(9 mẫu + 2 dàn ý) Phân tích người đàn bà hàng chài siêu hay

Tải về

Trong truyện ngắn Chiếc Thuyền Ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, hình ảnh người đàn bà hàng chài đã được tác giả lột tả rất rõ nét. Sau đây là dàn ý phân tích hình ảnh người đàn bà làng chài cùng với bài văn mẫu phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài hay sâu sắc giúp các bạn cảm nhận được số phận của người phụ nữ khắc khổ, luôn cam chịu để chăm lo cho con cái.

Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ tổng hợp các bài văn mẫu phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài giúp các em hiểu rõ hơn về nhân vật trong tác phẩm.

Tóm tắt nhân vật người đàn bà hàng chài

1. Tóm tắt nhân vật người đàn bà hàng chài

Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn thuộc loại truyện tư tưởng. Người đàn bà trong tác phẩm không có một cái tên cụ thể, có lẽ chị chính là đại diện cho những con người có số phận đáng thương nhưng đối lập với vẻ ngoài xấu xí là vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, một vẻ đẹp khuất lấp.

Người đàn bà xuất hiện với vẻ ngoài lam lũ. Người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội (giơ lưng chịu đòn không một tiếng kêu la), lại là một người rất thấu hiểu lẽ đời, biết cảm thông và biết hy sinh. Chị chia sẻ cùng chồng gánh nặng mưu sinh bằng cách chìa tấm lưng ra chịu những trận đòn, hiểu rằng ấy là một cách giải tỏa những ấm ức cuộc sống. Chị chắt chiu cho mình và cho con những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi và quý giá. Chị biết giữ gìn cho con một tâm hồn hướng thiện khi xin chồng đưa mình lên bờ, đến quãng vắng mà đánh. Chị lại giữ cho con một gia đình trọn vẹn, một người cha gánh vác bằng một lời cầu xin thống thiết “đừng bắt con bỏ nó”. Rõ ràng, đằng sau cái vẻ xù xì thô mộc ấy là những vẻ đẹp bất ngờ của con người, như một niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào con người và cuộc đời.

2. Dàn ý phân tích hình tượng người đàn bà làng chài

I. Mở bài

– Giới thiệu Nguyễn Minh Châu

– Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

– Giới thiệu nhân vật người đàn bà hàng chài

Tham khảo mở bài của đề này trong mục Phân tích.

II. Thân bài

1. Tên tuổi

– Không tên tuổi cụ thể, gọi phiếm định “người đàn bà hàng chài”, “mụ”.

– Chỉ là một người vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.

2. Vóc dáng ngoại hình

– Thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”- đó là hình ảnh một con người lam lũ, mất hết sinh lực, niềm vui, sức sống.

– Nghèo khổ, nhọc nhằn (lưng áo bạc phếch)

– Mặc cảm, tự ti (dáng vẻ lúng túng)

=> Nhà văn thể hiện nỗi xót thương cho số phận con người ngay khi miêu tả ngoại hình, dáng vẻ của nhân vật.

3. Số phận đau khổ, bất hạnh

*Chuyển ý:

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng hàng.

– Một người đàn bà bất hạnh, nhẫn nhục chịu đựng (người đàn bà bị đánh)

– Người đàn bà chịu những nỗi đau khổ chồng chất: mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, chịu đựng những trận đòn của chồng, nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.

4. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách.

* Chuyển ý:

- Tham khảo chuyển ý sau:

Đằng sau cái vóc dáng thô kệch ấy, đằng sau cái vẻ ngoài rách rưới ấy, đằng sau cái hành động nhẫn nhịn ấy người đọc còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, tính cách khuất lấp của người đàn bà hàng chài này.

– Chuyển ý hay hơn:

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời ở người đàn bà rách rưới này.

a. Vẻ đẹp của một người từng trải sâu sắc: đẹp nhất nhưng đặc biệt nhất

– Nguyên nhân vũ phu của người chồng: do hoàn cảnh ép buộc chứ không phải bản chất

– Người đàn bà hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chèo chống khi phong ba bão táp ập đến.

– Từ khi có Đảng, nhà nước cuộc sống còn bất cập: không hợp lý, không hợp lòng dân.

b. Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, độ lượng: thiên chức của người phụ nữ.

– Chị tự nguyện cho chồng đánh, không kêu, không chống trả, không chạy trốn → Một kẻ ngu muội chìa lưng cho chồng đánh (cái nhìn từ xa)

– Nhìn vào tấm lưng bạc phếch (nhìn vào cái nghèo đói, đau khổ), ông ta thương vợ nên ông ta đánh vợ → biểu hiện tiêu cực.

– Chị không trách chồng mà kéo tội lỗi về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)

– Chị chấp nhận những trận đòn như một cách giải tỏa những bức bách, u uất trong lòng người chồng → hi sinh cao cả, chị hiểu chồng mình

– Chị thấy trong chuyện này mình là người có lỗi.

c. Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng

– “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình”

→ Người mẹ này vừa thương con vô cùng, khi vô tình để thằng bé Phác nhìn thấy cảnh trái ngang → vừa đau đớn, vừa xấu hổ

– Van nài đứa con, ôm chầm lấy nó → sợ nó hành động dại dột với bố nó.

– Khi nhắc đến cảnh hòa thuận trên thuyền, chị hạnh phúc khi “ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”, “khuôn mặt xám xịt của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”

III. Kết bài

Cảm nghĩ của mình về nhân vật.

3. Dàn ý phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

MB:

- Giới thiệu tác giả ..., tác phẩm

- VĐNL: người đàn hàng chài (đặc trưng: mang vẻ đẹp khuất lấp)

TB:

1, Khái quát:

- Tác phẩm

- Nhận vật: không tên riêng => ... qua đó nhà văn NMC đi sâu phản ánh hiện thực đời sống của người dân làng chài sau khi chiên tranh kết thúc. Đồng thời NMC cũng đã cố công đi tìm hạt ngọc ẩn dấu bên trong tâm hồn con người VN trong cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn.

2. Phân tích nhân vật:

a. Hoàn cảnh, ngoại hình:

- Hoàn cảnh: lúc nhỏ - lấy chồng – khi sinh con đẻ cái – gánh nặng mưu sinh ....

- Ngoại hình: xấu xí, mặt rỗ, thân hình cao lớn, thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi, tái nhợt sau một đêm thức trắng kéo lưới. Dáng đi chậm chạp, quần áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng (sáng sớm)

=> hiện thân cho sự nghèo khổ, lam lũ, vất vả với những lo lắng mưu sinh thường nhật.

b. Số phận

- Chồng chất đớn đau thiệt thòi:

+ Thua thiệt về nhan sắc => tình duyên lận đận (ko ai yêu, chửa trước)

+ Khi lấy chồng lâm vào cảnh túng thiếu, nghèo đói, đông con => lam lũ, nhọc nhằn kiếm ăn cơ cực (thức trắng ...ko đủ để nuôi con => hàng tháng trời cả gia đình ăn xương rồng luộc chấm muối)

+ Vì quá khổ nên chồng bức xúc => xách vợ ra đánh (3 ngày /5 ngày ) => thậm tệ dã man => như kẻ thù số 1.

ð Nỗi đau trong kiếp nhân sinh => đứt từng khúc ruột.

Liên hệ: Chị Dậu, Mị

-> Hiện thân đầy đủ nhất về nỗi khổ đau của con người sau chiến tranh, khổ vì mưu sinh đời thường, vì bạo lực gia đình.

-> Góp phần tạo giá trị hiện thực sau => số phận con người sau chiến tranh => NMC xua tan làn khói ngư phũ lãng mạn => cuộc đời vẫn còn những đau thương.

c. Vẻ đẹp nhân phẩm

- Giàu lòng tự trọng, giàu đức hi sinh (thầm lặng):

- Bao dung, vị tha

- Thấu hiểu lẽ đời,

+ Thiên thức của người mẹ

+ Một gia đình thực sự hạnh phúc:

+ Hiểu tận cùng nỗi thống khổ của những con người lao động trong cái mưu sinh nhọc nhằn => không lên án chồng mà ngược lại cảm thông, thấy hiểu.

+ Hiểu tội lỗi lớn nhất của con người phạm phải tội bất hiếu => trách nhiệm thuộc về người mẹ (con hư tại mẹ) => đau xót quặn thắt.

+ Chắt chiu được những giọt hạnh phuc dù mong manh, nhỏ bé (các con được ăn no, cảnh sống tối sầm, cùng đường => cảm nhận sự hạnh phúc (đôi lúc gia đình cũng hòa thuận, vui vẻ).

-> Nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh thấu hiểu lẽ đời; tiêu biểu cho vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng cảm động.

-> Khuất lấp => ngọc trong đá => với vẻ đẹp nhân phẩm thì chị chính là hạt ngọc ẩn sâu trong con người VN mà nhà NMC đã cố công đi tìm.

c. Ý nghĩa:

- Góp phần thức tỉnh:

+ Đẩu ‘vỡ lẽ” ra cái gì đó.

+ Phùng: hiểu hơn vê chị, Đẩu và về chính mình.

- Góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc tác phẩm.

- Độc giả: NMC khi xây dựng nhận vật người đàn hàng chài chua xót, ngậm ngùi, cảm thông, thấu hiểu , sự nâng niu, trân trọng =trong cái khó khăn, khốn khổ => tìm được niềm vụi, niềm hạnh phúc dù nhỏ nhoi => nó cũng đủ để nâng giấc cho người đang rơi vào cảnh cùng đường tuyêt lộ => đây là thông điệp sâu sắc => nhân văn => M.Gorki: “Văn học là nhân học”.

- Nhân vật người đàn bà hàng chài đã góp tạo nên thành công cho tác phẩm.

d, Nghệ thuật:

- Tình huống truyện

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Ngôn ngữ đối thoại

- Miêu tả tâm lí nhân vật

=> tạo dựng nên nhân vật người đàn bà hàng chài có sức ám ảnh rất lớn. Để khi gấp lại trang sách trong lòng ...

e. Đánh giá chung:

KB

4. Nhân vật người đàn bà hàng chài

a. Số phận:

- Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị.

+ Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định. Có lẽ đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

+ Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn.

-> Cách gọi tên nhân vật như vậy vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng lại vừa xác định.

– Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên một chiếc thuyền đánh cá.

– Chị là một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

-> Nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta.

b. Ngoại hình:

- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người phụ nữ có ngoại hình thô kệch, xấu xí.

-> Người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở vùng biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải đặt trong vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.

c. Phẩm chất, tính cách:

– Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách bình tĩnh như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình, chấp nhận nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn vậy.

– Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy “đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Và chị đã khóc.

– Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường xuyên hành hạ chị: “Con lạy quý toà… Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.

– Chị là người mẹ thương con:

+ Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản.

+ Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn lên,…

– Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt.

+ Chị xưng hô: quý toà – con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu khuyên chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Chị quả rất hiểu lẽ đời.

+ Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi, khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.

– Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: “Trên thuyền cũng có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn no”. Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không chấp nhận.

-> Ở Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình ảnh ngừơi đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời.

=> Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không khỏi băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ như người đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc hoạ rõ nét chân dung người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tinh thần nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc đời.

5. Phân tích người đàn bà hàng chài khi ở tòa án huyện

Muốn biết ý nghĩa của Hòa Bình ta hãy hỏi người chiến binh vừa trở về từ chiến trận. Muốn biết được giới hạn của thời gian ta hãy lắng nghe niềm khao khát khi còn được nhìn thấy bình minh của kẻ đang mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo. Vậy muốn cảm nhận tầm vóc của người nghệ sĩ ta phải làm thế nào? Phải chăng đó là hãy nhìn vào các tác phẩm của họ. Nguyễn Minh Châu – nhà văn mở đường tài năng và tinh anh cho nền văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới, cùng với hình tượng người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy rõ được tình cảm thiêng liêng của gia đình, của tình mẫu tử ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất.

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nhà văn Nguyễn Khải đã từng đánh giá: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Đúng như vậy, với tác phẩm truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xâ” in đậm phong cách tự sự - triết lý, đây là tác phẩm tiêu biểu cho xu hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.

Truyện ngắn ra đời trong hoàn cảnh đất nước trong công cuộc đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái và tồn tại khiến người ta cảm thấy băn khoăn. Lúc đầu, truyện được in trong tập “Bến quê” (1985) và sau đó được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in vào năm 1987. Trong tác phẩm này, hình ảnh người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm cho câu chuyện. Nhân vật này được xuất hiện chủ yếu trong sự phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền ngoài xa và trong chính tòa án huyện khi chị kể về cuộc đời của mình.

Sau vài nét gợi tả thì hình ảnh của người đàn bà hàng chài với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ” được hiện lên. Những nét gợi tả này khiến ta cảm nhận được bà là người lao động lam lũ, rất chịu thương chịu khó… thế nhưng cái nghèo vẫn cứ bủa vây lấy gia đình của bà. Cái nghèo ấy còn được thể hiện qua “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách ứng xử cho đến cách đi đứng và tiếp tục “tìm đến một góc tường để ngồi” càng khiến mụ ta trở nên đáng thương một cách tội nghiệp.

Việc bà ở tòa án huyện đó là câu chuyện về một cuộc đời nhiều bí ẩn và trái ngang của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ và suốt đời lam lũ. Theo lời mời của Đẩu - một chánh án tại toà án huyện, người đàn bà hàng chài đã có mặt ở toà án huyện. Người đàn bà dứt khoát từ chối trước lời đề nghị và giúp đỡ của Đẩu và Phùng. Bà đau đớn. chấp nhận đánh đổi bằng mọi giá để không bỏ lão chồng vũ phu của mình cho dù “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được”. Bởi hơn ai hết, bà hiểu rằng con của bà cần có một gia đình đủ đầy cả cha và mẹ. Bởi: “Chòng chành như nón không quai/ Như thuyền không lái, như ai không chồng”. Tại đây, bà kể về cuộc đời của mình và gián tiếp giải thích lý do tại sao mình nhất quyết không thể bỏ chồng.

Đầu tiên, gã chồng ấy chính là chỗ dựa quan trọng và duy nhất trong cuộc đời những người hàng chài như ba. Đặc biệt là khi biển động, bão táp, phong ba. Thứ hai, là chị cần và không thể xa hắn, bởi vì còn phải cùng nhau nuôi những đứa con nhỏ dại. Và cuối cùng, chính là những khoảnh khắc vui vẻ, gia đình hòa thuận trên thuyền đã khiến chị muốn gắn bó và ở lại bên chồng.

Nếu như lúc ban đầu mới đến toà, người đàn bà hàng chài tỏ ra sợ sệt, lúng túng, một cái lạy quý toà, hai cái lạy quý toà. Nhưng sau khi nghe lời khuyên của chánh án Đầu thì trở nên mạnh dạn và chủ động hơn. “Các chú đâu phải người làm ăn (…) cho nên các chú đâu có biết cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc (…) bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” - chị bác bỏ tức khắc lời đề nghị của vị chánh án Đẩu và của nhà báo Phùng. Lần này, bà không còn xưng hô “con – quý toà” mà tự xưng mình là “chị” và gọi “các chú”. Nguyên nhân của thay đổi ấy chính là vì chị đã cảm nhận thấy thiện ý của hai người? Hay đơn giản là sự cảm thông của chị trước sự nông nổi, ngây thơ, không hiểu hết của họ?

Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tối tăm, ngược lại bà lại rất thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu một cách sâu sắc. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng ngày càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà bước ra từ cuộc đời nhọc nhằn và lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của cuộc sống đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế như vậy, cần có một người đàn ông để chống chọi, để làm một chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu. Bà cũng hiểu được rằng được làm mẹ là một niềm tự hào: “Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”.

Cuộc sống của người đàn bà ấy tuy đau khổ quá nhiều và hạnh phúc thì quá hiếm. Chính vì điều này mà bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái vui vẻ hòa thuận bên nhau. Niềm vui lớn nhất của người đàn bà là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp người nhọc nhằn đó nói đến niềm vui quá ư là xa xỉ. Sự tận tụy hi sinh cho chồng, cho con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đây chính là sức mạnh mạnh mẽ nâng đỡ người đàn bà: “Lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên một nữ cười.” Quan niệm hạnh phúc của người ta nhiều khi thật giản đơn, khát vọng hạnh phúc nhỏ bé quá mà vẫn nằm ngoài tầm tay của họ.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta có thể khẳng định rằng tài năng của Nguyễn Minh Châu trong việc miêu tả nhân vật người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện. Chỉ thông qua hình ảnh một nhân vật người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mà người đọc dường như được chứng kiến cảnh đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Với tấm lưng bạc phếch, hay ánh mắt cam chịu, nụ cười hạnh phúc khi họ lặng lẽ nhìn những đứa con của mình, có lẽ sẽ đọng lại sâu trong tâm trí độc giả. Qua đó, tác giả đã gửi gắm sự cảm thương, xót xa cho số phận những người đàn bà bị đánh đập, bị đói nghèo. Đồng thời tác giả cũng thể hiện sự tự hào là trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà.

6. Phân tích người đàn bà hàng chài ngắn gọn

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.

Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Phân tích hình tượng người đàn bà làng chài

7. Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch và “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40.

Bên cạnh đó số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.

Đồng thời, tác giả cũng khắc họa rõ nét về cuộc đời lam lũ, vất vả của người đàn bà làng chài. Tính cách: Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục. Hành động và lời nói của người chồng: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.

Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Người đàn bà ấy giàu lòng tự trọng. Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc. Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến.

Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh. Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng- cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa”… “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú… Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênhh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.

Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đẩu và Phùng chua chát nhận ra rằng: trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.

Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn.

Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả.

Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh.

Qua những cảm nhận về người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định cho chúng ta thấy sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".

8. Phân tích nhân vật người đàn bà làng chài chi tiết

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường đặc biệt thông qua nhân vật người đàn bà hàng chài.

Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng người đàn bà hàng chài- nhân vật trung tâm, linh hồn của tác phẩm. Là nhân vật chính nhưng tác giả lại không đặt tên cho nhân vật mà chỉ gọi là “người đàn bà hàng chài”, “mụ”, “chị ta” vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa phiếm định lại vừa xác định nhằm tô đậm số phận của nhân vật. Tuy không có tên cụ thể, chỉ là một người vô danh như bao nhiêu người vô danh lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, đau khổ đang mưu sinh trên biển nhưng số phận người đàn bà này lại được tác giả tập trung thể hiện đầy đủ nhất nên đã để lại nhiều dư vị xót xa, cay đắng, cảm phục trong lòng người đọc.

Người đàn bà hàng chài “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Những chi tiết miêu tả ngoại hình đầy ấn tượng ấy đã hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một người đàn bà vùng biển với một cuộc đời đầy nhọc nhằn, vất vả, lam lũ, nhẫn nhục, cuộc sống luôn phải đối diện với hiểm nguy, với vòng vây của đói khát, bấp bênh, dập dềnh trên biển. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió, khắc nghiệt đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui nên trên “khuôn mặt mệt mỏi” và “tái ngắt” ấy dường như không còn mảy may một chút sức sống. Hình ảnh ấy đã gợi nơi người đọc ấn tượng khó quên về một cuộc đời đầy bất hạnh, đắng cay của người đàn bà vùng biển. Sự nghèo khổ, nhọc nhằn đến nhếch nhác, thảm hại của chị còn được hiện lên rõ nét qua “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Chưa hết, nỗi khốn khổ đến tội nghiệp của chị còn hiện ra trong dáng vẻ “lúng túng, sợ sệt” khi lần đầu đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu. Và còn đáng thương hơn Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới dám “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dường như, đó là dáng vẻ của một con người luôn mang trong mình sự tự ti, mặc cảm về sự vướng víu, phiền phức mà mình có thể gây ra cho mọi người, luôn cảm thấy mình là một người thừa thải trong cuộc đời này.

Thông qua dáng vẻ, ngoại hình, tác giả đã gợi lên trong suy nghĩ của người đọc về một thân phận của người đàn bà hàng chài với một số phận bất hạnh, đáng thương.

Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa đến cho người đọc chính là thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị.

Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe rà phà mìn của công binh Mỹ, đột nhiên, người đàn bà “đứng lại. Ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Ta có thể nhận thấy đây là không gian quá quen thuộc với chị, không gian mà chị bị hành xác với những trận đòn khủng khiếp từ người chồng vũ phu, thô bạo, tàn ác đã thành lệ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Vì thế dù đã chấp nhận để cho chồng hành hạ, chị vẫn không nén nổi đắng cay. Cử chỉ chị “đưa cánh tay lên” như muốn làm một điều gì đó cho mình, nhưng rồi chị cũng hiểu rằng đó là điều không thể, nên cánh tay chị lại “buông thõng xuống” chán chường và “cặp mắt nhìn xuống chân” cam chịu,mệt mỏi, buông xuôi.

Giữa khung cảnh đẹp như mơ của bãi biển lúc bình minh, người đàn bà ấy bị người chồng “dùng cái thắt lưng quật tới tấp” một cách dã man. Thế nhưng bà vẫn thầm lặng chịu đòn “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đó là thái độ của một người đang thực hiện nghĩa vụ khốn khổ của mình mà không hề oán than, bất bình hay tránh né. Thật kỳ lạ! Sau này, thông qua câu chuyện của chị ở tòa án huyện, người đọc lại càng xót xa hơn cho thân phận người đàn bà khốn khổ ấy khi hiểu ra nguyên nhân vì sao chị lại có thái độ cam chịu, nhẫn nhục tới mức kì lạ như thế. Hóa ra, chị chấp nhận chịu đòn chồng, tất nhiên không phải vì dạn đòn đến mức chai sạn không biết đau, càng không phải để trả giá cho tội lỗi tày trời nào đó của mình, cũng không phải vì quá ngu muội đến mức không còn chút ý thức về bất hạnh, về quyền sống như một con người mà đó là cách lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kỹ lưỡng, sáng suốt. Chị câm lặng chịu đựng những đớn đau về thể xác lẫn tinh thần vì “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông trên thuyền khác uống rượu...Giá mà lão uống rượu thì tôi đỡ khổ...Sau này khi con cái lớn lên, tôi mới xin lão...đưa tôi lên bờ mà đánh”. Vậy là cũng một lúc, chị phải chịu hai nỗi đau. Chị không chỉ chịu đựng những vất vả nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà còn chia sẻ, gánh vác thêm những u uất, bế tắc của người chồng khi lão không còn đủ sức để chịu đựng một mình, không có nơi nào để giải tỏa, để lão lấy lại thăng bằng để đương đầu với cuộc sống cơ cực. Chị không chị bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về tinh thần bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, bởi sự đau đớn khi luôn phải chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một người mẹ vừa mếu máo khóc, vừa phải “chắp tay vái lấy vái để đứa con” nhằm ngăn nó đừng phạm tội bất hiếu với đấng sinh thành, tác giả đã thể hiện sự xót thương cho nỗi đau khổ cùng cực mà con người phải chịu đựng.

Sự chịu đựng nỗi đau đớn của chị không chỉ một đôi lần mà suốt cả quãng đời dài dằng dặc. Lạ thay, chị chưa hề có ý định tự giải thoát mình khỏi người chồng vũ phu, tàn bạo ấy mà còn khẩn thiết van xin chánh án Đẩu để không phải li hôn dù biết rằng những trận đòn sẽ còn song hành với cuộc sống ấy. Hình ảnh người đàn bà chắp tay vái lia lịa “Con lạy quý tòa...Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” cho thấy nỗi cay đắng của thân phận người khi đứng trước sự lựa chọn đớn đau, nghiệt ngã. Chị chấp nhận chịu đựng sự đày ải, chấp nhận đòn roi của chồng vì “nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” còn đáng sợ hơn cả những trận đòn tàn ác ấy; cuộc sống mưu sinh trên biển luôn tiềm ẩn những bất trắc, hiểm họa, nó còn khủng khiếp hơn cả nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần do người chồng mang đến. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã giúp người đọc hiểu ra nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống của gia đình chị chính là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài dằng dặc trên mặt biển. Theo lời kể của chị, trước năm 1975, có khi biển dộng hàng tháng, “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Từ ngày cách mạng về, cuộc sống gia đình chị đã có phần đỡ “đói khổ hơn” nhưng nỗi lo cơm áo gạo tiền vẫn chưa bao giờ buông tha mà luôn đeo bám mỗi lúc một nặng nề hơn bởi trên chiếc thuyền chật chội, tăm tối ấy có sự hiện diện “trên dưới chục đứa” con. Nó là nguyên nhân gây ra tâm lí u uất và bế tắc.

Nguyễn Minh Châu tạo dựng không gian diễn ra bi kịch của người đàn bà hàng chài sau những chiếc xe tăng đổ nát của chiến trường xưa là một dụng ý nghệ thuật, gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm. Chiến trang đã đi qua khá lâu sao đời sống người lao động vẫn còn đói nghèo, cơ cực đến thế? Và phải chăng, cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối, bạo lực còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến chống ngoại xâm. Chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu thì chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu, cái ác.

Như vậy, đằng sau vẻ bề ngoài lam lũ vất vả là thái độ cam chịu, nhẫn nhục thật đáng thương và đáng trọng của người đàn bà hàng chài, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người phụ nữ với số phận bất hạnh. Điều đáng chú ý là thái độ cam chịu đến mức kì lạ ấy phải chăng là một cách lựa chọn nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng và sáng suốt của người đàn bà thất học mà vô cùng sâu sắc này.

Vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người đàn bà hàng chài.

- Trước hết, chị là một người sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Khi nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà quê mùa, thất học ấy đã “để lộ ra cái vẻ sắc sảo”, vừa đủ để “kích thích trí tò mò” của họ. Chị xuất hiện với “con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình” và “sự thăng trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời” đã khiến cho Phùng và Đẩu “Cả nước này không có một người chồng nào như hắn”, “Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu” đều lần lượt vấp phải những chân lí giản dị nhưng thấm đẫm vị mặn chát của đời thường. Chị đã chỉ ra sự thiếu thực tế của họ “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn...cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. đối với những người đàn bà hàng chài như chị thì gã chồng vũ phu ấy vẫn còn là chỗ dựa quan trọng nhất trong cuộc sống bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe dọa bất thường trên mặt biển “Các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông”. Là người mẹ, chị rất cần gã đàn ông ấy để nuôi dưỡng “một sấp con” mà chị trót sinh ra, chị chỉ mong sao chúng được ăn no, khỏe mạnh và lớn lên. Với chị, “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Câu nói giản dị, chân thật và vô cùng đẹp về tình mẫu tử làm xúc động lòng người. Đặc biệt, trước một tiếng thở dài ngao ngán và lời kết luận đầy chua chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa “Trên thuyền phải có một người đàn ông...dù hắn man rợ, tàn bạo” thì người đàn bà gắn bó trên sông nước đã khẳng định bằng tất cả những chiêm nghiệm rút ra từ cuộc sống gian truân, vất vả “Cũng có khi biển động sóng gió chớ chú”.

- Tiếng thở dài của Đẩu, những câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai vị tri thức khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế đã tạo nên đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu những sự không thể và có thể của cuộc sống đời thường để lại dư ba trong tâm hồn người đọc. Sự sâu sắc thâm trầm toát ra từ người đàn bà hàng chài thất học khiến người đọc khâm phục nhưng cũng không kém nỗi xót thương cho một kiếp người.

- Người đàn bà hàng chài là người có tấm lòng bao dung, nhân hậu, vị tha.

Chị chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn của chồng không chỉ vì đức tính nhẫn nhục, cam chịu mà còn như một cách giúp lão giải tỏa những uất ức, khổ sở trong lòng. Chính vì thế mà chị hoàn toàn tự nguyện lặng lẽ theo chồng lên bờ, lặng lẽ đi sâu vào bãi xe tăng, lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa của chồng, lặng lẽ chịu đòn “không hề kêu một tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”, để rồi sau đó đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng đuổi theo gã đàn ông. Chị đã theo chồng trở về thuyền. Đó là cách cư xử của một người đang cố gắng thể hiện những bổn phận, nghĩa vụ của mình dù đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi nhân tính. Một trong những lí do khiến chị nhất quyết gắn bó với người chồng vũ phu là bởi chị ý thức được sự kém sắc của mình như một định mệnh “Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”. Và “cũng vì xấu” nên “trong phố không ai lấy” rồi chị lỡ dại và có mang với “anh con trai một nhà hàng chài”. May mắn thay, chị đã gặp người đàn ông tốt bụng cưu mang, đó là người chồng của chị bây giờ. Chị xem lão như ân nhân trong cuộc đời mình. Chị là con người tình nghĩa và nhân hậu biết bao. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng, thậm chí còn tự nhận lỗi về mình, tự xem mình là thủ phạm gây nên sự đói khổ của gia đình “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được chiếc thuyền rộng hơn”. Chị hiểu rõ sự hi sinh, nhọc nhằn trên biển đầy sóng gió, sự nghèo đói, túng quẫn trên một chiếc thuyền chật chội, những cay đắng, bế tắc triền miên vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người khiến cho “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm” không bao giờ đánh đập vợ trở thành lão chồng vũ phu, độc ác, đánh vợ để quên đi nỗi cơ cực của kiếp sống đọa đày. Với chị, chồng chị là nạn nhân của hoàn cảnh đói khổ, bấp bênh, ngu muội mà trở thành kẻ ác, kẻ vũ phu, thô bạo. Chị lí giải về sự thô bạo, tàn ác của chồng một cách đầy thấu hiểu, cảm thông.

Nếu lúc đầu, cả Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình trước sự cam chịu có phần tăm tối,mê muội của người đàn bà hàng chài thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy họ lại càng kinh ngạc về nhân hậu, vị tha, sự hi sinh vì chồng, vì con đến đau đớn và một sự bao dung độ lượng đến xót xa của người đàn bà hàng chài đến mức “không thể nào hiểu được”.

Cảm động nhất là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong trái tim người đàn bà hàng chài. Tình mẫu tử được chị coi như một thiên chức của người phụ nữ “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Nếu không xuất phát từ tình thương con thì chị không thể có được một câu nói đẹp đẽ về tình mẫu tử, giản dị, chân thậ và cảm động đến thế. Câu nói ấy của chị như một chân lí ở đời: người phụ nữ sinh ra giữa cuộc đời không sống cho mình mà cốt là sống cho chồng cho con. Chính vì tình thương con đã khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng sự đọa đày của người chồng để con thuyền kia có đàn ông “chèo chống khi phong ba” bão táp, để cùng chị nuôi nấng đàn con. Vì tình thương con nên chị không muốn chúng bị tổn thương về mặt tinh thần bởi cảnh bạo hành gia đình nên chị phải xin chồng “đưa tôi lên bờ mà đánh”. Cũng vì tình thương con mà chị lo sợ thằng Phác có thể làm những điều dại dột với ba nó, buộc lòng chị phải gởi thằng con mà chị hết mực yêu thương lên rừng sống với ông ngoại. Ở người đàn bà ấy, “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ ra bên ngoài”. Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã chịu đựng với nỗi đau câm lặng, vậy mà khi thằng Phác lao tới đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Khi biết thằng Phác chứng kiến mình bị chồng hành hạ dã man, chị thấy “vừa đau đớn, vừa xấu hổ, nhục nhã”. Không thể nén xúc động, chị đã “mếu máo” gọi con rồi “ngồi sệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chuỗi hành động của chị đối với thằng Phác giúp ta nhận ra rằng người mẹ đã đau khổ, lo lắng cho con trước rồi mới đến xấu hổ, nhục nhã cho mình. Cho tới khi nói chuyện với Phùng và Đẩu, nhắc đến thằng Phác, chị lại bật khóc. Đó là tiếng khóc của tình thương con, của nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ vì không thể che chắn nổi cho tuổi thơ các con mình được trong sáng, đau nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh mẹ chúng bị cha nó đánh, đau bởi nỗi lo âu cho sự phát triển tính cách của con trong môi trường tối tăm bạo lực. Nhưng bao trùm lên tất cả là nỗi đau của người mẹ yêu thương con, mong cho con khôn lớn mà lại không thể đem đến cho con cuộc sống ấm no, bình yên. Tình thương con của chị không chỉ dừng lại ở nỗi đau mà còn thể hiện qua niềm vui vô cùng hiếm hoi, ít ỏi – những niềm vui được chị chắt chiu từ những cay đắng, nhọc nhằn. Khi nhắc tới những lúc gia đình chị được sống hòa thuận, hạnh phúc trên thuyền “khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Cam chịu, nhẫn nhục vì con, lam lũ vất vả vì con nên niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái, chị bày tỏ lòng mình thật chân thành, xúc động “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.

Bên cạnh đó, người đàn bà hàng chài còn đem đến cho người đọc ấn tượng thật đặc biệt bởi sự tự ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống và thiên chức của mình. Đó là những nguyên nhân khiến chị có đủ sức mạnh để chịu đựng tất cả mọi khó khăn, thử thách, lam lũ vất vả và những đớn đau, khổ ải trong bị kịch gia đình. Chị vượt lên tất cả để sống nhưng không phải vì mình mà vì những người thân yêu. Điều này đã góp phần tô đậm thêm vẻ đẹp tâm hồn nơi chị.

Bằng những chi tiết chân thực nhưng đầy kịch tính, theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất; giọng điệu trần thuật biến đổi, ngôn ngữ nhân vật sinh động phù hợp với tính cách và có chiều sâu tâm lí, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công hình tượng người đàn bà hàng chài. Đó là người đàn bà tuy thất học mà không hề tối tăm, không hề cam chịu một cách vô lý, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà rất sắc sảo, hiểu đời. Chị có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng luôn chắt chiu những hạnh phúc đời thường, sống cam chịu và kín đáo, không bộc lộ ra bên ngoài. Tuy kém sắc, thô kệch nhưng tâm hồn lại rất đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha. Chị như hạt ngọc khuất lấp, lấm trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường. Qua hình tượng người đàn bà hàng chài, người đọc không chỉ cảm nhận được những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời, đánh dấu sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của văn học Việt Nam sau 1975 mà còn thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả luôn yêu thương và trăn trở trước số phận con người, luôn khao khát tìm kiếm hạt ngọc ở bề sâu tâm hồn con người Việt Nam.

9. Phân tích người đàn bà làng chài

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không

biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.

10. Phân tích người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà làng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

Có thể nói, trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm.Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sáng sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

Xuất hiện trước mắt độc giả , người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lớn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà làng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

11. Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

12. Cảm nhận về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đội khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ bề ngoài xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và đến 1985 trong tập " Bến Quê" tác phẩm là sản phẩm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho " Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoản khắc trong ngần của tâm hồn thì bất ngờ anh phát hiện ra cảnh bao lực gia đình. Với sự xuất hiện người đàn bà làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe.

Người đàn bà làng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ "Người đàn bà, bà…" Người đàn bà chạc 40 tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mĩ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần da đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc "một túp lều tranh hai trai tim vàng". Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuốc sống làm cho tính cách hắn hung bạ. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ" Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chông tàn bạo, nhưng chị vẫn "Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố" Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt.

Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không li hôn, nhận hết trách nhiệm , tội nỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm.

Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất " Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ" Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá.

Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chông, thương con am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nhét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chìa, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.

Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đạp vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản chất bên trong, từ vẻ bề ngoài của người đàn bà trong truyện yêu thương chồng con hi sinh cao cả.

13. Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở thời kì này chủ yếu thuộc hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó truyện ngắn của ông xứng đáng được xếp vào hàng những truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại bởi cả trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn về cuộc sống và nghệ thuật ở thời kỳ mới. Thành công nổi bật về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc xây dựng một tình huống truyện vô cùng độc đáo.

Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó, nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ trong quan hệ giữa các nhân vật, tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khá trọn vẹn.

Là tình huống nhận thức bởi nó hướng tới bộc lộ nhận thức của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật qua sự thể hiện nhận thức của các nhân vật trong tác phẩm về vấn đề này. Phùng là một phóng viên nhiếp ảnh. Theo yêu cầu của cấp trên, anh cần chụp một bức ảnh về cảnh bình minh trên biển. Vì vậy, Phùng đã trở về vùng biển nơi anh từng chiến đấu năm xưa. Sau nhiều ngày tìm kiếm, Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp tuyệt vời để nhận ra bản thân cái đẹp cũng là một giá trị đạo đức vì để có được những giây phút trong ngần của tâm hồn. Phùng phát hiện ra một sự việc vô cùng tàn nhẫn trong đời sống hiện thực - đó là sự việc người đàn ông làng chài đánh đập, chửi rủa vợ mình một cách tàn tệ ngay trên bãi cát - nơi Phùng đang say sưa với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Sự việc này khiến Phùng kinh ngạc, đau đớn để từ đó nhận ra những điều phi lý, những sự thật trần trụi vẫn luôn tồn tại trong cuộc sống bề bộn quanh mình. Khi đến toà án huyện, nghe câu chuyện của người phụ nữ, Phùng lại có thêm những phát hiện quan trọng về bản chất của con người, về sự phức tạp của đời sống để từ đó có thêm những trăn trở về nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời.

Sau rất nhiều ngày tìm kiếm, lựa chọn và thất vọng, cuối cùng, Phùng cũng bất ngờ được chứng kiến một cảnh đẹp tuyệt vời: bình minh nơi cửa biển với không gian phóng khoáng, thi vị, với màu hồng hồng của sương mai, với con thuyền lưới vó và tấm lưới còn đọng nước. Sự hài hoà của hình ảm thiên nhiên và hình ảnh trong cuộc sống ở một thời điểm đặc biệt đã tạo nên vẻ đẹp lí tưởng của bức tranh và đem lại cho Phùng một niềm hạnh phúc đến ngỡ ngàng khi thưởng thức. Đó cũng là cội nguồn cảm hứng sáng tạo của Phùng: khi phát hiện được khoảnh khắc “trời cho” ấy, Phùng đã bấm máy liên tục đến gần hết cuộn phim. Đó cũng là cơ sở cho những suy tưởng của anh: cái đẹp không chỉ thỏa mãn nhu cầu thưởng thức, kích thích sáng tạo mà còn có khả năng thanh lọc để đem lại giây phút trong ngần của con người. Sự việc xảy ra trên bãi cát: ngay chính nơi Phùng vừa ngắm cảm thiên nhiên và thực hiện niêm hứng thú sáng tạo đã diễn ra một sự việc bất ngờ - một lão đàn ông thô kệch, xấu xí đang đánh đập, chửi rủa một người phụ nữ mà người phụ nữ ấy lại chính là vợ ông ta. Sự việc này khiến Phùng cảm thấy bất ngờ không chỉ bởi anh vừa trải qua giây phút thăng hoa trong niềm say mê sáng tạo mà còn bởi đây là điều phi lý, bất công mà anh không thể ngờ rằng vẫn còn tồn tại trong cuộc sống hiện thời - đó là tình trạng bạo lực trong gia đình. Phùng đã từng trải qua chiến tranh, đã cầm súng để bảo vệ hoà bình và hạnh phúc cho con người nên anh không thể chấp nhận nổi cách hành xử tàn nhẫn, độc ác của lão đàn ông kia. Đó chính là lý do khiến Phùng không chỉ kinh ngạc, phẫn nộ mà con có những hành động bột phát: anh quăng chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người phóng viên - nghệ sĩ để xông vào đánh người đàn ông kia như một cách để bênh vực người đàn bà bất hạnh, yếu đuối. Phản ứng trong cả tình cảm và hành động của Phùng khi ấy cho thấy anh không chỉ là một người nghệ sĩ có niềm say mê với cái đẹp mà còn là con người có tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm. Cũng chính tấm lòng và trách nhiệm ấy đã khiến anh dù hoàn thành nhiệm vụ của một phóng viên vẫn quyết định ở lại vùng biển thêm mấy ngày để cùng Đẩu giải quyết sự việc.

Câu chuyện ở tòa án huyện cả Phùng và Đẩu đã phải đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác về người đàn bà - nạn nhân của tình trạng bạo lực gia đình kia. Mang tâm lí của một người tự coi mình là ân nhân, xuất hiện để giúp đỡ, che chở và bênh vực cho người đàn bà bất hạnh để giúp chị ta thoát khỏi những bi kịch trong cuộc sống của mình, Phùng và Đẩu đã vô cùng bất ngờ khi người đàn bà ấy không nghe theo lời khuyên, từ chối sự giúp đỡ và một mực van xin để không phải bỏ chồng. Sự việc này bất ngờ đến mức Phùng vừa kinh ngạc, vừa khó hiểu, vừa bị sốc tới mức căn phòng đang lộng gió biển mà anh có cảm giác như bị rút hết không khí để trở nên ngột ngạt. Phùng và Đẩu còn bất ngờ hơn khi nghe lời giải thích, thanh minh của người đàn bà: người phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu vừa mới trước đó thôi còn nhún mình thái quá trong cách xưng hô “con - quý toà” thì bỗng dưng sắc sảo, đến bất ngờ trong sự thay đổi cách xưng hô mang đầy vẻ bề trên “chị - các chú”. Cách xưng hô này của chị ta khiến Phùng và Đẩu không tránh khỏi cảm giác khó chịu vì dù sao Đẩu cũng là một chánh án toà án huyện còn Phùng là chứng nhân, vừa là ân nhân khi che chở cho người phụ nữ kia. Nhưng cảm giác sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất mà Phùng cảm nhận được từ câu chuyện này lại có được chính từ phát hiện mới của anh về con người của người phụ nữ ấy - đó là những phẩm chất đích thực ẩn giấu sau bề ngoài nhẫn nhục, cam chịu và có phần u mê. Hoá ra, người phụ nữ ấy hoàn toàn không giống với những gì Phùng và Đẩu thấy: đằng sau vẻ cam chịu nhẫn nhục là sự hiểu biết, lòng vị tha, tình yêu thương sâu sắc - những phẩm chất chỉ có được ở một người có nhiều trải nghiệm cuộc đời và hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Chị nhẫn nhục là vì thương con, chị cam chịu vì lòng độ lượng, vị tha, vì thấu hiểu nguyên cớ dẫn đến những hành động độc ác vũ phu của người chồng và trên hết vì chị có một đức hi sinh vô bờ bến. Tất cả nhưng điều này khiến cả Phùng và Đẩu không thể tiếp tục nhìn chị ta bằng cái nhìn thương hại. Cả một tập thể nghệ sĩ say mê, tâm huyết, lăn lộn hàng tháng trời để khám phá, sáng tạo và đã tạo nên vô số những tác phẩm có giá trị nhưng khi vị trưởng phòng lựa chọn để làm một bộ lịch ảnh nghệ thuật về thuyền và biển thì vẫn thấy những tác phẩm đã có trong tay không đủ để tạo nên một bộ ảnh thật hoàn chỉnh. Vì thế mới có chuyến đi của Phùng về vùng biển để chụp một cảnh biển buổi sáng có sương mù. Như vậy có thể thấy, cho dù người nghệ sĩ có cố gắng nỗ lực bao nhiêu, có say mê tâm huyết bao nhiêu trong khám phá và sáng tạo thì tất cả những cố gắng, nỗ lực, say mê tâm huyết ấy vẫn chưa thể đủ để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống. Trong bức ảnh mà Phùng mang về, nền ảnh chỉ là đen trắng với những đường nét như trong một bức cổ họa bằng mực tàu thì vì đã có những trải nghiệm trong thực tế nên Phùng luôn nhìn thấy trong những bức ảnh đen trắng màu hồng hồng của sương mai. Và tuy bức ảnh chỉ có ảnh, không có con người song khi nhìn kỹ, Phùng vẫn thấy bóng dáng cao lớn của người đàn bà bước ra từ con thuyền và đi lẫn vào đám đông. Từ nghịch lý này, có thể thấy, chỉ khi có trải nghiệm và sự gắn bó với cuộc đời, người nghệ sĩ mới có thể phát hiện những điều mà bằng con mắt thường người ta không thể nhận ra. Và cũng chỉ có sự gắn bó bằng tâm thế của người trong cuộc mới giúp cho người nghệ sĩ thấy cuộc đời trong nghệ thuật và kéo gần được khoảng cách giữa nghệ thuật với cuộc đời.

Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống (bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn. Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt. Đòn roi của người chồng khiến chị đau đớn về thân xác, những hành động của đứa con lại khiến chị đau đớn về tinh thần vì nó phá vỡ cái điều mà chị cố gắng gìn giữ trong gia đình: Đó là sự bình yên trong tâm hồn những đứa trẻ. Tình cảm nhân đạo, ý thức trách nhiệm đã khiến cả Phùng và Đẩu cố gắng can thiệp để giúp đỡ, bênh vực, che chở cho người đàn bà bất hạnh nhưng do giải pháp không phù hợp khiến họ bất lực trong mong muốn giúp đỡ: Vì muốn che chở cho người đàn bà bất hạnh, Phùng đã xông vào đánh lão đàn ông vũ phu còn Đẩu thì khuyên nhủ người đàn bà từ bỏ lão chồng độc ác. Phùng và Đẩu làm việc này bằng lương tâm, lòng nhiệt tình và sự cảm thông thật sự. Nhưng những việc họ làm lại không thực sự giúp ích được cho người phụ nữ kia. Bởi vì họ chỉ nhìn câu chuyện của người đàn bà bằng cái nhìn của người ngoài cuộc nên không thể hiểu thấu nội tình. Khi ở toà án huyện, người đàn bà đã nói rõ: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn nên các chú đâu có hiểu được việc làm ăn của những người lam lũ khó nhọc” “các chú đâu phải là đàn bà, các chú làm sao hiểu được nỗi khổ của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông”. Sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu sở dĩ không có tác dụng bởi họ không giúp được đúng cái mà người phụ nữ ấy cần (được giải thoát khỏi phải tình trạng nghèo khổ, túng quẫn - nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bi kịch của gia đình chị). Giải pháp thực sự thiết thực đối với chị lúc này là giúp chị thoát nghèo – điều đó vượt ra ngoài phạm vi - khả năng và quyền hạn của Phùng và Đẩu.

Chính những điều bất ngờ và nghịch lý mà Phùng chứng kiến đã khiến anh không thể tiếp tục nhìn cuộc sống bằng một cái nhìn giản đơn. Nó buộc anh phải suy nghĩ để nhận thức lại tất cả. Ở sự việc bất ngờ đầu tiên mà Phùng bắt gặp trong chuyến đi về vùng biển, anh đã nhận ra rằng cuộc sống không chỉ chứa đựng những vẻ đẹp mà còn chứa đựng những sự thật tàn nhẫn, nhưng quan hệ phức tạp. Việc chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ trên bãi cát khiến Phùng bừng tỉnh để nhận ra đằng sau vẻ đẹp của một bức tranh mực tàu, đằng sau màu hồng hồng của sương mai ở một không gian ngỡ như bình yên, tĩnh lặng là một cuộc sống dữ dội với tất cả vẻ phi lí, tàn nhẫn của nó. Tưởng như lúc ấy Phùng đã chạm đến đáy sự thật cuộc đời thì trong cuộc trò chuyện với người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại nhận ra rằng: Hoá ra cuộc sống không hoàn toàn như những gì ta nhìn thấy bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, ta chỉ thấy những biểu hiện bên ngoài của sự việc mà cái bên ngoài không phải bao giờ cũng thống nhất với cái bên trong. Người đàn bà với tư cách một người trong cuộc đã cho Phùng thêm một góc nhìn khác, cách nhìn khác để hiểu hơn về cuộc sống. Qua lời nói của người đàn bà, Phùng hiểu được cái nguyên cớ dẫn đến sự tàn nhẫn độc ác của lão đàn ông, nguyên nhân của tấn bi kịch gia đình và điều quan trọng nhất mà Phùng nhận ra chính là bản chất đích thực của người phụ nữ kia. Hoá ra, sự cam chịu nhẫn nhục của chị không phải vì u mê tăm tối mà nó xuất phát từ lòng vị tha. Người đàn bà chấp nhận để chồng đánh vì chị hiểu rằng người đàn ông ấy rất cần được giải toả sau những nhọc nhằn cơ cực trong cuộc sống hàng ngày. Chị không bỏ chồng vì hiểu rằng trên con thuyền đi biển rất cần có người đàn ông chèo chống vì biển không phải lúc nào cũng gió lặng sóng êm mà còn có cả phong ba, bão tố. Chị xin chồng đưa mình lên bờ để đánh là vì muốn tránh cho các con khỏi nỗi đau lòng... Cứ thế, cuộc trò chuyện với người đàn bà ấy không chỉ cho Phùng nhận ra một con người khác ở người phụ nữ này mà còn khiến anh có được một bài học về cách nhìn con người, cách nhìn sự việc: chỉ có thể nhìn nhận một cách thấu đáo về con người cũng như về cuộc sống khi tự biến mình thành người trong cuộc, khi nhìn nhận không chỉ nên dùng lý trí để xét đoán mà còn phải dùng tấm lòng vị tha để mà cảm thông. Điều này ngỡ không mới song lại rất quan trọng, nhất là khi cuộc sống hiện tại luôn chứa đựng cả những mâu thuẫn phức tạp, những điều khó hiểu, khó giải thích bằng những cách nhìn nhận đánh giá thông thường.

Qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu giúp ta nhận ra cái phức tạp ở đời sống con người với những hiện tượng không dễ để đánh giá, những mối quan hệ không dễ để cắt nghĩa, lí giải. Đối mặt với cuộc sống như thế, người nghệ sĩ phải có một cái nhìn vừa tỉnh táo, vừa thấu suốt nhân tình bởi chỉ có cái nhìn như thế mới có thể phát hiện ra những khiếm khuyết, những điều tệ hại cần loại bỏ trong con người và cả những vẻ đẹp ẩn chứa trong vẻ ngoài thô kệch. Những phát hiện về vẻ đẹp của con người trong tác phẩm đã đem lại cho người đọc một cảm giác ấm áp, một niềm tin vào con người sau những đắng chát và gai góc của cuộc sống.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn người kể chuyện trong truyện ngắn này là một người nghệ sĩ bởi chính sự mẫn cảm, cái nhìn sâu sắc mang tính phát hiện và ý thức trách nhiệm với cuộc đời của nghệ sĩ Phùng đã giúp Nguyễn Minh Châu gửi gắm một quan niệm, một yêu cầu đối với nghệ thuật: Nghệ thuật cần hướng tới cái đẹp song nghệ thuật không thể chỉ là chiếc thuyền ngoài xa. Nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi bắt nguồn từ cuộc sống, là tiếng nói của đời sống để trở thành một phần của cuộc sống này.

14. Vì sao người đàn bà hàng chài không bỏ chồng?

Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho người đọc thấy được 2 hình ảnh đối lập đó là hình ảnh chiếc thuyền mờ ảo trong làn sương sớm trông như một bức họa tuyệt phẩm và một khung cảnh đối lập là cảnh bạo hành gia đình của những người sống trên con thuyền đó.

Vậy sau khi đọc xong tác phẩm, ít nhiều bạn đọc cũng có suy nghĩ vì sao người đàn bà hàng chài không bỏ chồng? Ta có thể thấy người đàn bà hàng chài không bỏ chồng bởi:

  • Chị ta hiểu được những nỗi khổ và khó khăn về kinh tế của gia đình đè nặng lên đôi vai người chồng.
  • Chị ta thấy có lỗi vì đã đẻ nhiều con
  • Người chồng đã từng là ân nhân cưu mang của người đàn bà làng chài
  • Chị ta vẫn muốn sống vì con cái
  • Và trên chiếc thuyền, cả gia đình vẫn có những giây phút vui vẻ.

15. Nếu em là người đàn bà hàng chài em sẽ làm gì?

Sau khi đọc xong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu em đã có nhiều suy nghĩ về nhân vật người đàn bà làng chài. Có thể nói người đàn bà làng chài là một người phụ nữ rất mực sâu sắc và từng trải. Nếu chỉ nhìn theo một phía ta có thể thấy cuộc sống của chị hẳn là một cuộc sống của người bị bạo hành gia đình. Tuy nhiên bất kì câu chuyện nào cũng có những góc khuất riêng của nó và ta phải nhìn nhận theo nhiều khía cạnh khác nhau. Nếu như em là người đàn bà hàng chài, em sẽ cố gắng thay đổi dần dần gia đình mình bằng cách tìm hiểu các biện pháp phòng tránh thai. Cùng chồng con chăm chỉ làm lụng để cuộc sống gia đình từ từ khấm khá lên. Cố gắng cho các con được tiếp cận với tri thức để thay đổi cuộc sống của các con sau này. Về phía người chồng vũ phu, sẽ cố gắng khơi lại bản chất tốt đẹp của người đó.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học - Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
155 375.605
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm