Phân tích Bạch Đằng hải khẩu

Bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” được rút từ tập thơ “Ức Trai thi tập” có 105 bài thơ chữ Hán của tác giả Nguyễn Trãi. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bao trùm cảm xúc của bài thơ Bạch Đằng hải khẩu chính là niềm tự hào, cảm xúc lịch sử của tác giả về dòng sông gắn liền với chiến thắng lịch sử lẫy lừng năm xưa. Sau đây là dàn ý phân tích bài thơ Cửa biển Bạch Đằng cùng với bài văn mẫu phân tích Bạch Đằng hải khẩu hay và chi tiết giúp các bạn hiểu rõ hơn về nội dung của tác phẩm.

1. Nội dung văn bản Bạch Đằng hải khẩu

Phân tích bài thơ Cửa biển Bạch Đằng

Vẻ đẹp không gian rộng lớn, kì vĩ của sông Bạch Đằng, nơi đã chứng kiến bao thay đổi vang dội, lịch sử của dân tộc cũng là nơi. Tác giả đứng trước dòng sông và hồi tượng lại những quá khứ, dĩ vãng một thời không khỏi nuối tiếc, xót xa.

2. Dàn ý phân tích Bạch Đằng hải khẩu

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài:

2.1. Phân tích, đánh giá cảm hứng chủ đạo và mạch cảm xúc của tác phẩm:

- Cảm hứng chủ đạo: tình yêu đất nước và niềm tự hào về lịch sử dân tộc.

Mạch cảm xúc: đi từ tự hào đến trăn trở, bâng khuâng.

2.2. Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ được sử dụng:

2.2.1. Niềm tự hào về mảnh đất chiến địa, từng lưu dấu nhiều chiến công hiển hách của cha ông.

a. Không gian rộng lớn, kì vĩ của dòng sông Bạch Đằng:

- Hình ảnh thơ gợi hình, gắn liền với thiên nhiên: "gió bấc", "khí", "cửa biển".

- "Gió bấc thổi trên biển, khí nổi cuồn cuộn":

+ "Gió bấc": từ chỉ thời gian mùa đông.

+ Từ láy "cuồn cuộn" diễn tả chuyển động mạnh mẽ của gió, lớp này nối tiếp lớp khác.

=> Câu thơ diễn tả cảnh biển dữ dội, hùng vĩ.

- Đối lập với sự mênh mông, rộng lớn của biển là hình ảnh cánh buồm nhẹ nhàng lướt qua cửa biển Bạch Đằng. Câu thơ "Kinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng" mang nét thơ mộng, trữ tình với hình ảnh cánh "cánh buồm thơ" và từ ngữ "nhẹ giương".

b. Dấu ấn lịch sử trên con sông Bạch Đằng:

- Núi, sông, bờ bãi hiện lên thông qua các hình ảnh: "cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ", "núi uốn lượn quanh co", "bờ xếp chồng lởm chởm", "cây giáo bị chìm", "chiếc kích bị gãy".

=> Hình ảnh thơ khắc họa địa thế hiểm trở của biển Bạch Đằng.

"Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,/ Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng":
+ "Cá sấu", "cá kình" ẩn dụ cho quân xâm lược kết hợp với từ "bị chặt", "bị mổ" đã diễn tả sự thất bại của quân giặc.

+ Từ "lởm chởm" diễn tả có nhiều mũi nhọn đâm lên, xếp chồng lên nhau. Bờ bãi kéo dài như giáo gươm của giặc bị dân ta đánh chìm, chất đống mà thành.

=> Cửa biển Bạch Đằng vừa mang nét đẹp hùng vĩ vừa là nơi ghi dấu những chiến tích oai hùng của dân tộc.

c. Chiến tích của các vị anh hùng dân tộc trên con sông Bạch Đằng:

- Câu thơ "Quan hà bách nhị do thiên thiết":

+ Tác giả dẫn chữ trong "Sử kí" của Tư Mã Thiên nhằm khẳng định sự tài ba, mưu lược của các vị anh hùng khi đã biết dựa vào địa hình núi sông hiểm trở để lập nên kì tích lớn.

- "Hào kiệt công danh thử địa tằng": câu thơ nhắc đến các anh hùng dân tộc từng lập nên kì tích trên sông Bạch Đằng: Ngô Quyền đuổi đánh quân Nam Hán năm 938 và cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1288 của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.

=> Cảm xúc tự hào về lịch sử vẻ vang của dân tộc.

2.2.2. Sự suy ngẫm của tác giả về lịch sử:

- "Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ":

+ "Ôi" là từ cảm thán diễn tả sự tiếc nuối của tác giả khi nhìn lại những việc đã qua.

- "Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng": đứng trước khung cảnh thiên nhiên nơi cửa biển Bạch Đằng, tác giả suy tư về việc cũ, về những chiến công hiển hách của anh hùng mà lòng bâng khuâng, không thể diễn tả hết bằng lời.

2.3. Đánh giá tác phẩm:

2.3.1. Về nội dung:

- Bài thơ thể hiện niềm tự hào của tác giả Nguyễn Trãi về con sông Bạch Đằng - nơi lưu dấu nhiều chiến tích vang dội của cha ông.

- Đồng thời ca ngợi những vị anh hùng dân tộc đã có công với đất nước.

2.3.2. Về nghệ thuật:

- Phép đối, phép đảo đặc sắc.

- Từ ngữ giàu sức gợi hình.

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị của tác phẩm.

3. Phân tích Bạch Đằng hải khẩu

Nguyễn Trãi được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới bởi tài năng thiên phú cùng những đóng góp lớn lao. Là một nhà văn hóa kiệt xuất và lỗi lạc, những trang văn của ông đã góp phần tô đậm lịch sử hào hùng, vẻ vang của đất nước. Bài "Bạch Đằng hải khẩu" ("Cửa biển Bạch Đằng") đã thể hiện niềm thương cảm của tác giả đối với chiến công lịch sử và các vị anh hùng xưa.

Sau vụ án "Lệ chi viên", các tác phẩm của Nguyễn Trãi còn sót lại không nhiều. "Bạch Đằng hải khẩu" là một trong những thi phẩm được nhà thơ viết bằng chữ Hán. Lấy cảm hứng từ trang sử hào hùng của dân tộc lịch sử, Nguyễn Trãi thể hiện niềm tự hào và tình yêu đất nước sâu sắc. Cảm xúc trong bài thơ đi từ hãnh diện đến trăn trở, bâng khuâng.

Trong sáu dòng đầu tiên, thi nhân bộc lộ sự tự hào về mảnh đất chiến địa, từng lưu dấu nhiều chiến công hiển hách của cha ông. Ở hai câu đầu, không gian rộng lớn, kì vĩ của dòng sông Bạch Đằng được khắc họa qua các hình ảnh gắn liền với thiên nhiên: "gió bấc", "khí", "cửa biển". "Gió bấc" chính là cách gọi của dân gian, dùng để chỉ thời tiết mưa lạnh vào mùa đông. Trong khi đó, từ láy "cuồn cuộn" lại diễn tả chuyển động mạnh mẽ của gió. Khí trời cứ ào ào, lớp này tiếp nối lớp khác. Như vậy, câu thơ đã diễn tả được sự hùng vĩ, dữ dội của cửa biển Bạch Đằng lúc vào đông. Đối lập với sự mênh mông, rộng lớn của biển là hình ảnh cánh buồm nhẹ nhàng lướt qua. Câu thơ "Kinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng" mang nét thơ mộng, trữ tình với hình ảnh cánh "cánh buồm thơ" và từ ngữ "nhẹ giương".

Trên con thuyền, nhân vật trữ tình đưa mắt quan sát cảnh vật xung quanh. Cảnh núi, sông, bờ bãi hiện lên thông qua các hình ảnh: "cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ", "núi uốn lượn quanh co", "bờ xếp chồng lởm chởm", "cây giáo bị chìm", "chiếc kích bị gãy". Với lối đảo ngữ và so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả địa hình hiểm trở nơi Bạch Đằng. Từng ngọn núi uốn lượn quanh co như con cá sấu, cá kình bị chặt ra làm nhiều khúc. Còn bờ bãi thì xếp chồng lên nhau, dày đặc. Tuy nhiên, ý thơ không chỉ đơn thuần khắc họa địa thế mà còn nhắc về mảnh đất chiến địa. Thông thường, từ "kình ngạc" dùng để chỉ hai loài vật dữ sống ở nước là cá voi và cá sấu. Nhưng trong thơ ca, "từ kình ngạc" lại ẩn dụ cho giặc dữ. Hình ảnh "cá sấu", "cá kình" kết hợp với từ "bị chặt", "bị mổ" đã nhấn mạnh vào sự thất bại của quân giặc. Ở dòng tiếp theo "Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng", từ láy "lởm chởm" diễn tả có nhiều mũi nhọn đâm lên, xếp chồng lên nhau. Bờ bãi kéo dài như giáo gươm của giặc bị dân ta đánh chìm, chất đống mà thành. Cửa biển Bạch Đằng lúc này vừa mang nét đẹp hùng vĩ vừa là nơi ghi dấu những chiến tích oai hùng của dân tộc.

Đến với câu năm và sáu, tác giả gợi nhắc về chiến tích của các vị anh hùng dân tộc trên con sông Bạch Đằng. Trong câu thơ "Quan hà bách nhị do thiên thiết", thi nhân dẫn chữ trong "Sử kí" của Tư Mã Thiên nhằm khẳng định sự tài ba, mưu lược của các vị anh hùng khi đã biết dựa vào địa hình núi sông hiểm trở để lập nên kì tích lớn. Tiếp đến, ông khẳng định và nhắc đến các anh hùng dân tộc từng lập nên chiến công trên sông Bạch Đằng. Đó chính là hình ảnh Ngô Quyền đuổi đánh quân Nam Hán năm 938. Hay còn là cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông năm 1288 của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Hai câu thơ đã cho thấy cảm xúc tự hào của Nguyễn Trãi về những trang sử hào hùng, lừng lẫy.

Ở hai câu cuối cùng, người đọc sẽ thấy được sự biến chuyển trong cảm xúc của nhà thơ. Hai câu thơ mang nặng suy tư, suy ngẫm của nhân vật trữ tình về lịch sử, thế sự. Từ cảm thán "ôi" ở câu thơ "Việc cũ ngoái đầu nhìn lại, ôi đã qua rồi" chính là sự tiếc nuối của tác giả khi nhìn lại những việc đã qua. Bây giờ, tất cả mọi thứ chỉ còn là quá khứ, thuộc về một thời xa xôi. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên nơi cửa biển Bạch Đằng, tác giả suy tư về việc cũ, về những chiến công hiển hách của anh hùng mà lòng trí bâng khuâng, không thể diễn tả hết bằng lời "Tới bên dòng ngắm cảnh, ý khôn nói xiết".

Với thể thơ thất ngôn bát cú, phép đối, phép đảo đặc sắc, từ ngữ giàu sức gợi hình cùng sự kết hợp tài tình giữa các yếu tố miêu tả, tự sự, nghị luận, Nguyễn Trãi muốn ca ngợi những vị anh hùng dân tộc đã có công với đất nước. Bài thơ là niềm tự hào của tác giả về con sông Bạch Đằng - nơi lưu dấu nhiều chiến tích vang dội.

Là một tài năng lỗi lạc hiếm có, Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm có giá trị. Bài thơ là sự kết tinh của một tư tưởng tiến bộ và tấm lòng "yêu nước, thương dân", "trung quân ái quốc". Chắc chắn "Bạch Đằng hải khẩu" sẽ luôn sống mãi theo dòng chảy của thời gian.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 12.450
0 Bình luận
Sắp xếp theo