(8 mẫu) Phân tích Nhàn hay nhất

Tải về

Phân tích Nhàn để hiểu rõ hơn về triết lý sống Nhàn của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ dàn ý phân tích Nhàn kèm theo các bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhàn, phân tích bài Nhàn của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay chọn lọc giúp các bạn học sinh có thêm nhiều kiến thức bổ ích khi phân tích bài thơ Nhàn.

Nhàn là bài thơ Nôm số 73 trong Bạch Vân quốc ngữ thi của tác giả Nguyễn Bỉnh khiêm. Đối với Nguyễn Bỉnh khiêm, quan niệm "nhàn" chính là sống hòa hợp với thiên nhiên, tránh xa vòng danh lợi với tâm hồn thanh thản, thư thái. Ông lựa chọn mình thế đứng bên ngoài của sự cám dỗ danh lợi, vinh hoa – phú quý, bộc lộ thái độ xem thường. Dưới đây là một số mẫu phân tích bài thơ Nhàn, giới thiệu đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Nhàn hay và đặc sắc. Mời các bạn cùng tham khảo.

Quan niệm sống “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

- Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống hòa hợp với thiên nhiên, xa lánh những vinh hoa quyền quý thoát khỏi vòng danh lợi với tâm hồn thanh thản, thư thái.

- Khi thể hiện quan điểm của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn mình thế đứng bên ngoài của sự cám dỗ danh lợi, vinh hoa – phú quý, bộc lộ thái độ xem thường. Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy an nhiên, vui vẻ bởi thi sĩ được hoà hợp với tự nhiên, nương theo tự nhiên để di dưỡng tinh thần, đồng thời giữ được cốt cách thanh cao, không bị cuốn vào vòng danh lợi tầm thường.

1. Dàn ý phân tích bài Nhàn chi tiết

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn, đa tài của văn học dân tộc với phong cách thơ mang đậm tính triết lí, giáo huấn, suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống con người.

+ Bài thơ Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về cuộc sống thanh nhàn nơi thôn dã, thể hiện rõ quan niệm sống của tác giả.

2. Thân bài phân tích bài thơ Nhàn

* Khái quát về bài thơ Nhàn

- Hoàn cảnh sáng tác:

+ “Nhàn” là bài thơ Nôm số 73 trong Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm được làm khi tác giả cáo quan về ở ẩn vì chán ghét cảnh quan trường bon chen và đầy thị phi.

- Giá trị nội dung: Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi, luôn giữ cốt cách thanh cao trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

* Luận điểm 1: Hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm (2 câu đề)

- điệp số từ "một": một mình, lẻ loi

- mai, cuốc, cần câu: những vật dụng quen thuộc, đơn giản, thô sơ của người dân lao động dùng để đào đất, xới đất, câu cá.

-> Hình ảnh người nông dân đang điểm lại công cụ làm việc của mình và mọi thứ đã sẵn sàng, dù một mình nhưng tác giả vẫn vui tươi.

- “Thơ thẩn”: ung dung, tự tại, chăm chú, tỉ mẩn

- “dầu ai”: mặc cho ai

-> Sự khác biệt trong sở thích, lối sống của tác giả: Mặc cho ai có cách vui thú nào, ta cứ thơ thẩn giữa cuộc đời này, sống theo cách riêng của ta, ung dung, thảnh thơi.

=> Cụ Trạng trở về sống giữa chốn thôn quê để hòa hợp với tự nhiên như một lão nông chi điền nghèo khó nhưng an nhàn, thanh bình.

* Luận điểm 2: Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm (2 câu thực)

- Nghệ thuật đối: "ta" với "người", "khôn" với "dại", "vắng vẻ" với "lao xao" -> sự đối lập về cách chọn nơi sống, niềm vui của Nguyễn Bỉnh Khiêm với người đời.

+ “Nơi vắng vẻ”: nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi.

+ “Chốn lao xao”: nơi quan trường, chốn giành giật tư lợi, sang trọng, tấp nập ngựa xe, quyền quý, kẻ hầu người hạ, bon chen, luồn lọt, hãm hại nhau.

-> Ông tự nhận mình là dại, cho người là khôn nhưng thực chất đó là cách nói ngược, hàm ý

-> Theo tác giả, dại thực chất là khôn bởi ở nơi quê mùa con người mới được sống an nhiên, thanh thản. Khôn thực chất là dại bởi chốn quan trường con người không được sống là chính mình.

=> Cách nói ngầm dại khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ trí tuệ, thể hiện sự tự tin đầy bản lĩnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

=> Quan niệm sống “lánh đục tìm trong”.

* Luận điểm 3: Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở chốn quê nhà (2 câu luận)

- "măng trúc", "giá": những thức ăn "cây nhà lá vườn" dân dã quen thuộc do chính tác giả làm ra.

- "tắm hồ sen", "tắm ao": tác giả cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê.

-> Sự giản dị, đạm bạc trong ăn uống và sinh hoạt, có sự gắn bó, hòa quyện giữa con người với thiên nhiên.

- Sự xuất hiện của bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông

=> Sự hài lòng với cuộc sống giản dị, đạm bạc mà thanh cao, tự do, thoải mái, hòa quyện với thiên nhiên suốt 4 mùa của tác giả.

* Luận điểm 4: Triết lí sống nhàn, vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ (2 câu kết)

- Điển tích giấc mộng đêm hè của Thuần Vu Phần -> phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.

- “nhìn xem”: một thế đứng cao hơn, dường như đã tiên liệu ngay từ khi chọn lối sống của một người tự cho mình là “dại” -> Cái nhìn của một bậc đại nhân đại trí, ông nhìn phú quý bằng ánh mắt coi thường, khinh bỉ, không đáng để ông suy nghĩ, bận tâm tới.

=> Tác giả tìm đến rượu để say để chiêm bao và để nhận ra rằng cuộc sống công danh phú quý chỉ như một giấc mơ dưới gốc cây hòe thoảng qua vô nghĩa, cái vĩnh hằng bất biến còn mãi với thời gian là chính là vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp nhân cách của con người.

=> Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống hòa hợp với thiên nhiên, xa lánh những vinh hoa quyền quý thoát khỏi vòng danh lợi với tâm hồn thanh thản, thư thái.

3. Kết bài phân tích bài thơ Nhàn

- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ:

+ Nội dung: Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi, luôn giữ cốt cách thanh cao trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

+ Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú; từ láy được sử dụng linh hoạt; hình ảnh gắn bó với đời sống nhân dân; sử dụng phép đối, điển cố; ngôn từ mộc mạc, tự nhiên mà giàu tính triết lí; nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng.

2. Dàn ý giới thiệu, đánh giá về nội dung nghệ thuật bài Nhàn

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc, một người thông minh, uyên bác, chính trực, coi thường danh lợi.

- Bài thơ “Nhàn” được trích từ tập “Bạch Vân quốc ngữ thi”, là bài thơ nổi tiếng thể hiện được quan điểm sống đẹp đẽ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:

* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:

(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)

- Chủ đề bài thơ: Ngợi ca chữ “Nhàn” trong cuộc sống ẩn dật, tranh xa khỏi chốn quan trường rối ren, đầy ganh đua.

- Mạch cảm xúc: Xuyên suốt bài thơ là tâm hồn tràn ngập niềm vui, say sưa và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả trước cuộc sống thuần hậu của một lão nông tri điền ở chốn làng quê. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ vơi 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

+ Hình ảnh: Dân dã, gần gũi, bình dị mang đậm cốt cách thôn quê Việt Nam:

  • Mai, cuốc, cần câu: vốn là những dụng cụ quen thuộc, cần thiết nhất của cuộc sống nhà nông;
  • Măng trúc, giá: những thức ăn dân giã, có sẵn theo mùa ở chốn làng quê.
  • Hồ sen, ao: những địa điểm đặc trưng, quen thuộc diễn ra các hoạt động sinh hoạt thường ngày của người nông dân.
  • Hình ảnh ẩn dụ “nơi vắng vẻ”, “chốn lao xao”: Gợi liên tưởng ý nhị, sâu sắc: Nơi vắng vẻ: Nơi làng quê, là nơi tĩnh lặng của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi; “Chốn lao xao” là nơi quan trường, chốn giành giật tư lợi, sang trọng, tấp nập ngựa xe, quyền quý, kẻ hầu người hạ.

* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.

- Sự phát triển của hình tượng chính

+ Hai câu thơ đề: Khái quát hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà nhưng tâm hồn lúc nào cũng vui tươi, thư thái. Qua đó thể hiện tâm thế ung dung, tự tại, triết lí sống nhàn của một “lão nông tri điền”

+ Hai câu thực: Chủ thể trữ tình trực tiếp xuất hiện với thái độ ung dung, tự tin vào quyết định lựa chọn của bản thân, qua đó bộc lộ quan điểm sống “lánh đục về trong”.

+ Hai câu luận: Đặc tả cuộc sống sinh hoạt của nhà thơ ở chốn thôn quê. Qua đó bộc lộ tâm trạng vui vẻ và sự hài lòng về cuộc sống đạm bạc, giản dị, hòa hợp với tự thiên nhưng vẫn thanh cao, tự do thoải mái của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

+ Hai câu kết: Nhà thơ khẳng định triết lí sống “nhàn” của bản thân: coi thường vinh hoa phú quý, coi đó chỉ là giấc chiêm bao.

- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:

+ Ngôn từ giản dị, tự nhiên: Sử dụng những từ ngữ thuần việt, mộc mạc, giản dị gợi cuộc sống chốn thôn quê dân dã: dầu ai, thú nào, dại, khôn, vắng vẻ, lao xao, ăn, tắm....

+ Gieo vần “ao”: độc vận, vần chân.

+ Sử dụng linh hoạt, sáng tạo biện pháp tu từ: số từ “một” lặp lại 3 lần trong 1 câu thơ; từ láy “thơ thẩn”; Đảo ngữ “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”; nghệ thuật đối, ẩn dụ, điển tích, điển cố.

+ Ngắt nhịp linh hoạt: khi thì 2/2/3, khi thì 4/3 tạo ra giọng điệu linh hoạt khi thì chậm rãi, ung dung, tự tại trong phong thái, lúc lại sôi nổi, vui tươi, sung sướng, tự hào.

* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại

- So sánh với quan niệm sống “Nhàn” trong bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi:

Nguyễn Trãi cũng lui về ở ẩn, nhưng trong thâm tâm ông vẫn chẳng thể ngưng canh cánh việc nước. Nhàn với ông là khoảnh khắc tạm gạt bỏ công việc để thưởng thức thú vui tao nhã của cuộc sống yên bình, ung dung tự tại. Ngược lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cơ hội được sống nhàn, nên trong cuộc sống nhàn ấy, ông hiện lên là một con người triết lý, trí tuệ, từng trải, thâm trầm và sâu sắc.

3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.

Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

3. Nghị luận phân tích, đánh giá bài Nhàn

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.

+ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của ông mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca trí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội.

+ Nhàn là bài thơ thể hiện sâu sắc quan điểm, triết lý sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:

· Giới thiệu ngắn gọn thông tin khái quát về bài thơ:

- Nhàn là bài thơ Nôm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi, được viết khi ông đã cáo quan về ở ẩn. Nhan đề bài thơ do người đời sau tự đặt.

- Bài thơ được làm theo thể thất ngôn bát cú đường luật với bố cục 4 phần: đề - thực – luận – kết.

- Bài thơ nằm trong chủ đề “nhàn” – một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản chất chữ “nhàn” trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống thuận theo lẽ tự nhiên, phủ nhận danh lợi và giữ cốt cách thanh cao.

· Phân tích, đánh giá được các yếu tố hình thức, nội dung của đoạn thơ

- Hai câu đề:

+ Nhịp điệu 2/2/3 tạo cảm giác thư thái, ung dung.

+ Hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” là những vật dụng quen thuộc của người dân lao động, kết hợp với số từ số ít “một” gợi lên tư thế sẵn sàng cho công việc lao động chân lấm tay bùn của một lão nông tri điền.

+ “dầu ai” là sự lựa chọn nhẹ nhàng mà dứt khoát lối sống cho riêng mình. Mặc cho người đời lựa chọn cuộc sống vui thú nào thì ta vẫn bình thản, vui vẻ với cuộc sống lao động của một người nông dân thực sự.

+ Đánh giá: là một vị quan lớn trong triều với kẻ hầu người hạ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại lựa chọn từ bỏ bổng lộc để về ở ẩn và tự lao động để nuôi sống mình với phong thái ung dung và tự tại, chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm không đề cao danh lợi và lối sống “nhàn” mà hướng tới không phải là nhàn thân mà là nhàn tâm.

- Hai câu thực:

+ Sử dụng phép đối tương phản để khẳng định sự đối lập gay gắt giữa quan niệm sống của ta và người. Nơi vắng vẻ là nơi lánh xa sự ồn ào, tranh chấp, là miền thôn dã hiền hòa là chốn thiên nhiên thuần phác. Chốn lao xao là nơi quan trường đua chen, tranh quyền đoạt lợi, là chốn thị thành náo nhiệt, giả trá, lọc lừa.

+ Tự nhận mình là “dại” và người đời “khôn” là một cách nói mỉa mai ngược giọng, kẻ tưởng mình khôn mà hóa ra là dại, kẻ nhận mình dại thật ra là khôn. Bởi quan trường là môi trường dễ khiến kẻ sĩ đánh mất khí tiết và nhân phẩm, thậm chí trở nên tàn độc hại người. Cái khôn ấy là cái khôn thâm ác, xảo trá, theo quy luật nhân quả sớm muộn cũng sẽ lãnh lấy quả báo và đánh mất đi chính mình. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống ẩn dật, ông tự nhận mình dại vì chê danh lợi nhưng đó là cái dại thức thời, cái dại của kẻ hiểu được quy luật vần xoay của thế sự nhân sinh…Ông từ bỏ tất cả để đổi lấy trạng thái bình yên, thanh thản của tâm hồn, giữ vững khí tiết của người có học…

+ Đánh giá: quan niệm sống tích cực, coi trọng cuộc sống với không gian yên tĩnh, bình yên, giản dị để giữ gìn sự thanh cao của tâm hồn, tránh xa cuộc sống bon chen, đố kị, chạy theo danh lợi tầm thường.

- Hai câu luận:

+ phép đối tương đồng tạo thành một kết cấu cân xứng, hoàn hảo

+ hai động từ chính trong 2 câu thơ: “ăn” và “tắm” - 2 nhu cầu tối thiểu nhất của con người. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đơn giản, chỉ cần ăn đủ để sống và tắm để sạch. Cuộc sống thuận lẽ tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng nấy, rất thong dong, trong lành. Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông thì ăn giá. Mùa xuân thì tắm hồ sen, mùa hạ lại tắm ao.

+ Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng

+ Đánh giá: Đó là sống hòa hợp với thiên nhiên, giản dị, thanh đạm mà thanh cao.

+ Liên hệ bản thân: Lối sống “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm giúp ta biết trân quý thiên nhiên và hướng tới lối sống hòa hợp với thiên nhiên hơn.

- Hai câu kết:

+ Dùng điển tích uống rượu dưới gốc cây hòe, gắn với câu chueyẹn về Thuần Vu Phần trải qua giấc mơ dưới gốc hòe để rồi thấy phú quý tựa chiêm bao.

+ Vì coi phú quý là phù du nên nhà thơ đã dám từ bỏ chốn quan trường danh lợi về với cuộc sống đạm bạc, thanh cao nơi thôn dã, sống hòa hợp với tự nhiên.

+ Đánh giá: Thể hiện triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như vẻ đẹp trí tuệ của nhà thơ, một người am hiểu sâu sắc quy luật đời sống, xã hội và nhân cách.

+ Liên hệ bản thân: quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng ta tới lối sống đề cao nhân cách hơn tiền bạc, giúp ta biết giữ gìn phẩm giá trước những cám dỗ của cuộc đời. Điều này đặc biệt ý nghĩa, nhất là với cuộc sống hiện nay, nhiều người sống thực dụng, bon chen, đố kị vì đồng tiền và danh lợi.

· Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại

Về đề tài “nhàn” trong văn học Trung đại, bên cạnh Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có nhiều nhà thơ, nhà văn khắc, trong đó có Nguyễn Trãi.

Cả hai tác giả đều có lối hành xử giống nhau, sau khi lý tưởng không thực hiện được đã lui về ở ẩn, sống hòa hợp với thiên nhiên và tránh xa chốn quan trường đầy bon chen đố kị.

Tuy nhiên, Nguyễn Trãi khi ở ẩn, sống “nhàn” nhưng tâm tư vẫn nặng trĩu canh cánh nỗi lòng của một người anh hùng muốn cống hiến vì dân vì nước mà lại không còn được trọng dụng. Nên sau này khi được vua Lê Thái Tông phục chức, ông lại hăm hở nhập cuộc. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm mặc dù nhiều lần nhà Mạc mời ông trở lại làm quan nhưng ông lại rất mực từ chối. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống thanh thản, vui thú với cuộc sống ruộng vườn. Điều này đã thể hiện rất rõ trong thi phẩm “nhàn” của ông.

3. Kết bài:

Khái quát tổng hợp nội dung và nghệ thuật của bài thơ: với sự kết hợp hài hòa và đặc sắc của nghệ thuật đối, cách nói ngược, hình ảnh giản dị, gần gũi… bài thơ đã cho ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và quan niệm sống của nhà thơ. Đó là lối sống hòa hợp với thiên nhiên, ung dung, tự tại, sống đạm bạc, giản dị mà thanh cao, vượt trên danh lợi.

Nêu suy nghĩ của người viết: Đây là lối sống tích cực, phù hợp thời đại nhiều nhiễu nhương của tác giả. Nhưng đặt trong xã hội hiện nay nó không còn hoàn toàn phù hợp nữa. Vì cuộc sống hiện đại, bình đẳng, dân chủ tuổi trẻ chúng ta cần dấn thân, theo đuổi những đam mê và khát vọng để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc.

4. Phân tích đánh giá bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn của bài thơ “Nhàn” bay lên qua những vần thơ giản dị, tự nhiên nhưng thâm trầm, khúc triết bởi triết lí sống cao đẹp:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Bài thơ ngợi ca chữ “Nhàn” trong cuộc sống ẩn dật nơi thôn quê, tránh xa khỏi chốn quan trường, triều đình rối ren, đầy ganh đua. Nhan đề bài thơ ngắn gọn, xúc tích chỉ vẻn vẹn có một chữ “Nhàn” nhưng đã gói gọn được trong đó cả tử tưởng, chủ đề của bài thơ. Theo nghĩa thông thường: “Nhàn” là có ít hoặc không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ đến, thể hiện trạng thái rảnh rỗi, thảnh thơi cả thể xác lẫn tinh thần của con người. Trong bài thơ: “Nhàn” thể hiện một thái độ sống, một quan niệm sống đẹp đẽ, cao cả của nhà thơ: Không vướng bận tư lợi, sống cuộc sống an nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, tránh xa chốn thị phi của chốn quan trường.

Tình cảm là sinh mệnh của thơ, là điều kiện hàng đầu của thơ. Cây không thể thiếu gốc, thơ ca cũng không thể thiếu được cốt tủy của riêng mình. Người cho thơ cái gốc cũng như kẻ đang ươm mầm hạt giống của sự sống, cần phải có tâm hồn dạt dào, trù phú để thơ đâm chồi, bám rễ. Trong Mỹ học Hegel viết: “Đối tượng của thơ không phải là mặt trời, núi non, phong cảnh, cũng không phải là hình dáng và các biểu hiện bên ngoài của con người, máu thịt, thần kinh...Đối tượng của thơ là hứng thú tinh thần”. Đọc bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta thấy, xuyên suốt bài thơ là tâm hồn tràn ngập niềm vui, say sưa và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả trước cuộc sống thuần hậu của một lão nông tri điền ở chốn làng quê. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ vơi 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả vô cùng ý nghĩa, đẹp đẽ.

Trong bài thơ, ta bắt gặp những hình ảnh thơ vô cùng dân dã, gần gũi, bình dị mang đậm cốt cách thôn quê Việt Nam. “Mai, cuốc, cần câu” vốn là những dụng cụ lao động quen thuộc, cần thiết trong cuộc sống của nhà nông ở chốn làng quên. “Măng trúc, giá” cũng là những thức ăn dân giã, những sản vật có sẵn theo mùa ở chốn làng quê. Hồ sen, ao là nơi chốn đặc trưng, quen thuộc ở chốn quê mùa, nơi ấy diễn ra các hoạt động sinh hoạt thường ngày của người nông dân. Những hình ảnh này khác hẳn với những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng thường thấy trong thơ Đường luật. Nó mộc mạc, bình dị, rất đỗi thân quen trong cuộc sống con người ở nơi làng quê thanh tịnh. Những hình ảnh gợi hình, gợi cảm ấy đã góp phần dựng lên trước mắt người đọc một bức tranh cuộc sống thanh tịnh, vui thú với điền viên ở chốn thôn quê của chủ thể trữ tình.

Thơ ca là sản phẩm của cảm xúc con người, chính vì thế mà tâm hồn người viết có trong, có sáng, có phong phú dạt dào thì mới tạo nên được những bài thơ hay. Tâm hồn con người ta không đơn thuần chỉ là những cảm xúc yêu, ghét, giận hờn, nó còn là cảm quan, cách đánh giá và cái nhìn của mỗi người vào cuộc sống này. Bài thơ “Nhàn” với vẻn vẹn 8 câu thơ được tổ chức theo cấu trúc của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật quen thuộc. Vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ – chủ thể trữ tình được khắc họa hiện lên qua bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Hai câu thơ đề của bài thơ đã khái quát hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà nhưng tâm hồn lúc nào cũng vui tươi, thư thái. Đó là cuộc sống lao động của một nhà nông chính hiệu với các dụng cụ lao động chân tay tuy cực nhọc, vất vả nhưng vui vẻ, tự do, tự tại: mai cuốc, cần câu. Qua đó thể hiện tâm thế ung dung, tự tại, triết lí sống nhàn của một “lão nông tri điền”. Giọng thơ chậm rãi, kết hợp số từ “một” được lặp đi lặp lại ba lần trong một câu thơ cho thấy mọi thứ đều đã sẵn sàng để bắt đầu một cuộc sống vui thú với điền viên. Chỉ có “một” thôi, không thừa, không thiếu, vừa đủ để con người sống thảnh thơi, tự do, tự tại. Từ láy “thơ thẩn” gợi tâm thế ung dung, tự do, tự tại, nhàn tảng, không vướng bận, mưu cầu điều gì của nhà thơ:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Bước sang hai câu thực, chủ thể trữ tình trực tiếp xuất hiện qua đại từ “Ta” với thái độ ung dung, tự tin vào quyết định lựa chọn của bản thân, qua đó bộc lộ quan điểm sống “lánh đục về trong” của nhà thơ. Nhà thơ tự nhận cái dại về mình, nhường khôn cho kẻ khác để lựa chọn cuộc sống ở “nơi vắng vẻ” . Câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật đối và biện pháp tu từ ẩn dụ “nơi vắng vẻ”, “chốn lao xao”. Gợi lên những liên tưởng ý nhị, sâu sắc. Nơi vắng vẻ được hiểu là nơi làng quê, là nơi tĩnh lặng của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi. “Chốn lao xao” là nơi quan trường, chốn giành giật tư lợi, sang trọng, tấp nập ngựa xe, quyền quý, kẻ hầu người hạ, ở nơi ấy con người phải chạy đua, phải đấu đá, chèn ép, thậm chí là giẫm đạp lên nhau để sinh tồn, để tranh giành quyền cao, chức trọng, tiền bạc, công danh...Câu thơ đã thể hiện được quan niệm sống “Nhàn” của nhà thơ. Nhàn là lui về sống ẩn dật ở chốn quê mùa, tìm đén nơi thanh tịnh để sống hòa hợp với tự nhiên, tránh xa chốn quan trường, triều chính. Đọc câu thơ chúng ta cảm nhận được có chút gì đó giọng điệu mỉa mai, châm biếm trong cảm xúc của nhà thơ:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Hai câu luận với bút pháp tự đã đặc tả được cuộc sống sinh hoạt của nhà thơ ở chốn thôn quê. Qua đó bộc lộ tâm trạng vui vẻ và sự hài lòng về cuộc sống đạm bạc, giản dị, hòa hợp với tự thiên nhưng vẫn thanh cao, tự do thoải mái của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bốn mùa Thu – Đông – Xuân – Hạ được nhắc tới không phải để chỉ bức tranh tứ bình hay tứ quý mà lại gợi thời gian quanh năm, bốn mùa với những sản vật đặc trưng. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một lối sống hòa hợp với thiên nhiên, với sinh hoạt bốn mùa tràn đầy hương vị và màu sắc. Bằng điệp từ “ăn”, “tắm” được lặp lại kết hợp với các hình ảnh liệt kê “măng trúc”, “giá”, “hồ sen”, “ao” cùng với các từ chỉ thời gian, câu thơ đã khắc họa được nếp sinh hoạt lặp lại tuần hoàn của tác giả. Sự giản dị ở đây là những món ăn dân dã, đạm bạc có sẵn trong tự nhiên thuần khiết, thuận theo “mùa nào thức ấy”, chẳng phải nhọc công, vất vả tìm kiếm mà luôn có sẵn, gần gũi, quen thuộc. Không chỉ là những món ăn mà “trúc” và “sen” còn gọi tới phẩm chất, khí tiết thanh cao của người quân tử. Cuộc sống đã dân dã với những sinh hoạt hằng ngày như “ăn”, “tắm” nhưng lại gợi được niềm vui thú riêng của nhà thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa tới trước mắt người đọc một khía cạnh khác nữa của nhàn. Nhàn là sống thuận theo tự nhiên, là lối sống hòa hợp giữa con người với thiên nhiên và cuộc sống xung quanh.

Hai câu thơ cuối bài thể hiện một cách sâu sắc quan niệm triết lí nhân sinh của chủ thể trữ tình. Nhà thơ đã mượn một tích trong truyện đời Đường để giúp truyền tải nội dung muốn nói. Chuyện kể về Thuần Vu Phần là một viên tướng tài, tính tình phóng khoáng, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về nhà, lấy uống rượu làm vui. Một hôm,Vu Phần say rượu ngủ bên gốc cây hoè, mơ thấy mình được làm phò mã cho vua nước Hoè, được hưởng giàu sang phú quý, tỉnh dậy mới biết đó chỉ là giấc mơ. Tác giả mượn điển tích này để bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chi là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng định thêm một lầii nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình. Lánh đời ẩn dật, cách ứng xử đó của tác giả,có vẻ tiêu cực. Nhưng trong hoàn cảnh nào đó, khi muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình, đó lại là cách ứng. xử tích cực.

Một tác phẩm thơ đích thực có giá trị phải đạt đến đỉnh cao cả nội dung lẫn hỉnh thức: cả lời (ngôn từ, hình thức nghệ thuật), cả tư tưởng, cảm xúc phải đạt đển độ chín muồi, đẹp đẽ nhất, mãnh liệt nhất (chín đỏ). Xuân Diệu cho rằng: "Thơ hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc". Như vậy, một tác phẩm thơ hay yêu cầu: Lời thơ phải đẹp: giàu hình ảnh, tinh tuý, hàm súc, có âm thanh nhịp điệu rõ rệt...Lời thơ phải chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, cao đẹp, những suy ngẫm sâu sắc về con người cuộc đời. Những lời đẹp đẽ ấy chính là sự thăng hoa cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ trước cuộc đời. Ngược lại, cảm xúc mãnh liệt, suy ngẫm sâu sắc phải được thể hiện qua lời đẹp. "Tài gia tình chi phát" (tài do tình mà ra). Chỉ khi cái đẹp của ngôn từ của hình thức nghệ thuật chứa đựng, thể hiện cảm xúc, suy ngẫm mãnh liệt sâu sắc của nhà thơ trước cuộc sống thì mới có thơ đích thực - thơ hay. Trong bài thơ “Nhàn” ta cũng thấy được những nét đặc sắc ấy. Bài thơ có ngôn từ giản dị, tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng những từ ngữ thuần việt, mộc mạc, giản dị gợi cuộc sống chốn thôn quê dân dã: dầu ai, thú nào, dại, khôn, vắng vẻ, lao xao, ăn, tắm.... Sử dụng linh hoạt, sáng tạo biện pháp tu từ: số từ “một” lặp lại 3 lần trong 1 câu thơ; từ láy “thơ thẩn”; Đảo ngữ “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”; nghệ thuật đối, ẩn dụ, điển tích, điển cố. Đặc biệt cách ngắt nhịp linh hoạt khi thì 2/2/3, khi thì 4/3 tạo ra giọng điệu linh hoạt khi thì chậm rãi, ung dung, tự tại trong phong thái, lúc lại sôi nổi, vui tươi, sung sướng, tự hào của nhân vật trữ tình.

Quan niệm về chữ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở bài thơ gợi cho chúng ta nhớ đến quan niệm của Nguyễn Trãi được thể hiện trong bài thơ “Cảnh ngày hè”. Nguyễn Trãi cũng lui về ở ẩn, nhưng trong thâm tâm ông vẫn chẳng thể ngưng canh cánh việc nước. Nhàn với ông là khoảnh khắc tạm gạt bỏ công việc để thưởng thức thú vui tao nhã của cuộc sống yên bình, ung dung tự tại. Ngược lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cơ hội được sống nhàn, nên trong cuộc sống nhàn ấy, ông hiện lên là một con người triết lý, trí tuệ, từng trải, thâm trầm và sâu sắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn nhận ra đâu là thực đâu là hư, tự nhận chính mình dại nhưng thực chất lại vô cùng khôn ngoan khi coi thường hư vinh, thoát khỏi cái trần tục tầm thường. Còn với Nguyễn Trãi, nhàn mà hóa ra lại không nhàn và điều đó đã được thể hiện qua hai câu thơ cuối: luôn hướng đến dân, đến nước. Nói tóm lại, nếu như Nguyễn Bỉnh Khiêm hay ở tài trí, bản lĩnh hơn người thì Nguyễn Trãi lại đẹp ở tâm hồn nghệ sĩ cùng tấm lòng vì dân vì nước, bình dị nhưng cũng thật vĩ đại. Từ đó, mỗi một thi nhân đều có những nhìn nhận riêng, góp phần điểm tô thêm màu sắc cho nghệ thuật văn học nước nhà.

Voltarie từng nói: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. Thơ ca chỉ bật ra khi trong tim người nghệ sĩ đang rung lên những nhịp đập thổn thức, đang ngân lên những điệu ngân của tâm hồn. Chính bởi vậy, mỗi vần thơ dù ngắn gọn nhưng lại có sức truyền tải lớn tới người đọc. Với lẽ đó, bài thơ “Nhàn” dù đã ra đời cách chúng ta hàng trăm năm nhưng tới nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó xứng đáng là một viên ngọc sáng lấp lánh cùng năm tháng trong diễn đàn thơ Việt Nam trong quá khứ, đương đại và cả tương lai.

5. Phân tích Nhàn

Mẫu 1

Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ “Nhàn “được rút trong tập thơ “Bạch Vân am thi tập”. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui , an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lặp “một”-“một” đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. “Một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoài kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.

Đến hai câu thơ thực tiếp theo càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của “lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm”.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái “dại” khiến nhiều người ghen tị và ngưỡng mộ. Ông rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái của ông. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khôn”. Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý “dại” –“khôn”, “vắng vẻ” – “lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì “nơi vắng vẻ” mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.

Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài long. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.

Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

Mẫu 2

Phân tích Nhàn

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trung Am, xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng, ông đỗ Trạng nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà Mạc. Ông đã để lại cho đời tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ca ngợi ý chí thành cao của kẻ sĩ và biểu dương quan niệm sống nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội đương thời.

Nhàn là bài thơ Nôm nằm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Nhan đề bài thơ là do người đời sau đặt. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường.

Hai câu thơ đầu phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Quan Trạng về sống giữa chốn thôn quê nay đã giống như một “lão nông tri điền”, hằng ngày làm bạn với những công cụ lao động như mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để câu cá,.;., Cách dùng số từ tính đếm rành rọt cho thấy tất cả đã trở nên gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống của ông.

Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác đơn sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền ” (đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn) xa xưa. Quan Trạng đang áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng đã là: một sự ngông ngạo trước thói đời hám danh, hám lợi. Ngông ngạo mà không ngang tàng, cứ thuần hậu, nguyên thủy, chân chất nông dân:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Hai chữ Thơ thẩn phản ánh một cách tài tình phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân, si; trong lòng không còn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ dầu ai vui thú nào còn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Chữ ai vốn là một đại từ phiếm chỉ, được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, trở về quê nhà tức là trở về với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Nhân cách thanh cao Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. Vắng vẻ đối lập với lao xao, ta đối lập với người. Tìm nơi vắng vẻ không phải là lánh đời mà là tìm nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc vinh liền nhục. Nơi vắng vẻ là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen. Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tươi xanh, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. Chốn lao xao là chốn cửa quyền trống giong cờ mở, là đường hoạn lộ tấp nập ngựa xe. Đến chốn lao xao là đến chốn chợ lợi đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để giành giật quyền lợi, để vinh thân phì gia. Đây là nơi có nhiều nguy hiểm khôn tường.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả có trí tuệ vô cùng sáng suốt. Sáng suốt trong sự chọn lựa: Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, mặc cho: Người khôn, người đến chốn lao xao. Sáng suốt trong cách nói đùa vui hóm hỉnh, ngược nghĩa: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại.

Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại,

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

(Thơ Nôm)

Như vậy là quan niệm dại, khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian: Ở hiền gặp lành; ở ác gặp ác.

Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao biết mấy:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt giản dị mà không kém phần thú vị nơi thôn dã với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhà thơ nói về chuyện sinh hoạt hằng ngày như chuyện ăn, chuyện tắm, tuy cực kì đơn sơ nhưng thích thú ở chỗ mùa nào cũng sẵn, chẳng phải nhọc công tìm kiếm về mặt tinh thần, cuộc sống giản dị như thế cho phép con người được tự do, tự tại, không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không cần phải theo đuổi công danh, phú quý, không bị gò bó, ràng buộc vào bất cứ khuôn phép nào.

Những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đều là cây nhà lá vườn, do mình tự làm ra, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt? Quan Trạng giờ đây cũng tắm hồ sen, tắm áo như bao người dân quê khác.

Là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật của Tạo hóa và của xã hội. Theo ông, cái khôn của bậc chính nhân quân tử là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hòa hợp với thiên nhiên thuần khiết.

Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Quan Trạng khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống nhàn của mình. Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách, làm cho lập trường thêm kiên định để nhà thơ có đủ quyết tâm từ bỏ chốn quan trường lao xao danh lợi, tìm đến nơi thiên nhiên vắng vẻ mà trong sạch, thanh cao để di dưỡng tinh thần, giữ vững hai chữ thiện lương.

Nhàn là chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại. Nhàn là một nét tư tưởng và văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức. Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, có điều kiện dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Sống nhàn đem lại những thú vui lành mạnh cho con người, Biết sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết học lớn.

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân, ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà ông gọi là chốn lao xao. Nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.

Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khá rõ nét qua bài thơ nhàn. Từ bức chân dung giản dị, mộc mạc ấy toát lên vẻ đẹp nhân cách cao quý, vẻ đẹp trí tuệ tuyệt vời của bậc đại Nho mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

6. Phân tích bài thơ Nhàn

“Thơ khởi phát từ lòng người ta”, chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở nơi người cầm bút. Một tác phẩm thơ chân chính, muốn vượt lên sức mạnh của thời gian, của lòng người, ẩn chứa trong đó những tình cảm thật, suy nghĩ thật và phải được viết lên từ mồ hôi và nước mắt của nhà thơ. Với “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi tới người đọc những quan niệm, triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến tận ngày nay người ta vẫn phải suy ngẫm.

Cũng giống như Nguyễn Trãi, sống giữa một thời đại loạn lạc, đầy biến động, nơi mà các giá trị truyền thống đạo đức bị đảo lộn, con người trở nên vụ lợi hơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cuộc sống nơi thôn dã, vui với việc “cày nhàn câu vắng”, tự mình thích thảng với lòng mình, tạm quên hết sự đời “dầu ai vui thú nào”. Gửi chí hướng về nơi thôn dã, cuộc sống của thi nhân nơi thôn quê hiện lên như một “lão nông chi điền”

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Bài thơ mở đầu bằng phép liệt kê kết hợp với điệp từ “một” đã gợi mở ra một cuộc sống đơn sơ, chất phác với những công cụ lao động quen thuộc của người dân quê. Một cuộc sống thuần phác, giản dị với “mai”, “cuốc” và “cần câu” nhưng an nhàn và thanh tao. Đặc biệt, hai chữ “thơ thẩn” kết hợp với nhịp thơ 2/2/3 một cách tài tình, đã gợi ra chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa chốn thôn quê dân dã. Đó là dáng điệu ung dung, thu thái của một nhà thơ, cũng là nhịp điệu cuộc sống thường nhật của nhân vật trữ tình. Thanh thản, tự tại là tâm thế con người đã xác định được lẽ sống của mình, rời xa cõi trần tục, lòng không vướng bận xung quanh. Câu thơ cũng là lời bày tỏ thái độ cự tuyệt đời sống thị thành, chối bỏ mọi sự nhập cuộc, tự tách mình khỏi thế nhân trụy lạc để giữ khí tiết thanh tao.

Trở về với cuộc sống thuần phác, chân chất, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục cụ thể hóa bằng một đời sống tinh thần và lề lối sinh hoạt hòa hợp với thiên nhiên. Ông nương theo quy luật đất trời, thuận theo thời tiết bốn mùa

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Các nguyên liệu cho đời sống, không gian sinh hoạt đều rất bình dị, đơn sơ với “măng trúc”, “giá” là những món ăn dân dã sẵn có trong tự nhiên; “ao”, “hồ” là những bến nước thôn quê đơn sơ và bình dị. Đó là sự thể hiện một lối sống, một thái độ xử thế cầu nhàn không hề kham khổ mà trái lại nó toát lên vẻ thanh cao của nhân vật trữ tình. Con người giờ đây đã hòa hợp với thiên nhiên bốn mùa, với sự luân chuyển luân chuyển của thời gian và không thể tách khỏi thiên nhiên.

Như vậy, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn trước hết là một cách sống. Cùng với “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi, ông đã khẳng định một lối sống thanh tao của các bậc hiền tài giữa cảnh đất nước suy tàn, loạn lạc: rời xa cõi trần phàm tục để tìm về với thiên nhiên, sống một cuộc sống giản dị, thuần phác để giữ tâm hồn được thư thái, thanh sạch.

Thi nhân đau đớn, phê phán thế thái nhân tình, đạo lí suy vi và tìm đến sự hòa giải nội tâm bằng một lối sống gián cách với cõi đời. Đã hơn một lần, ông lên tiếng chối bỏ lối sống đô hội thị thành, sống một cuộc sống tự tại, không đua tranh

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Bằng nghệ thuật đối rất chỉnh, tác giả đã đối lập giữa cái “vắng vẻ” với “chốn lao xao”, giữa “ta” với “người”. Cái “lao xao” đó chính là nơi trần tục đầy những sự nhân vi, toan tính, bon chen mà Nguyễn Bỉnh Khiêm từng chiêm nghiệm, chán ghét và thể hiện trong nhiều bài thơ khác: “Thành thị vốn đua tranh giành giật”; “Vật vờ thành thị làm chi nữa”. Đối lập lại, ông đề cao lối sống dân dã, thanh đạm, kiệm cần, đề cao “nơi vắng vẻ” và rất mực coi trọng tinh thần tự tại bằng một lối nói khiêm nhường “Ta dại…”. Đương nhiên, đó là một lối sống mới mẻ, có sự hấp dẫn bởi vẻ đẹp đạo lí, cách biệt với “thói đời”. Nếu nhìn cuộc sống ấy theo quan niệm đạo đức nhà nho một chiều, người ta không dễ dàng chấp nhận những mầm mống lối sống mới đó. Trên tất cả, ông đã hòa giải được những phức tạp nội tâm bằng tinh thần tự tại và thái độ gián cách với thế tục, đứng trên thế tục. Nhưng xét đến cùng, đó mới chính là cái khôn của bậc đại trí, quay lưng lại với danh lợi, sống một cuộc sống an nhàn để giữ cho tâm hồn thư thái.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chứng kiến và chiêm nghiệm lẽ đời, đã đi đến cùng của sự khôn dại để thấu hiểu và tìm ra triết lí “nhàn” – cũng là triết lí nhân sinh sâu sắc

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Thi nhân đã nhắc đến giấc mộng dưới cây hòe của Thuần Vu Phần để thức tỉnh một chân lí: của cải, vật chất chỉ là ảo mộng, như một giấc chiêm chiêm bao, bất chợt đến rồi lại bất chợt đi. Phải trải qua tất cả cảnh đời, trường đời như thế rồi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đạt tới thế ứng xử văn hóa mang tinh thần triết lí về nhàn dật và tự tại. Một tinh thần nhàn dật và tự tại như thế nhiều khi biểu lộ cách nói hơn là hành động thực, một giải pháp tình thế hơn là chí hướng cả đời người, một sự độc tôn tâm trạng bất đắc dĩ hơn là khả năng tìm ra lối thoát tối ưu. Bởi xét đến cùng, giữa một xã hội đâu đâu cũng là hư danh, phú quý phù du, mấy ai được như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi để nhìn thấy lẽ đời, sự đời, để gìn giữ khí tiết thanh tao. Nhân vật trữ tình đã tìm đến cái say để tỉnh, dùng mộng để nói thực và thốt lên những chiêm nghiệm sâu sắc. Cũng như chính thi nhân đã bày tỏ rõ ràng trong Bài tựa tập thơ Am Bạch Vân: “Ôi, nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy, mà thơ lại là đề nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ chí để ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chỉ thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm vui…”

Có thể nói, nhàn là một chủ đề rất phổ biến trong thơ ca trung đại, là một nét tư tưởng văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là tầng lớp trí thức. Sống nhà dật với tự nhiên để tu dưỡng nhân cách, đem lại thú vui tao nhã cho con người. Biết sống sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết học lớn. Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm in đậm dấu ấn tinh thần con người cá nhân trước một thời đại mất phương hướng, chao đảo, loạn lạc, nhiều đổi thay. Đặt trong tương quan với nhiều tác phẩm thơ văn khác, các sáng tác của ông hàm chứa tính phức hợp của cung bậc tâm trạng. Thi nhân đã đưa ra nhiều cách thức hình dung về cuộc đời, soi nhìn cuộc sống từ nhiều góc cạnh, tự đặt mình trong mỗi tình huống cụ thể mà bài thơ “Nhàn” chỉ là một chiêm nghiệm riêng. Điều này đặt ra yêu cầu tiếp nhận thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cần được xem xét trong tính tổng thể song cũng phải chú tới mối liên hệ giữa các đường hướng tâm trạng phù hợp với từng cảnh đời và chặng đường đời cụ thể.

Như vậy, khép lại bài thơ, người đọc vẫn còn vương vấn cuộc sống an nhàn, thanh tao, giản dị mà Nguyễn Bỉnh Khiêm coi đó là cách sống, là triết lí sống sâu sắc: vinh hoa phú quý chỉ là phù du, như một giấc mộng, rời xa chốn hư danh phàm tục đó để giữ khí tiết thanh sạch mới là bậc đại trí. Điều đó đã làm nên sức sống trường tồn bất diệt của tác phẩm trước sức mạnh của dòng thời gian và đời người.

7. Phân tích bài thơ Nhàn ngắn gọn

Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ “Nhàn“ được rút trong tập thơ “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui, an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

Xuyên suốt bài thơ là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ Đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lặp “một” - “một” đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. “Một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phong kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoài kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.

Đến hai câu thơ thực tiếp theo càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của “lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm”.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái “dại” khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Ông rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái của ông. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khôn”. Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý “dại” - “khôn”, “vắng vẻ” - “lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như bấy giờ và với cốt cách của ông thì “nơi vắng vẻ” mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.

Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phóng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.

Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ Đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

8. Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho.

Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Thân bài phân tích bài thơ Nhàn

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch.

Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này!

Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi.

Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình.

Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao.

Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn.

Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần.

Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một mình ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại .

Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư .

Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình .

Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:

Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân.

Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Kết bài phân tích bài thơ Nhàn

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

9. Cảm nhận về bài thơ Nhàn

Có thể nói rằng với Nhàn là bài thơ được sáng tác trong thời gian Nguyễn Bỉnh Khiêm về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của ông đã thể hiện được thái độ sống, một triết lí sống vô cùng rõ ràng. Và triết lí ấy được gói gọn chỉ trong một chữ “nhàn”.

Mở đầu bài thơ tác giả viết một câu kể như sau:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta có thể thấy được ngay hai câu thơ mở đầu tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần ở trong một câu thơ. Nó không chỉ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc đó chính là hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” mà còn là những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông vô cùng chân chất vừa mang bóng dáng của một “Tao nhân mặc khách ngâm nga” vậy. Đó chính là một hình dáng ung dung thoải mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần.

Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với người đời, và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng đã toát lên được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thú điền viên của một lão nông già.

Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Không khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể hiện đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn quê thật thanh bình vô cùng an nhàn, vô lo vô nghĩ. Thực sự đó chính là tâm hồn của con người luôn luôn hòa nhập cùng với thiên nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến nơi quan trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải chăng tác giả “dại” cho nên ông mới tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường.

Nhưng xét trong vần thơ này lại hoàn toàn ngược lại, “dại” có nghĩa là khôn, và từ “khôn” có nghĩa là dại. Bạn có thể nhận thấy được chính lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn luôn phải suy nghĩ đắn đo, khiến cuộc sống luôn vội vã. Hai câu thực như mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, chính vào vòng danh lợi. Còn đối với tác giả thì ông dường như cũng đã phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch.

Qua 4 câu thơ ta cũng thấy rõ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống thanh cao, hòa nhập với thiên nhiên và tránh xa tham vọng. Khi đọc đến hai câu luận cũng đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vô cùng bình dị của nhân vật trữ tình.

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Măng, tre, trúc, giá được xem chính là đồ ăn dân dã từ xa xưa mà con người ta vẫn thường ăn. Nó gắn liền với cuộc sống thôn quê chất phác và hết sức quen thuộc trong đời sống. Còn với câu thơ:

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Câu thơ khiến ta nhớ về những hình ảnh quen thuộc ở làng quê, về cái lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả thực sự hòa mình với thôn quê thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh đạm, một cuộc sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức đấy. Thực sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. Chỉ là một cảnh sinh hoạt đời thường đơn giản nhưng nó lại thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên, đồng điệu với con người.
Cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường này tác giả đã đến với hai câu kết, với sự đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp nhất:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Điển tích “cội cây” xuất hiện như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất như một giấc mơ mà thôi. Và qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng chính là một thái độ rất đáng trọng bởi tác giả đã sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt và thực sự đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác.

Tóm lại, Nhàn đã thể hiện rõ sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện rõ một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi, làm gương cho bao thế hệ mai sau nữa.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
141 163.423
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm