Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá nội dung bài Đợi mưa trên đảo sinh tồn

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn của Trần Đăng Khoa. Đợi mưa trên đảo sinh tồn của Trần Đăng Khoa là một tác phẩm hay và ý nghĩa về sự hi sinh của người lính trên biển. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ dàn ý nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn kèm theo một số bài văn mẫu nghị luận bài thơ "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" của Trần Đăng Khoa hay và chi tiết giúp các em học sinh hiểu rõ hơn về tác phẩm.

Đợi mưa trên đảo sinh tồn là một bài thơ hay của tác giả Trần Đăng Khoa. Bài thơ là một bức tranh về cuộc sống khắc nghiệt nơi đảo xa cũng như hình ảnh những người lính kiên trung luôn vững tay súng để hoàn thành nhiệm vụ cao cả. Bài thơ khắc họa rõ nét dáng hình khắc khổ của người lính trong cuộc sống đầy khó khăn. Qua đó, ta thêm đồng cảm với những khó khăn, thiếu thốn mà người lính đảo phải trải qua cũng như trân trọng, yêu mến những người lính lạc quan yêu đời, kiên cường giữa mọi sóng gió của biển khơi và cuộc sống.

1. Dàn ý nghị luận bài thơ "Đợi mưa trên đảo sinh tồn"

2. Nghị luận phân tích và đánh giá nội dung và nghệ thuật bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn

Dưới đây là hướng dẫn viết bài văn nghị luận tác phẩm Đợi mưa trên đảo sinh tồn, các em có thể tham khảo để triển khai bài làm của mình.

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận.

Viết bài văn nghị luận phân tích và đánh giá nội dung và nghệ thuật bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn của Trần Đăng Khoa.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Hs có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục.

Sau đây là một hướng gợi ý:

1. Nội dung

- Cuộc sống trên đảo Sinh Tồn: khó khăn, khắc nghiệt, thiếu mưa “gốc cây khô cháy”, “màu mây..héo quắt”, chỉ có nhiều nhất là “đá san hô”

- Hình ảnh người lính đảo Sinh Tồn.

+ Ngoại hình: “cạo đầu” vì không có nước ngọt

+ Khao khát: “được thấy mưa rơi” à giản dị mà thiết tha cháy bỏng; khao khát >< hiện thực “mưa lộng lẫy phía xa khơi” à nhấn mạnh thêm sự thiệt thòi, thiếu thốn của đời lình

+ Vẻ đẹp tâm hồn: lạc quan, kiên cường trước những khắc nghiệt của thời tiết và khó khăn của cuộc sống trên đảo Sinh Tồn.

- Thái độ, tình cảm của nhà thơ với người lính đảo: thấu hiểu và đồng cảm; trân trọng, yêu mến và tự hào.

2. Nghệ thuật.

- Thể thơ tự do

- Ngôn ngữ hình ảnh giản dị mà giàu cảm xúc.

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, điệp

3. Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn - mẫu 1

Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn

Theo nhà phê bình văn học Hồng Diệu: “Trần Đăng Khoa không phải là một nhà thơ lớn, nhưng là một nhà thơ độc đáo”. Thơ của ông thể hiện rõ hơi thở của cuộc sống chiến đấu những năm tháng ấy, thể hiện tinh thần đấu tranh và khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam. Bài thơ của ông có tính chất chính trị cao, mang thông điệp sâu sắc và chân thành. Trần Đăng Khoa là trong số các nhà thơ nổi tiếng lớp chống Mỹ, nhưng ông đã để lại một số bài thơ đáng chú. Các bài thơ này không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật đẹp mà còn là tài liệu quý giá để hiểu về tinh thần của những người lính Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ. Tác phẩm "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" của nhà thơ Trần Đăng Khoa được xem là một tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống và ý nghĩa. Bài thơ đã vẽ nên một bức tranh về sự sống còn trên một đảo hoang vắng, cho thấy sự can đảm, kiên trì và lòng nhân ái của con người trong những tình huống khắc nghiệt.

Ở khổ thơ đầu tiên của bài thơ Trần Đăng Khoa mô tả một bối cảnh hoang vắng và đầy tuyệt vọng. Từ đầu tiên đã đề cập đến địa điểm mà nhân vật chính trong bài thơ đang đứng. Đảo Sinh Tồn là một đảo hoang vắng, đầy khắc nghiệt. Tất cả mọi thứ trên đảo đều vô cùng cằn cỗi, thiếu nước và khô hạn. Qua đó thể hiện sự mong chờ, đang hy vọng rằng điều gì đó sẽ xảy ra. Hình ảnh ánh chớp xanh lấp loáng cũng đánh dấu sự bất ổn và rủi ro đang tiềm ẩn, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự mong chờ hy vọng trong tương lai.

"Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Mặt chúng tôi ngửa lên như đất

Mặt chúng tôi ngửa lên hứng nước

Một giọt nhỏ thôi, cát cũng dịu đi nhiều"

Những câu thơ trên đã thể hiện sự mong đợi và khao khát của người viết về mưa, đặc biệt là trong tình huống khi đang ở trên đảo sinh tồn, nơi thiếu nước và cảm giác khô cứng. Tác giả đã miêu tả rất chi tiết và sống động hình ảnh của cơn mưa đang được mong đợi, bao gồm những hiệu ứng như sấm sét, ánh chớp xanh và những giọt mưa lấp lánh trên cát. Đoạn thơ còn thể hiện sự tưởng tượng và hy vọng của người viết về những điều tích cực mà mưa có thể mang lại cho cuộc sống trên đảo, như đem lại sự sống lại cho cây cỏ và đất đai. Nhưng nó cũng có sự phản ánh những khó khăn và tình trạng đói khát khi không có mưa. Tuy vậy nhưng đoạn thơ vẫn mang đến cho những người lính một cảm giác hy vọng và sự khao khát trong tình trạng thiếu nước.

Mặc dù vẫn từng ngày trông ngóng đợi mưa nhưng tác giả vẫn thể hiện tình cảm yêu quý và sự kính trọng đối với hòn đảo Sinh Tồn - nơi đã trở thành nơi sinh sống của chúng ta. Dù không có mưa, đảo vẫn tồn tại và con người vẫn kiên cường sinh tồn trên nó như những hòn đá vững bền. Việc mong mưa đến cũng thể hiện mong muốn có một niềm vui đơn giản, mong đợi của cánh lính trong những ngày tháng căng thẳng. Mưa được miêu tả như một nàng công chúa với tình yêu sâu đậm và lãng mạn, vẫn luôn có sức mạnh và sự tinh tế dù đang trong tình trạng bão táp.

Bài thơ lấy nguồn cảm hứng từ cuộc sống đầy khắc nghiệt của những người dân sinh sống trên một hòn đảo xa xôi, cách bờ biển hàng trăm cây số. Trong cuộc sống của họ, bão tố, lũ lụt, thiếu hụt dinh dưỡng và nạn đói khát đeo bám họ như ác mộng. Trong suốt những ngày đó, con người chỉ biết cố gắng chờ đợi cơn mưa, để có thể duy trì sự sống. Bằng bức tranh chân thực, tác giả đưa ra hình ảnh của những người đang chờ đợi mưa, cùng với những cảnh vật về sự gian khổ, tàn ác của cơn bão. Bằng bài thơ này, tác giả cũng muốn truyền tải tình cảm của một người lãnh đạo đối với nhân dân, sự đoàn kết, tình yêu thương đối với quê hương và đồng bào.

Việc nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng kết hợp giữa thể loại tự sự và thơ ca, tất cả đã tạo nên một cảnh quan sắc nét về cuộc sống trên đảo hoang. Tác giả đã sử dụng rất nhiều hình ảnh, từ ngữ tượng trưng và hàm ý để tạo ra một bức tranh chân thực về cuộc sống khắc nghiệt của những người dân đang sống trên đảo. Mỗi cung bậc cảm xúc của họ được tái hiện một cách sống động và chân thực, để cho người đọc có thể cảm nhận được những gì họ đã trải qua. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nhiều phương tiện âm điệu như điệp ngữ, ngữ điệu và điệu nhạc để thổi vào bài thơ một hơi thở mới, tạo nên một không gian riêng biệt chỉ có trong trí tưởng tượng của người đọc. Từng câu thơ, từng dòng thơ đều tràn đầy xúc cảm, để cho người đọc nhìn nhận lại những điều tuyệt vời nhất của cuộc sống và sự quan tâm với đời sống của những người dân đang sinh sống trên đảo hoang vắng.

Bài thơ "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" là một tác phẩm nghệ thuật đầy ấn tượng và ý nghĩa, tạo ra một bức tranh sống động về cuộc sống trên đảo hoang. Tác giả đã thành công trong việc tạo ra một không gian riêng biệt và giúp người đọc cảm nhận được những gì mà những người dân đang sống trên đảo đã trải qua.

4. Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn - mẫu 2

Bài thơ "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" của Trần Đăng Khoa là một tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống và ý nghĩa. Tác giả đã phác họa lên một bức tranh về sự sinh tồn trên một đảo hoang vắng, thể hiện rõ sự can đảm, kiên trì và nhân ái của con người trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.

Về nội dung, bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc sống khắc nghiệt của những người dân đang sống trên một đảo xa xôi, cách bờ biển hàng trăm cây số. Họ phải đối mặt với những cơn bão, dòng nước lũ dữ, sự thiếu chất dinh dưỡng, những cơn đói khát gay gắt. Những ngày tháng ấy, con người chỉ còn biết cố gắng chờ đợi mưa để có thể sống sót. Từ đó, tác giả đã tái hiện lên hình ảnh của những người dân đang đứng chờ mưa cùng những bức tranh về sự gian khổ, tàn nhẫn và độc ác của cơn bão. Đồng thời, qua bài thơ, tác giả cũng thể hiện sự tận tâm của người lãnh đạo đối với nhân dân, tình cảm đồng bào và tình yêu đối với quê hương.

Về nghệ thuật, bài thơ được viết kết hợp giữa thể loại tự sự và thơ ca. Tác giả đã sử dụng rất nhiều hình ảnh, từ ngữ tượng trưng và hàm ý để tạo dựng lên một cảnh quan sắc nét về cuộc sống trên đảo hoang. Từng cung bậc cảm xúc của những người dân được tái hiện một cách sống động và chân thực. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều phương tiện âm điệu như điệp ngữ, ngữ điệu và điệu nhạc để thổi vào bài thơ một hơi thở mới, tạo nên một không gian riêng biệt chỉ có trong trí tưởng tượng của người đọc.

Tóm lại, bài thơ "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" của Trần Đăng Khoa là một tác phẩm nghệ thuật đầy ấn tượng và ý nghĩa. Qua những hình ảnh sống động, từng dòng thơ tràn đầy xúc cảm, tác giả đã giúp ta nhìn nhận lại những điều tuyệt vời nhất của cuộc sống và sự quan tâm với đời sống của những người dân đang sinh sống trên đảo hoang vắng.

5. Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn - mẫu 3

Trên hành trình gần một thế kỉ, hình tượng người lính đã trở nên quen thuộc đối với thơ ca cách mạng Việt Nam. Họ xuất hiện trong văn chương một cách giản dị, đời thời nhưng vô cùng lạc quan, dũng cảm. Thời chiến, họ là những con người đã làm nên lịch sử, trở thành nhân vật chính của lịch sử thời đại cách mạng bởi tinh thần quả cảm, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp chung. Thời bình, họ vẫn kiên cường bảo vệ biên cương Tổ quốc, giữ vững thành quả chiến đấu, hi sinh của cha ông. Hình ảnh những người lính ngày đêm canh giữ biển đảo quê hương xuất hiện nhiều trong văn học sau 1975. Với cảm hứng ngợi ca, tự hào, Trần Đăng Khoa đã dành cả một chùm thơ viết về họ mà "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" là một trong số đó.

Bài thơ mở đầu bằng ánh mắt của những chàng lính trẻ dõi về phía xa xăm, nơi có những bóng mây mưa, rơi chớp xanh lấp loáng trời:

Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn

Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy

Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy

Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi

Ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời..

Câu thơ đầu tiên, tác giả nhắc tên hòn đảo "Sinh Tồn" như nhấn mạnh tính chất khắc nghiệt, sống còn của sự sống nơi đây. Trên hòn đảo không hề có nước ngọt này, con người và mọi vật đều phải kiên cường gồng mình lên để giành lấy sự sống. Vì không có nước ngọt như những đảo khác, nên mưa trời đối với họ là cái gì đó vô cùng "xa xỉ", quý giá vô ngần. Chính bởi điều này mà người lính mong ngóng mưa (có lẽ hơn tất cả sự mong mỏi trên đời). Họ dõi về phía xa xăm nơi đất liền - nơi đang có những dấu hiệu của những trận mưa rào đổ xuống: Từ bóng đen sẫm của mây, đến ánh chớp xanh lấp loáng. Với đất liền, mưa là hiện tượng hết sức bình thường, nhưng với người lính trên đảo Sinh Tồn, đó là món quà vô giá của thiên nhiên, mang đến sức sống cho con người, vạn vật nơi đây. Họ hướng cả về ơn mưa phía đất liền bằng ánh mắt đăm đăm "thèm thuồng" đến tội nghiệp, họ ngồi lặng yên nhìn cơn mưa nơi đất liền một cách trang nghiêm như đợi chờ điều kì diệu sẽ đến.

Niềm mong mỏi đến cháy bỏng đã bật thốt thành lời:

Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Điệp ngữ "Ôi ước gì" lặp lại ba lần trong đoạn thơ thứ hai mang giá trị biểu cảm mãnh liệt. Người lính luôn mơ ước được thấy mưa rơi giữa nơi bao quanh toàn nước mặn, niềm mong ước không phải bình thường, thoáng qua rồi quên, mà trở thành nỗi niềm da diết, cháy bỏng. Họ tưởng tượng viễn cảnh tươi đẹp về mưa và nói với chúng ta niềm vui sướng vô biên của họ khi mưa xuống:

Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Mặt chúng tôi ngửa lên như đất

Những màu mây sẽ thôi không héo quắt

Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên

Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền

Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ

Rồi kháo nhau

Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt

Cả một không gian đầy sức sống hiện lên khi mưa xuống: Người lính vui mừng ngửa mặt đón mưa; màu mây trên trời không còn "héo quắt" như khi nắng hạn, đá san hô cũng nảy cỏ tươi, đảo sẽ xanh tươi như đất liền, và dí dỏm nhất là mái đầu tóc mọc lên như cỏ của chàng lính. Thiếu nước ngọt, họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước, nếu có mưa, mái tóc ấy sẽ lại mọc xanh tươi. Bữa tiệc của họ cũng thật thú vị, không hề có sơn hào hải vị mà chỉ toàn "nước ngọt" - nước mưa. Thế mới biết, mưa đối với họ quý giá đến vô cùng. Dẫu chỉ là niềm vui trong tưởng tượng, chỉ là những điều "sẽ" xảy ra mà xao ta như nghe thấy tiếng reo hân hoan ngân nga trong từng câu chữ.

Khao khát vẫn tiếp tục bật thốt lên da diết, cháy bỏng:

Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Cơn mưa lớn vẫn rập rình ngoài biển

Ánh chớp xanh vẫn lấp loáng phía chân trời..

Thực tế về cơn mưa "rập rình ngoài biển" và ánh chớp vẫn xa xăm "phía chân trời" kéo người lính trở về với hiện tại, với cái khô cằn, khắc nghiệt của nắng gió Trường Sa. Nhưng chẳng bao lâu, khao khát lại bùng lên, những cơn mưa tưởng tượng lại tiếp tục nâng niềm vui người lính bay bổng chốn nào:

Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Chúng tôi sẽ trụi trần, nhảy choi choi trên mặt cát

Giãy giụa tơi bời trên mặt cát

Như con cá rô rạch nước đón mưa rào

Úp miệng vào tay, chúng tôi sẽ cùng gào

Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo

Đến đây, cảm xúc vui sướng của người lính như vờ òa. Niềm vui khi mưa xuống biến thành những hành động kì lạ. Họ sẵn sàng cởi trần đứng giữa màn mưa để mưa tưới mát thân thể. Họ chẳng ngại nhảy loi choi, giãy giụa tơi bời trên mặt cát như những đứa trẻ tinh nghịch. Họ có thể cùng gào lên như tiếng ếch nhái uôm uôm. Những tiếng hát của trái tim, của tâm hồn hân hoan bất tận cứ ào ạt tuôn trào trong thơ, ào ạt như những cơn mưa tưởng tượng đang xối xả tuôn xuống. Niềm hạnh phúc vô ngần của người lính không thể biểu đạt bằng lời, mà phải bằng hành động, bằng những tiếng gào thét inh uôm. Giọng thơ sôi nổi, từ ngữ giàu giá trị biểu đạt "trụi trần", "loi choi", "uôm uôm", cùng biện pháp so sánh hài hước "như con cá rô rạch nước", "như ếch nhái uôm uôm".. tất cả cộng hưởng với nhau biểu đạt mức độ tột cùng của niềm vui sướng trong tâm hồn những chàng lính khi đón mưa. Phải thấu hiểu, đồng điệu đến thế nào, nhà thơ mới có thể "nhập thân" vào những chàng lính để nói lên nỗi mong chờ của họ về mưa. Những câu thơ viết về tâm trạng của người lính mà như chất chứa cả nỗi niềm của người làm thơ. Phải chăng những trải nghiệm trên hòn đảo khắc nghiệt này đã khiến Trần Đăng Khoa có thể viết, viết hay và lạ như thế?

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
13 38.270
0 Bình luận
Sắp xếp theo