Phân tích Thư dụ Vương Thông lần nữa lớp 10
Phân tích Tái dụ Vương Thông thư
Thư dụ Vương Thông lần nữa (Tái dụ Vương Thông thư) là một trong những tác phẩm nổi tiếng thể hiện tài năng của Nguyễn Trãi trong việc sử dụng thư để dụ hàng địch. Tác phẩm nêu rõ những khó khăn, tình hình của quân địch nếu chúng vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Thư dụ Vương Thông lần nữa đã được giới thiệu đến các em học sinh trong chương trình Ngữ văn 10 tập 2 bộ Cánh Diều. Sau đây là dàn ý phân tích Thư dụ Vương Thông lần nữa cùng với các bài văn phân tích Thư dụ Vương Thông lần nữa ngắn gọn, mời các em cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích Thư dụ Vương Thông lần nữa
2. Phân tích Thư dụ Vương Thông lần nữa học sinh giỏi
Nói đến Nguyễn Trãi là ta lại nhớ đến một nhà quân sự tài ba có những mưu lược thông minh và đóng vai trò quan trọng cho sự hình thành nhà Hậu Lê - phò tá Lê Lợi gây dựng lại cơ đồ của thiên thu của Đại Việt, đưa người dân Đại Việt thoát khỏi sự lầm than, sự thống trị ác độc của quân nhà Minh. Không những thế, nhắc đến ông, ta còn nhắc đến một con người có những đóng góp quan trọng cho văn học và những tác phẩm ấy vẫn còn lưu giữ và truyền bá đến ngày nay. Ông có rất nhiều tác phẩm văn học đậm chất triết lý nhưng cũng ẩn chứa trữ tình sâu vào từng câu chữ. Và tác phẩm mà hôm nay nhắc đến đó chính là “Thư dụ Vương Thông lần nữa” - đây bức thư số 35, nằm trong những chiến lược quân sự của ông khi trong sự nghiệp phò tá chủ soái Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi quân Minh cướp nước.
Bức thư mang nội dung dụ hàng tướng giặc, thậm chí là mắc nhiếc, khiêu khích quân tướng nhà Minh, đây là một trong những bước đi quan sự mưu lược Nguyễn Trãi trong chiến lược “mưu phạt tâm công”. Mỗi câu từ trong bức thư đều thể hiện sâu sắc được nghệ thuật dung từ của ông đến mức mà học giả Bùi Huy Bích đã phải thốt lên rằng bức thư như mang sức mạnh của mười vạn quân. Với sự mưu lược của mình, Nguyễn Trãi viết bức thư này như muốn nói rằng “Ta không đánh thì giặc cũng tan”.
Bức thư này được Nguyễn Trãi đặt bút viết vào khoảng tháng 2 năm 1427, lúc bấy giờ nghĩa quân Lam Sơn đang vây hãm, kìm kẹp quân giặc trong thành Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay) khiến chúng không còn đường lui. Đến tháng Mười cùng năm, sau khi tướng giặc Liễu Thăng bị giết ở Mã Yên, Vương Thông sợ hãi, không đợi lệnh vua Minh đã tự ý rút quân về nước.
Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua Thư dụ Vương Thông lần nữa, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hòa bình của quân dân Đại Việt.
Bức thư được phân bố ra làm ba đoạn, trong đó mỗi đoạn đều thể hiện một nội dung khác nhau. Đoạn một từ đầu đến “Sao đủ để cùng nói dùng binh được?” đã nêu lên nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết về thời và thế. Đoạn hai tiếp đến “bại vong đó là sáu”, ở đây tác giả đã phân tích cho chúng ta thấy được thời và thế bất lợi của đối phương. Đoạn ba là phần còn lại, tác giả Nguyễn Trãi đã khuyên các tướng giặc đầu hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp, đồng thời thách đấu và sỉ nhục chúng.
Nội dung của bức thư đã được thể hiện như sau:
Nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết về thời và thế.
Thế nào là thời và thế? Thời là khoảng thời gian nhất định. Thế là tổng thể các mối quan hệ tạo thành điều kiện chung có lợi hoặc không có lợi cho một hoạt động nào đó của con người. Người lãnh đạo trong bất kì một lĩnh vực nào đó muốn thành công thì phải hiểu rõ thời và thế.
Tác giả vạch ra rõ chiến thuật dụng binh đánh trận cho tướng giặc nhìn ra rõ ràng bằng một giọng điệu khí thế của một bậc bề trên dạy dỗ kẻ ngu dốt- ý chỉ kẻ dốt ở đây chính là quân giặc cướp nước: Người giỏi dùng binh là người có mưu lược và biết chọn thời thế để áp dụng nó…. Nay sự ngu dốt của lũ giặc cướp nước các ngươi chả thể áp dụng được sự đơn giản của thời thế, che đậy, chắp vá những điều thiếu xót ấy bằng sự ngông cuồng và ngu dốt, chả khác nào một lũ hèn bạt mạn. Những cái thứ trí trá chả thể đối đầu được với mưu trí, chiến lược của người dân Việt yêu nước. Nguyễn Trãi dùng những câu từ vừa chặt chẽ, oai hùm nhưng cũng đanh thép để khẳng định vị thế, chủ quyền của dân đất Việt và thể hiện chân lý có phía trị trường tồn.
Ông còn sử dụng những ngôn từ chỉ rõ và bóc tách từng điểm bất lợi của quân giặc để chúng nhìn nhận ra đang bị “dồn vào chân tường” và “quay đầu là bờ”: cái thế nhà Minh Trung Quốc hiện giờ đã lộ rõ một một ba điểm bất lợi đó là chính sách hà khắc tất dắt đến diệt vong. Hiện nhìn nhà Minh như trong thế loạn chiến khi trong nước thì thế lực thù trong nổi loạn ở Tầm Châu. Ngoài biên thùy thì phía bắc có Thiên Nguyên lăm le cho quân “nuốt chửng” nhà Minh bất cứ lúc nào. Lập luận sắc bén từng câu từ, Nguyễn trãi từ đó đã đưa ra những bằng chứng sắt đá dẫn chứng trong lịch sử Trung Quốc đã từng diễn ra và hiện tại có thể tái diễn lại lần nữa. Và từ những dẫn chứng cứng hơn sắt thép đó liên hệ tình hình rối ren, ngàn cân treo sợi tóc đương thời.
Tiếp đó, ông lại chỉ ra, một loạt dẫn chứng nói về sự bất lợi của quân dội nhà Minh trong thành Đông Quan như “cá mắc cạn”: thành bị bao vây, không viện binh, không lương thực, không tiếp tế. Dân chúng trong thành yêu nước, căm ghét quân cướp nước thì tìm mọi cách chống phá lại; quân lính thì oai án, bất bình, làm mất lòng tin cốt yếu. Khó khăn chồng chất, tiến không được mà lùi cũng chả xong của quân địch chả khác gì “cá trên thớt” vì quân ta đã thao túng sách lược chi phối toàn bộ chiến lược của bọn chúng. Và qua những lập luận đanh thép, tác giả muốn khuyên lũ tướng giặc đem quân ra hang và đưa ra những hứa hẹn có lợi, tốt đẹp và cũng không quên đưa ra nhũng lời sỉ vả bọn chúng nếu không chịu nghe theo lời đàm phán.
Phần kết của bức thư, ông đã đưa ra hai khả năng cho tướng quân giặc được lựa chọn: một là đưa quân ra xin hang, chịu rút lui và nhận được cái kết tốt đẹp. Hai là, mở cổng thành cùng quân Lam Sơn giao chiến một mất một còn nhưng với thế bị động của quân minh hiện tai thì không những bại thảm hại mà cái mạng cũng khó có thể mà giữ.
Qua những lời văn răn đe như vậy, mặc dù bên quân ta giữ thế phản công nhưng mà ông vẫn giữ chất giọng đúng mực nhưng lại toát lên vẻ dọa người: đối với lũ giặc ngu dốt, ngoan cố không chịu hang mà vẫn tàn ác thì quyết “diệt cỏ tận gốc”. Nhưng chúng biết quay đầu xin hang hoặc tướng giặc nào biết nghe theo và ngộ ra lẽ phải thì chúng ta sẽ kiên trì đàm phán để dụ hàng. Lời lẽ được sử dụng một cách khôn khéo nhu có nhưng cương cũng có, được vận dụng linh hoạt và giàu sức thuyết phục quân giặc quy phục đàm phán.
Tinh thần yêu chuộng hoà bình của Nguyễn Trãi nói riêng và quân dân Đại Việt nói chung thể hiện ở niềm tin tất thắng và thái độ thực lòng muốn hoà hiếu giữa hai nước. Đó là tư tưởng chiến lược lâu dài rất sáng suốt và đúng đắn. Tác giả bức thư nêu rõ thiện chí không chủ trương tiêu diệt quân Minh và sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho quân Minh rút về nước.
Cuối thư là lời cảnh cáo có tính chất tối hậu thư đối với tướng giặc Vương Thông với lời lẽ vừa đanh thép, hùng hồn vừa nhục mạ, chế giễu: Nếu không nghe lời ta như vậy, thì nên sắm quân dàn trận, ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng, đặng xem cái tài hơn kém, không nên ngồi rũ một xó hang cùng, bắt chước cái lối đàn bà mà mang cái nhục khăn yếm như thế.
Nguyễn Trãi là một trong những danh nhân văn hóa thiên cổ vĩ đại ta đã được nhà nước và UNESCO công nhận. Ông không những giỏi trong lĩnh vực thao lược quân sự phò tá nhà Lê gây dựng lại cơ đồ mà còn là một cây bút văn chương lỗi lạc. Và bức thư địch vận của ông cũng là một trong số đó, lời nói như sức mạnh của mười vạn quân - hiện diện âm thầm nhưng sức mạnh cực lớn, đó là sức mạnh của người dân, quân lính yêu nước, khát khao được tự do, đánh đuổi lũ bạt mạn cướp nước. Thư dụ vương thông lần nữa của ông đã thể hiện sự sắc bến, hiện diệt sự yêu nước, lấy tinh thần nhân đạo làm đầu, sự hòa bình và tốt đẹp để dụ tướng lính quân giặc. Sức mạnh của sách lược đánh vào lòng người ở bức thư này một lần nữa thể hiện trí tuệ sáng suốt và tấm lòng nhân ái cao cả của Nguyễn Trãi nói riêng và quân dân Đại Việt nói chung.
3. Phân tích Thư dụ Vương Thông lần nữa hay nhất
Trong sự nghiệp phò tá chủ soái Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh cướp nước, nhiều lần mưu sĩ Nguyễn Trãi đã soạn thảo thư từ gửi cho các tướng giặc để mắng nhiếc, khiêu khích hoặc dụ hàng, nhằm thực hiện chiến lược “mưu phạt tâm công”. Học giả Bùi Huy Bích đã nhận xét rất chính xác rằng: “Các bức thư này có sức mạnh của mười vạn quân”.
Thư dụ Vương Thông lần nữa là bức thư số 35, có nội dung và nghệ thuật hay nhất, sau này được in trong Quân trung từ mệnh tập. Bằng cách thuyết phục này, Nguyễn Trãi đã đạt được mục đích: Ta không đánh mà giặc cũng tan.
Lúc bấy giờ, quân giặc trong thành Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay) bị nghĩa quân Lam Sơn vây hãm nhiều ngày, đang lâm vào tình cảnh khốn đốn. Nguyễn Trãi viết bức thư này vào khoảng tháng 2 - 1427 thì đến tháng 10 năm ấy, sau khi tướng giặc Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông sợ hãi, không đợi lệnh vua Minh đã tự ý rút quân về nước.
Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua Thư dụ Vương Thông lần nữa, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hoà bình của quân dân Đại Việt.
Bố cục bức thư gồm ba đoạn:
Đoạn 1: Từ đầu... đến Sao đủ để cùng nói việc binh được?: Tác giả nêu lên nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết thời thế.
Đoạn 2: Từ Trước đây các ông... đến bại vong đó là sáu!: Nguyễn Trãi phân tích thời và thế bất lợi của đối phương.
Đoạn 3: Phần còn lại: Tác giả khuyên các tướng giặc đầu hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp. Đồng thời thách đấu và sỉ nhục tướng giặc.
Muốn hiểu rõ nội dung bức thư, việc đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của hai từ thời và thế.
Thời là khoảng thời gian nhất định. Thế là tổng thể các mối quan hệ tạo thành điều kiện chung có lợi hoặc không có lợi cho một hoạt động nào đó của con người. Không chỉ riêng các nhà quân sự mà những người làm kinh tế hoặc ngoại giao cũng phải hiểu thời và thế thì mới đạt được kết quả tốt trong công việc.
Thời thế trong một cuộc chiến là hoàn cảnh chung, là vị trí, vai trò của trận đánh, là sự tương quan lực lượng giữa hai bên... Trên cơ sở đó, các tướng lĩnh sẽ đưa ra cách đánh hợp lí nhất để đạt mục đích của từng trận đánh nói riêng và của cả chiến dịch nói chung.
Mở đầu bức thư, tác giả chỉ cho tướng giặc biết thuật dùng binh:
Người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì biến mất thành còn, hóa nhỏ thành lớn ; mất thời và không thế, thì mạnh hoá ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ ở trong khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại che đậy bằng lời dối trá, thế chẳng phải là hạng thất phu đớn hèn ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được?
Đây là đoạn văn có vai trò nêu chủ đề, mở ra hướng lập luận cho toàn bài. Ở các đoạn sau, tác giả nêu ra những luận điểm, luận chứng hết sức chặt chẽ và chính xác để làm nổi bật chủ đề.
Chủ đề bức thư là bàn về việc binh, mà điều quan trọng là người dùng binh muốn chiến thắng thì phải biết thời thế. Nguyễn Trãi khẳng định đây là nguyên lí cơ bản có giá trị như một chân lí. Tác giả phân tích thời thế bất lợi của đối phương nhằm mục đích thuyết phục, dụ hàng, đồng thời nhận xét rằng tướng giặc không những không hiểu thời thế mà còn dối trá, che đậy nguy cơ thất bại đối với binh lính dưới quyền.
Ở đoạn 2 của bức thư, tác giả chỉ ra ba ý: Ý thứ nhất nói đến cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc (hậu phương); ý thứ hai nói đến cái thế của quân Minh thành Đông Quan; ý thứ ba chỉ ra sáu nguyên nhân bại vong của giặc.
Cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc có ba điều bất lợi: Chính sách hà khắc tất dẫn đến diệt vong. Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên đe doạ. Trong nước có nội loạn ở Tầm Châu.
Nguyễn Trãi đã nêu lên một loạt dẫn chứng trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời liên hệ đến tình hình nội bộ rối ren của Trung Quốc hiện thời:
Ngày xưa nhà Tần thôn tính sáu nước, chuyên chế bốn bể, không chăm lo đức chính, thân mất nước tan. Nay Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy một năm tất sẽ theo nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy. Hiện nay phía bắc có kẻ địch Thiên Nguyên, phía nam có mối lo nội loạn ở các xứ Tầm Châu, một khu Giang Tả không tự giữ được, huống còn mưu toan đi cướp nước khác ư? Các ông không hiểu sự thế, bị người đánh bại, lại còn chực dựa uy Trương Phụ, thế có phải là đại trượng phu chăng, hay chỉ là đàn bà thôi?
Tinh thế ngày nay, dù có vị ngôi cao đem quân đến nữa, cũng chỉ càng mau chết mà thôi, huống chi Trương Phụ chỉ là đến nộp mạng, thì có gì đáng nói?
Cái thế của quân Minh ở thành Đông Quan lúc này cũng có ba điều bất lợi: Thành bị vây, không viện binh, không lương thực. Dân chúng trong thành căm ghét tìm mọi cách chống lại. Quân lính thì oán trách, bất bình:
Nay các ông kế cùng lực kiệt, lính tráng mỏi mệt, trong không lương thảo, ngoài không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành chơ vơ, há chẳng như là thịt trên thớt, cá trong nồi rồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, dụ điều phi nghĩa. Kia những kẻ trung thần nghĩa sĩ, dù thời cùng vận khốn, cũng nếm mật nằm gai, không chịu đem lòng kia khác, lẽ nào ngày nay, lại chịu tin theo những lời bất nghĩa của các ông. Chỉ e người Nam trong thành nhớ mến chúa cũ, người Ngô ở đây khốn khổ không kham thì những người chống các ông sẽ kéo nhau ra hàng; như Trương Phi, Lã Bố, các ông lại bị chính thuộc hạ giết hại, đó là lẽ tất nhiên.
Trong những khó khăn chủ quan về phía giặc, thì nguyên nhân để mất lòng tin là nguyên nhân cốt yếu, chi phối toàn bộ chiến lược của chúng. Đúng là như vậy! Thành trì bị quân ta vây chặt, lại gặp nạn lụt lội, lương thực cho người, cỏ rơm cho lừa, ngựa đã cạn, mà viện binh vẫn tuyệt tăm hơi. Đó là điều thất bại trông thấy trước mắt. Đúng là quân Minh rơi vào cái thế hoàn toàn bị động của “cá trên thớt, thịt trong nồi”:
Nay ở các thành, từ đô ti trở xuống, đều căm giận các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ vượt luỹ trốn ra, tố cáo cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn sẽ giết lẫn nhau, hà tất phải đợi quân sĩ của ta nữa.
Trên cơ sở phân tích sự chuyển biến của thời và thế cùng mối tương quan lực lượng giữa ta và địch, Nguyễn Trãi đã vạch rõ cho lũ tướng giặc thấy sáu cái cớ bại vong:
Nguyên nhân thứ nhất là những khó khăn chồng chất mà chúng đang gặp phải, không thể vượt qua.
Nguyên nhân thứ hai là không có viện binh đến cứu, giặc Minh ở Đông Quan rơi vào tình cảnh “nước xa không cứu được lửa gần”.
Nguyên nhân thứ ba là triều đình nhà Minh đang phải lo đối phó với quân Nguyên, không rỗi mà quan tâm đến tình cảnh bi đát của đám tướng sĩ xâm lược ở nước Nam.
Nguyên nhân thứ tư là nội chiến xảy ra liên miên khiến cho dân chúng sống dưới triều đại nhà Minh không được yên ổn, đâm ra chán nản và thất vọng.
Nguyên nhân thứ năm là ở triều đình nhà Minh, bọn gian thần chuyên chính, nội bộ lục đục tranh giành quyền lực, gây ra cảnh nồi da xáo thịt.
Nguyên nhân thứ sáu là lực lượng nghĩa quân Lam Sơn càng ngày càng mạnh mẽ, trong khi quân Minh ngày càng mỏi mệt, nhụt chí chiến đấu.
Nắm rất chắc lẽ biến dịch “cùng tắc biến, biến tắc thông”, Nguyễn Trãi đã chỉ ra cho bọn tướng giặc biết là cái thế “cùng” của chúng không thể kéo dài mà tất sẽ bung ra, trước hết là từ ngay trong lòng của nó. Hay nói cách khác, tự quân lính dưới quyền của chúng sẽ quay mũi giáo chống lại chúng để tìm đường giải thoát, vì nếu không thì sẽ chết thảm. Nguyễn Trãi nêu lên từng luận điểm cụ thể với lí lẽ và dẫn chứng thật chặt chẽ, chính xác:
Nay ta suy tính hộ các ông thì cái cớ bại vong có sáu!
Nước lụt mênh mông, tường rào đổ lở, lương có thiếu thốn, ngựa chết quân ốm; bại vong đó là một!
Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung phải ra hàng; nay bao nhiêu của quan hiểm trở đều có binh tướng đồn đóng, viện binh nếu đến, tất nhiên bị bại, viện binh đã bại, các ông còn trốn đằng trời; bại vong đó là hai!
Nước các ông binh khỏe ngựa béo, nay còn để cả miền bắc để phòng thủ quân Nguyên, không rỗi đâu nhìn sang nước Nam được; bại vong đó là ba!
Can qua liên miên, chinh phạt không nghỉ, người chẳng sống yên, nhao nhao thất vọng; bại vong đó là bốn!
Gian thần chuyên chính, chúa yếu trị vì, xương thịt hại nhau, “gia đình sinh biến”; bại vong đó là năm!
Nay ta dấy nghĩa quân, trên dưới đồng lòng, anh hùng tận lực, quân lính càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc, trong thành quân sĩ mỏi mệt, tự chuốc diệt vong; bại vong đó là sáu!
Đây là đoạn hấp dẫn nhất của bức thư mà nội dung xoáy sâu vào tình thế tiến thoái lưỡng nan của giặc. Dẫn chứng cụ thể, lời lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn của tác giả khiến Vương Thông và lũ tướng giặc không thể coi thường, đọc đến đây ắt sợ toát mồ hôi.
Trong phần kết của bức thư, Nguyễn Trãi nêu ra hai khả năng cho quân Minh lựa chọn: một là đầu hàng, hai là mở cửa thành đem quân ra giao chiến với nghĩa quân Lam Sơn. Tác giả khuyên chúng nên đầu hàng là có lợi nhất:
Ngồi giữ một mảnh thành con, để chờ sáu cái cớ bại vong ấy, thật tiếc thay cho các ông! Cổ nhân có câu: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Dù có viện binh đến đây, cũng không ích gì cho sự bại vong cả. Trước đây Phương Chính, Mã Kì chỉ chuyên làm những sự hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ oán thán: nào đào mồ mả của làng ấp ta, nào bắt vợ con của dân ta, kẻ chết hàm oan, người sống bị khổ. Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kì đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy trong thành sẽ khỏi nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp bỏ.
Mặc dù ở tư thế của người nắm phần chủ động, hơn hẳn về sức mạnh quân sự cũng như thời thế, song thái độ của tác giả vẫn hết sức đúng mực. Tác giả có sự phân biệt rõ ràng trong cách đối xử với các tướng nhà Minh. Đối với bọn Phương Chính, Mã Kì tàn ác, ngoan cố thì cương quyết tiêu diệt, đối với Vương Thông, Sơn Thọ và các tướng khác thì kiên trì phân tích phải trái, lúc cương, lúc nhu rất linh hoạt, chủ yếu là để dụ chúng đầu hàng.
Bức thư cũng thể hiện và nhấn mạnh cái thế áp đảo của quân ta. Khi Nguyễn Trãi viết bức thư này, nghĩa quân Lam Sơn đang bao vây thành Đông Quan. Tác giả vừa sỉ nhục coi lũ tướng giặc là đám thất phu, không cùng bàn việc binh được, là hạng đàn bà, không phải đại trượng phu để làm cho chúng hổ thẹn; vừa dùng lí lẽ phân tích sáu cớ bại vong nhằm lung lạc ý chí của chúng; đồng thời thách thức giao chiến để chứng tỏ sức mạnh quân sự của ta.
Niềm tin tất thắng của tác giả vào công cuộc chống quân Minh thể hiện ở sự hiểu rõ thế thất bại tất yếu của địch. Tinh thần yêu chuộng hoà bình của Nguyễn Trãi thể hiện ở thiện chí không chủ trương tiêu diệt quân Minh khi chúng đã bại trận mà tạo điều kiện cho chúng rút quân:
Nếu muốn rút quân về nước, ta sẽ sửa sang cầu cống, mua sắm tàu thuyền, thuỷ lục hai đường, tuỳ theo ý muốn ; quân ra khỏi cõi, muôn phần bảo đảm được yên ổn không lo ngại gì ; nước ta lại phụng cống xưng thần, theo lệ như trước.
Tác giả hiểu rõ quan hệ đặc biệt giữa ta với Trung Quốc nên không muốn gây thù, chuốc oán mà muốn giữ quan hệ láng giềng thân thiện. Phần kết bức thư đã thể hiện rõ tư tưởng chiến lược sáng suốt, có ý nghĩa lâu dài của Nguyễn Trãi.
Cuối cùng là lời cảnh cáo có tính chất tối hậu thư cho Vương Thông:
Nếu không nghe lời ta như vậy, thì nên sắm quân dàn trận, ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng, đặng xem cái tài hơn kém, không nên ngồi rũ một xó hang cùng, bắt chước cái lối đàn bà mà mang cái nhục khăn yếm như thế!
Nguyễn Trãi là một ngòi bút chính luận lỗi lạc. Các bức thư địch vận của ông có sức mạnh như một đạo quân hùng hậu hoặc như một vũ khí sắc bén. Bài Thư dự Vương Thông lần nữa thể hiện tác giả là tài năng nghị luận bậc thầy trong lịch sử văn học dân tộc. Có thể coi văn bản trên là một đòn đánh mạnh vào âm mưu cố thủ, chờ viện binh sang để phản công quân ta của đám tướng lĩnh nhà Minh, Nguyễn Trãi đã lấy sự phân tích xác thực về thời thế, lấy chính tinh thần nhân đạo, yêu chuộng hoà bình để thuyết phục tướng giặc. Sức mạnh của sách lược “đánh vào lòng người” ở bức Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện một trí tuệ sáng suốt, một tấm lòng nhân ái cao cả, yêu hoà bình chính nghĩa của quân dân Đại Việt.
4. Cảm nhận Thư dụ Vương Thông lần nữa
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà thơ nhà văn mà còn là một quân sư đắc lực cho vua Lê Lợi. Con người thiên tài ấy không chỉ sáng tác thơ văn yêu nước, thơ văn ẩn dật thể hiện cuộc sống của cư sĩ chán cảnh quan trường, thơ văn thể hiện tình yêu thiên nhiên cuộc sống và con người mà còn có cả mảng thơ văn thể hiện sự sáng suốt của một quân sư trung thành. Nguyễn Trãi không trực tiếp ra trận nhưng bằng ngòi bút cua mình để giúp vua. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn là nhà thơ chính luận xuất sắc. Bên cạnh tác phẩm nổi tiếng bình ngô đại cáo thì ta còn có thể kể đến tác phẩm quân trung tư mệnh tập đặc biệt đoạn trích Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện rõ sự sáng suốt tinh nhạy của một quân sư giỏi. Đặc biệt đoạn trích muốn thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình và ý chí quyết thắng của nhân dân ta.
Quân trung từ mệnh tập là quyển thứ tư của Ức Trai thi tập. Tác phẩm này có tất cả 42 bài gồm cả thư viết cho bọn giặc Minh và bọn ngụy quân, vừa là biểu cầu phong, dụ gửi tướng sĩ ở Thanh Hóa khen thưởng vì đã có công đánh giặc.
Đoạn trích Thư gửi Vương Thông lần nữa là lá thư số 35 trong tập Quân Trung Từ mệnh tập. Có thể nói đây là đoạn trích có nội dung và nghệ thuật hay nhất. Chính bởi lá thư ấy mà Nguyễn Trãi đã đạt được nguyện vọng “ta không đánh mà giặc vẫn tan”.
Khi phò tá cho vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi có nhiệm vụ soạn thảo các thu từ cho nhà Minh. Ở thời trung đại, thư ban đầu là tên chung của một loại thư tín viết để trao đổi thông tin bày tỏ tình cảm. Về sau thư gửi vua gọi là biểu và tấu và ở đây thư là ban việc công việc chiến, việc hòa bình nên mang đậm chất chính luận.
Thư dụ Vương Thông lần nữa được viết vào hoàn cảnh quân ta đang vây hãm thành Đông Quan, quân địch trong thành thì khốn đốn. Bức thư viết nhầm dụ giặc ra hàng và rút quân về nước “Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kì đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy, trong thành sẽ tránh được nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp bỏ”. bức thư được viết vào khoảng tháng 2 năm 1427 nhưng sau khi Liễu Thăng bị giết ở Gò Mã ngay lập túc Vương Thông ra đầu hàng mà không chờ xin lệnh của vua Minh.
Bức thư ấy gồm có ba phần rõ rệt mở đầu, nội dung, kết thúc. Mỗi một phần có một nhiệm vụ khác nhau và kết cấu cũng như nội dung chặt chẽ ấy đã giúp Nguyễn trãi đuổi được quân Minh ra khỏi thành Đông Quan.
Thứ nhất là đoạn mở đầu, tác giả bắt đầu bằng những tư tưởng về thời thế đối với người dùng binh. Nào là người dùng binh phải biết thời thế khi nào đánh khi nào ngưng, mà trong thời thê này thì chỉ có cách là rút quân về nước không thì chuốc lấy bại vong. Không thì đem quân ra thành để so tài cao thấp. Có thể nói những tư tương về tài dùng binh của Nguyễn Trãi rất đúng đắn và hợp tình thế nên những ai là tướng nắm rõ luật dùng binh thì có thể hiểu rõ mà không phải nói nhiều. Từ hoàn cảnh cụ thể của hai bên Nguyễn Trãi rất sắc sảo phân tích tình hình qua từng lời dụ. Việc làm ấy thể hiện ông tuy là nhà nho nhưng lại rất am hiểu về binh thư yếu lược. Không chỉ vậy nó còn thể hiện sự yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta, dĩ hòa vi quý không muốn hai bên tổn thất thêm nữa. Tuy nhiên nếu chúng ngoan cố muốn chiếm nước tới cùng thì quân ta không bao giờ lùi bước. Tuy chúng ta nắm thế chủ động trên chiến trường nhưng đối với từng tướng ta lại có cách khác nhau,mỗi lần một khác đều linh hoạt. Tác giả phân tích thời thế rồi sử dụng cương hay nhu. Ví dụ như Vương Chính,Mã Kì tàn ác ngoan cố hì tiêu diệt còn Vương Thông, Sơn Thọ thì phân tích tình hình khuyên nhủ. Cuối cùng đề là khuyên hàng không thì khích tướng để dụ chúng ra trận mau chóng kết thúc. Bức thư vừa có tình lại vừa thể hiện ý chí quyết đuổi giặc về nước.
Tiếp đó Nguyễn Trãi nói về cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc, lại nói cái thế quân Minh ở Đông Quan rồi chỉ ra sáu nguyên nhân bại vong của giặc. Cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc có ba điều bất lợi: Chính sách hà khấc tất dẫn đến diệt vong. Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên đe dọa. Trong nước có nội loạn ở Tầm Châu. Bằng những dẫn chứng lịch sử cụ thể Nguyễn Trãi đã nêu lên cả tình hình rối ren của Trung Quốc lúc bấy giờ. Ngày xưa nhà Tần thôn tính sáu nước, chuyên chế bốn bề không lo đức chính mất nước nhà tan. Nhà Ngô mạnh không bằng nhà Tần mà lại quá hà khắc. Khá hay cho sự khích tướng của Nguyễn Trãi khi nói Trung Quốc suy thoái lại đi nhờ uy Trương Phụ đâu có đáng mặt trượng phu chỉ đáng làm đàn bà thôi. Mà chí làm trai thời trung đại lớn lắm đàng hoàng là một bậc trượng phu mà bị ví như đàn bà thì thật nhục lắm. Trong tình thế hiện nay mà Trương Phụ có đem quân đén thì cũng chỉ là đi vào chỗ chết. Không những thế Nguyễn trãi còn phân tích cái khốn của quân Minh trong thành Đông Quan. Chúng mệt mỏi rệu rã lương không có ăn, tinh thần chiến đấu giảm xuống. Khi đó quân ta chưa cần giết thì chúng cũng tự giết nhau rồi.
Từ những phân tích tình hình sắc sảo trên Nguyên Trãi đưa ra sáu nguyên nhân khiến chúng bại trận. Thứ nhất là những khó khăn chồng chất mà chúng đang gặp phải, không thể vượt qua. Nguyên nhân thứ hai là không có viện binh đến cứu, giặc Minh ở Đông Quan rơi vào tình cảnh “nước xa không cứu được lửa gần”. Nguyên nhân thứ ba là triều đình nhà Minh đang phải lo đối phó với quân Nguyên, không rỗi mà quan tâm đến tình cảnh bi đát của đám tướng sĩ xâm lược ở nước Nam. Nguyên nhân thứ tư là nội chiến xảy ra liên miên khiến cho dân chúng sống dưới triều đại nhà Minh không được yên ổn, đâm ra chán nản và thất vọng. Nguyên nhân thứ năm là ở triều đình nhà Minh, bọn gian thần chuyên chính, nội bộ lục đục tranh giành quyền lực, gây ra cảnh nồi da xáo thịt. Nguyên nhân thứ sáu là lực lượng nghĩa quân Lam Sơn càng ngày càng mạnh mẽ, trong khi quân Minh ngày càng mỏi mệt, nhụt chí chiến đấu.
Chỉ sáu tháng sau khi bức thư này được gửi đi, hai cánh quân do Liễu Thăng chỉ huy kéo vào Lạng Sơn. Mộc Thạnh chỉ huy năm vạn quân vào Lào Cai cả hai viện binh đều thất bại thảm hại. Qua đó ta thấy sáu cái cớ mà tác giả nêu ra đã thể hiện cái nhìn xa trông rộng của ông.
Cuối bức thư ông vạch ra hai con đường đi cho giặc một là rút quân về nươc hai là nếu ngoan cố và hiếu chiến thì sẽ “ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng” chứ đừng “ngồi rũ một xó hang ngồi bắt chước cái lối đàn bà mà mang cái nhục khăn yếm như thế”.
Như thế có thể thấy rõ Nguyễn Trãi đã viết lên một bản đồ phân tích chiến sự rõ ràng và thuyết phục, chỉ ngặt một nỗi Vương Thông không nghe thì kết cục vẫn cứ là thất bại thảm hại mà thôi. Với giọng văn lúc khoan thai nhịp nhang như khuyên bảo nhưng khi đe dọa khích tướng thì mới cay nghiệt làm sao. Hay cả khi đe dọa thì ý chí ngút ngàn tác giả đã tỏ ra rất khôn khéo trong việc tấn công tinh thần của địch. Những câu nói ngắn gọn nhưng súc tích mà lại truyền tải nội dung lớn.
Qua đây ta hiểu thêm về con người Nguyễn Trãi cũng như mảng văn chương chính luận của ông. Nguyễn Trãi khôn chỉ giỏi yêu thiên nhiên yêu con người mà còn giỏi tấn công tinh thần địch làm cho chúng đã rệu rã khốn đốn lại càng khốn đốn nhiều hơn nữa. Phải chăng Nguyễn trãi đã sử dụng ngòi bút của mình như một vũ khí để đánh bại kẻ thù xâm lược.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.
- Chia sẻ:Trần Thu Trang
- Ngày:
Tham khảo thêm
Thực hành tiếng Việt trang 20 Văn 10 Cánh Diều tập 2
Viết đoạn văn về giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô có sử dụng phép liệt kê
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội lớp 10 Cánh Diều tập 2
Nhan đề và nội dung chính của bài Gương báu khuyên răn
Phân tích mối quan hệ giữa cảnh và tình trong bài Gương báu khuyên răn
Thuyết trình và thảo luận về một vấn đề xã hội tư tưởng đạo lí
- Soạn bài Hê ra clet đi tìm táo vàng lớp 10
- Soạn bài Chiến thắng Mtao Mxây Cánh Diều
- Soạn bài Thần trụ trời ngắn nhất Cánh Diều
- Soạn bài Ra-ma buộc tội Cánh Diều ngắn nhất
- Thực hành tiếng Việt lớp 10 trang 32 Cánh Diều
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội Cánh Diều
- Soạn bài Nói và nghe Thuyết trình về một vấn đề xã hội
- Soạn bài Tự đánh giá Nữ Oa trang 40
- Nghị luận về một vấn đề xã hội được gợi ra từ các tác phẩm văn học lớp 10
- Soạn bài Cảm xúc mùa thu ngắn nhất Cánh Diều
- Hoàn cảnh ra đời bài Cảm xúc mùa thu - Thu hứng
- Xác định đề tài, thể loại, bố cục bài Cảm xúc mùa thu
- Đoạn văn nói lên suy nghĩ tình cảm của Đỗ Phủ đối với quê hương
- Cảnh thu trong hai câu đề và câu thực của bài Thu hứng có gì đặc biệt?
- Top 4 bài phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu siêu hay
- Theo em, viết về mùa thu nhưng Đỗ Phủ đã gửi gắm trong bài thơ tâm sự gì?
- Soạn văn 10 Cánh Diều bài Tự tình
- Soạn bài Câu cá mùa thu Cánh Diều
- Hoàn cảnh ra đời bài Câu cá mùa thu
- Qua bài thơ Câu cá mùa thu em có cảm nhận như thế nào về tấm lòng của tác giả đối với thiên nhiên?
- Chỉ ra nét chung và riêng của chùm Thơ thu của Nguyễn Khuyến
- Em hãy chuyển các câu thơ tả cảnh mùa thu trong bài thơ Câu cá mùa thu thành đoạn văn miêu tả
- Lập dàn ý về một vẻ đẹp của bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến
- Soạn Văn 10 Cánh Diều trang 51 tập 1
- Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học
- Soạn bài Tỏ lòng Cánh Diều lớp 10
- Soạn Xúy Vân giả dại Ngữ văn 10 Cánh Diều
- Soạn bài Mắc mưu Thị Hến
- Soạn bài Thị Mầu lên chùa lớp 10
- Soạn Thực hành tiếng Việt trang 80 lớp 10 tập 1 Cánh Diều
- Soạn Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan niệm Cánh Diều
- Soạn bài Thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau lớp 10 Cánh Diều
- Tự đánh giá - Xử kiện lớp 10 Cánh Diều ngắn nhất
- Soạn bài Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội ngắn nhất
- Soạn bài Lễ hội Đền Hùng Cánh Diều ngắn nhất
- Hãy viết một văn bản hướng dẫn du khách tham gia một lễ hội hoặc tham quan một di tích ở địa phương em sinh sống
- Viết bài luận về bản thân Cánh Diều ngắn gọn
- Thuyết trình và thảo luận về một địa chỉ văn hóa lớp 10 Cánh Diều
- Tự đánh giá Lễ hội Ok Om Bok siêu ngắn
- Soạn bài Nguyễn Trãi cuộc đời và sự nghiệp
- Soạn bài Đại cáo bình Ngô lớp 10 Cánh Diều
- Soạn bài Gương báu khuyên răn
- Thực hành tiếng Việt trang 20 Văn 10 Cánh Diều tập 2
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội lớp 10 Cánh Diều
- Thuyết trình và thảo luận về một vấn đề xã hội tư tưởng đạo lí
- Soạn bài Tự đánh giá Thư dụ Vương Thông lần nữa
- Soạn bài Kiêu binh nổi loạn (Trích Hoàng Lê nhất thống chí)
- Soạn bài Người ở bến sông Châu
- Thực hành đọc hiểu Hồi trống cổ thành Cánh Diều
- Thực hành tiếng Việt 10 trang 54 Cánh Diều tập 2
- Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm truyện lớp 10 Cánh Diều
- Giới thiệu, đánh giá về một tác phẩm truyện lớp 10 Cánh Diều
- Tự đánh giá Ngày cuối cùng của chiến tranh
- Soạn bài Đất nước Cánh Diều
- Soạn bài Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Thực hành đọc hiểu Đi trong hương tràm
- Phân tích Mùa hoa mận lớp 10
- Soạn bài Mùa hoa mận lớp 10 Cánh Diều
- Thực hành tiếng Việt lớp 10 tập 2 trang 79 Cánh Diều
- Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ Cánh Diều
- Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về một tác phẩm thơ trang 85
- Tự đánh giá Khoảng trời, hố bom
- Soạn bài Bản sắc là hành trang
- Soạn bài Gió thanh lay động cành cô trúc
- Đề thi học kì 2 Văn 10 Cánh Diều 2023
- Thực hành đọc hiểu Đừng gây tổn thương
- Thực hành tiếng Việt lớp 10 trang 105 tập 2 Cánh Diều
- Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học lớp 10 Cánh Diều
- Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá vẻ đẹp của tác phẩm văn học
- Tự đánh giá Phép mầu kì diệu của văn học
- Soạn bài Ôn tập cuối học kì 2 Văn 10 Cánh Diều
- Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì II lớp 10 Cánh Diều
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Hướng dẫn khai Phiếu đảng viên (mẫu 2-HSĐV)
Mẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Biên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viên
Top 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Thực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2024 mới cập nhật
Bộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2024
Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2024
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Tờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2024
Mẫu nhận xét các môn học theo Thông tư 22, Thông tư 27
Bài viết hay Ngữ văn 10 Cánh Diều
Phân tích Gương báu khuyên răn hay nhất
Tìm hiểu về tác giả Đỗ Phủ
Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ Cánh Diều
Phân tích Thần trụ trời hay chọn lọc (7 mẫu)
Phân tích mối quan hệ giữa cảnh và tình trong bài Gương báu khuyên răn
Viết đoạn văn với câu chủ đề: Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn mang một nỗi buồn man mác lớp 10