Soạn bài Nói và nghe lớp 10 trang 67 Kết nối

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ là nội dung bài Nói và nghe trang 67 sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 Kết nối tri thức. Trong bài học này, các em sẽ được nêu lên các quan điểm cá nhân về vấn đề thuyết trình để thuyết phục người nghe cũng như gợi mở ra các vấn đề thảo luận. Sau đây là nội dung mẫu soạn bài Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ trang 67. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chuẩn bị nói

* Đề tài: Giới thiệu bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.

* Tìm ý và sắp xếp:

- Bài thơ là một bức tranh mùa xuân nơi thôn dã, tất cả đều đậm vẻ xuân, xuân trong cảnh vật và xuân trong lòng người.

- Dấu hiệu báo xuân sang: Làn nắng ửng; Khói mơ; Mái nhà tranh bên giàn thiên lý. → Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

- Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân: Làn mưa xuân tưới thêm sức sống; Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”; Niềm vui của con người khi xuân đến.

- Ngôn ngữ kết tinh với tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một ” mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Chuẩn bị nghe

Một số lưu ý khi nghe người khác nói:

- Chú ý lắng nghe, ghi chép;

- Đưa ra những câu hỏi cần giải đáp.

Thực hành Nói và nghe trang 67 Ngữ văn 10 KNTT

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ lớp 10

Kính chào cô và các bạn, sau đây, em xin trình bày bài nói: "Giới thiệu, đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử.

Mùa xuân trong thơ là một đề tài không còn xa lạ với tất cả chúng ta. Trong tất cả các bài thơ viết về mùa xuân, bạn thích bài thơ nào nhất? Với mình, bài thơ "Mùa xuân chín" là bài thơ mình cảm thấy ấn tượng nhất. Hiện lên trên tác phẩm là bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Thưa cô vào các bạn, sự kết hợp giữa động từ trạng thái "chín" với danh từ "mùa xuân" đã gợi ra trong nhan đề liên tưởng về mùa xuân đang vào giai đoạn tràn đầy sức sống nhất. Đồng thời, thể hiện sự tiếc nuối của thi nhân trước cảnh đẹp đang dần trôi qua, không thể tồn tại vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.

Khi tìm hiểu bài thơ em nhận thấy hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ đã góp phần thể hiện mạch thơ.

Thứ nhất, hình ảnh thơ giàu sức gợi: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời" đã khắc họa khung cảnh mùa xuân. Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang" được sử dụng để nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Từ láy "sột soạt" kết hợp với đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc"với có tác dụng miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc. Nhịp thơ 2/2/3 được chuyển sang nhịp 4/3 và cách gieo vần "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" cho thấy được không gian rộng lớn.

Thứ hai, thông qua các từ ngữ khơi gợi: "bao cô thôn nữ", "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thì", "ngồi dưới trúc", "khách xa", "chị ấy" ta thấy được sự xuất hiện của hình ảnh con người. Sự thay đổi về cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 khiến cảm xúc bị chùng xuống trong câu thơ " - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi". Dấu gạch ngang đầu câu khiến cho câu thơ giống như một lời nói nhằm bộc lộ sắc thái tiếc nuối tuổi xuân thì của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. Vẻ đẹp và sự ngân vang của tiếng hát đang lan tỏa, hòa mình cùng với thiên nhiên mùa xuân qua biện pháp nhân hóa "tiếng ca" "vắt vẻo" "hổn hển" và được so sánh với "lời của nước mây". Từ láy "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thĩ" tạo ra âm thanh trầm bổng khác nhau, lúc thì nhỏ nhẹ, thiết tha, lúc thì dồn dập, gấp gáp. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.

Thứ ba, khổ thơ cuối đã thể hiện rõ nét tâm trạng của nhân vật trữ tình - "khách xa". Cảm xúc lâng lâng buồn xen lẫn chút tiếc nuối ngẩn ngơ được diễn tả thông qua từ "bâng khuâng". Từ "sực" đem đến sự bất chợt, ngay tức khắc ở thời điểm đó cho thấy sự biến chuyển đột ngột trong cảm xúc. Nỗi nhớ làng dâng trào, tràn ngập trong suy nghĩ, tâm tưởng của thi nhân.

Câu thơ " - Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?" là câu hỏi nhưng có cần người trả lời đâu. Nó cho thấy sự bâng khuâng trong tâm trạng và nỗi niềm nhớ làng, nhớ quê hương của "khách xa".

Hình ảnh trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nếu như "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính thể hiện một bức tranh thiên nhiên tươi tắn, hồn hậu, làm toát lên sức sống phơi phới  của vạn vật lúc xuân về và cả nét chất phác "chân quê" để bày tỏ tình cảm với người con gái thì "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử lại diễn tả bức tranh mùa xuân ngập tràn sức sống, tròn đầy, rực rỡ nhất từ đó thể hiện tiếc nuối và mặc cảm thân phận của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống. Cách sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi, khắc họa nên một bức tranh xuân sống động, ở độ "chín", tràn đầy sức sống nhất đã tạo nên khác biệt cho bài thơ.

Như vậy, bằng cách tổ chức ngôn từ độc đáo Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân và khát khao được giao cảm với đời, với người của một hồn thơ sâu sắc.

Trên đây là phần giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm "Mùa xuân chín"! Em cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm Mùa xuân chín

Chào mọi người, mình là ............... Hôm nay, mình trong vai trò là một nhà báo, mình đến từ toà soạn báo Phong Hoá. Chắc mọi người đều biết đây là tờ báo vô cùng nổi tiếng trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam thời bấy giờ. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu với các bạn một nhà thơ với phong cách vô cùng kì bí, độc và lạ, các bạn hãy cùng mình khám phá nhé.

Không biết trong bốn mùa, các bạn thích mùa nào nhất? Mỗi khi vào mùa đó, bạn thường cảm thấy như thế nào? Với tôi, mùa xuân có lẽ là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất trong năm. Chúng ta đã từng nghe “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, nhưng không biết các bạn đã ai từng nghe đến “Mùa xuân chín”? Đó là tên một thi phẩm của người với phong cách vô cùng kì bí, độc đáo và mới lạ mà mình muốn giới thiệu với các bạn. Hàn Mặc Tử.

“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với tôi bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.

Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt: từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ sắc thu đến tình thu, từ niềm say mê rạo rực đến nỗi bâng khuâng, xao xuyến, từ hiện tại về quá khứ.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.

Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.

Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!

Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi

-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian

Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:

“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao!

Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.

Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.

Phần giới thiệu của tôi đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe. Nếu có câu hỏi và thắc mắc gì, mong mọi người hãy đề đạt. Tôi rất mong có thể trao đổi và lí giải những băn khoăn của mọi người.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 1.046
0 Bình luận
Sắp xếp theo