyện ngắn còn đầy kịch tính với cách tạo tình huống bất ngờ, đảo ngược tình thế hai lần giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa câu chuyện. Đây cũng là đặc sắc nghệ thuật trong nhiều sáng tác của O Hen-ri, tạo dấu ấn riêng của nhà văn. Tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” quả thực là một câu chuyện hấp dẫn trong nghệ thuật thể hiện. Tác giả đã khéo léo thể hiện điều đó qua cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo đem đến cho người đọc những bất ngờ (hai lần đảo ngược tình thế). Đó là khi Giôn-xi ốm nặng tưởng sẽ không qua khỏi nhưng cuối cùng lại bình phục. Còn cụ Bơ-men đang khoẻ mạnh, bình thường lại nhiễm bệnh sưng phổi và qua đời trong âm thầm, lặng lẽ. Hai lần đảo ngược tình huống gây bất ngờ cho các nhân vật trong truyện và độc giả. Hai lần đảo ngược tình huống đều liên quan đến căn bệnh sưng phổi và chiếc lá cuối cùng. Cụ Bơ-men vẽ chiếc lá trong đêm mưa tuyết nên chết vì bị sưng phổi. Có thể nói gắn với nghệ thuật đảo ngược tình huống là sự mâu thuẫn ẩn chứa trong câu chuyện. Một người nhìn thấy chiếc lá cuối cùng mà sống lại, một người vì vẽ chiếc lá cuối cùng mà từ giã cõi đời. Chiếc lá cuối cùng vì cứu sống một sinh mạng mà tiễn đưa một sinh mạng khác về cõi vĩnh hằng. Nghệ thuật cứu sống con người nhưng ngược lại, con người cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt thậm chí hi sinh cả mạng sống cho nghệ thuật chân chính. Cụ Bơ-men trong suốt 40 năm cầm bút, luôn khao khát có được một kiệt tác nghệ thuật nhưng không thể đạt được, vậy mà chỉ trong một đêm mưa gió bão bùng đã sáng tạo ra một kiệt tác nghệ thuật để đời. Sự đối lập tưởng chừng mâu thuẫn ấy lại hết sức có lý. Nó nảy sinh, xuất phát và quy tụ vào hai chữ Tình người. Chỉ có tình người mới là động lực mạnh mẽ nhất cho sự tồn tại chân chính và khả năng cứu rỗi của nghệ thuật.

Đặc biệt, truyện còn để lại trong lòng người đọc bao thấm thía sâu sắc từ hình tượng chiếc lá cuối cùng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng. Chiếc lá dù chỉ là một chi tiết rất nhỏ thôi nhưng được trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm. Vừa là biểu tượng của tình thương, vừa là biểu tượng của đức hy sinh cao cả… Chiếc lá ấy có thể là chiếc lá thực sự còn sót lại trên cây thường xuân. Nó đã dũng cảm bám chắc vào cuống lá, mặc cho mưa tuôn bão thổi, mặc cho gió lạnh hoành hành. Chiếc lá bị vùi dập dưới cơn mưa mà vẫn kiên cường, trút hết sức sống còn lại cố níu cành, để làm mẫu vẽ cho một con người cao cả, để một chiếc lá khác trỗi dậy sức sống mới. Khi chiếc lá cuối cùng trên cây vừa lìa cành cũng là lúc một màu xanh từ một chiếc lá khác rung rinh. Chiếc lá ấy chính là tác phẩm hội họa, là kiệt tác của cụ Bơ-men trong đêm mưa rét. Chiếc lá ấy đã trở thành bức thông điệp về tình người và biết bao bài học khác. Như vậy, rõ ràng, “Chiếc lá cuối cùng” là một truyện ngắn hấp dẫn thực sự và có sức sống trong tâm hồn bạn đọc.Chiếc lá dù vốn tưởng chẳng có gì nhưng lại là chìa khoá, là câu cầu nối ý tưởng, là bụi vàng của tác phẩm, là biểu tượng của tình thương, đức hy sinh cao cả… Chiếc lá ấy là tác phẩm hội họa, là kiệt tác của cụ Bơ-men trong đêm mưa rét. Tuổi cao sức yếu mà lại dám đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt. Trong một phút xuất thần, bằng tình yêu thương vô bờ đối với Giôn-xi, bằng sự quyết tâm mãnh liệt để cứu sống một cô gái, cụ Bơ-men đã vẽ thành công tác phẩm, thỏa nguyện những ước mơ ám ảnh cả một đời. Cái chết của cụ đến một cách bất ngờ và gây đau thương cho cả hai cô hoạ sĩ trẻ. Chính tình yêu thương của cụ đã mang lại sức sống, hồi sinh cho Giôn-xi.

Có thể thấy yêu thương, gắn bó thân thiết nhưng cũng rất nóng bỏng kịch tính là tất cả những gì ta có thể cảm nhận được ở truyện Chiếc lá cuối cùng của nhà văn O Hen-ri. Một câu chuyện chân thực, đẹp đẽ về “Tình đời trong chiếc lá”, phải chăng đây chính là điều nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình. Tác phẩm chứa chan ý vị nhân văn cao cả mà nhà văn O Hen-ri đã mang đến. Những dư âm của Chiếc lá cuối cùng như còn ngân vang mãi, nâng thêm lên trong mỗi chúng ta khát vọng không cùng sống, và sống có ích, cho người, cho đời bằng chính tình yêu thương, trái tim của mình. Đồng thời câu chuyện lồng trong ý nghĩa của tình đời còn mang lại bài học về ý chí và nghị lực của con người vượt qua khó khăn sóng gió của cuộc sống mà mỗi người bước qua./.

Mời các em học sinh truy cập group Bạn Đã Học Bài Chưa? để đặt câu hỏi và chia sẻ những kiến thức học tập chất lượng nhé. Group là cơ hội để các bạn học sinh trên mọi miền đất nước cùng giao lưu, trao đổi học tập, kết bạn, hướng dẫn nhau kinh nghiệm học,...

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 33
0 Bình luận
Sắp xếp theo