Top 10 bài cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà siêu hay
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà
- 1. Dàn ý cảm nhận sông Đà thơ mộng, trữ tình
- 2. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà
- 3. Hình ảnh con sông Đà thơ mộng, trữ tình
- 4. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 1
- 5. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 2
- 6. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 3
- 7. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 4
- 8. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - mẫu 5
- 9. Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà ngắn gọn
- 10. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà học sinh giỏi
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân - Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ tổng hợp các bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con Sông Đà, cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà học sinh giỏi hay và chi tiết giúp các em học sinh có thêm tài liệu ôn tập khi đi sâu vào phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà.
Sau đây là nội dung chi tiết một số bài cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, mời các bạn cùng tham khảo.
- Top 6 bài phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà hay nhất
- Top 5 mẫu phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà hay nhất
1. Dàn ý cảm nhận sông Đà thơ mộng, trữ tình
I. Mở bài
- “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà.
- Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Nổi bật lên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà.
II. Thân bài
* Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà
- Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.
- Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.
- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
- Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.
* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
- Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều
* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:
- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà,lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
- Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
- Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.
III. Kết bài
Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà
Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ bởi ông quan niệm cuộc đời hành trình đi tìm cái đẹp và khẳng định cái đẹp. “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Ông là nhà văn lớn nổi tiếng nhất của Việt Nam thế kỉ XX, là nghệ sĩ tài hoa, độc đáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như một mĩ nhân Tây Bắc. Đoạn văn ta sắp phân tích sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đó của Đà giang.
“Người lái đò Sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960) – tập tùy bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản thay đổi để trở thành một nhà văn mới trong thời đại mới.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Lóong “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Bên cạnh sự hung bạo, sông Đà còn hiện lên với những nét nên thơ, trữ tình. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn xuống, tác giả hình dung con sông Đà quyến rũ như một thiếu nữ với mái tóc buông dài hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người Tây Bắc. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân” Trong câu văn của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn, rực rỡ của hoa ban, hoa gạo tháng hai và đặc biệt là cái ấm áp, gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó gần gũi, thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp Vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn, lạc lõng xa xôi, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường của những người lao động bình thường.
Nguyễn Tuân đã có sự quan sát thật tỉ mỉ, ngắm con sông ở nhiều thời điểm để phát hiện sự thay đổi của sắc nước, tạo nên nét đẹp đặc trưng của nước sông Đà. Qua làn mây mùa xuân, nước sông Đà xanh màu ngọc bích. Đó là dòng xanh ngọc bích trong sáng, quý giá và êm nhẹ của sông Đà mùa xuân Đó còn là sự thiên vị của một niềm yêu khi so sánh với “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô. Qua ánh nắng mùa thu, nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Hình ảnh so sánh nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về” đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn muôn đời báo oán, đánh ghen với con người.
Tâm hồn coi sông Đà như một cố nhân. Tác giả tiếp tục bộc lộ những cảm xúc khi sắp gặp lại dòng sông, nhìn dòng sông “thấy loang loáng như đứa trẻ con nghịch chiếu gương vào mặt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của của người chưa ra đến cửa rừng, chỉ mới thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp lánh ánh nắng của những vạt cây rừng mà đã háo hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát. Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là Thiên cổ lệ cú của Lí Bạch “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Cảm xúc gặp lại sông Đà cũng được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nối lại chiêm bao đứt quãng là một việc gần như không thể có trong cuộc đời mỗi con người. Hình ảnh so sánh cho thấy, sự nối lại giấc mơ càng hi hữu, hiếm quý bao nhiêu, càng đem đến cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu cho tác giả khi gặp lại dòng sông thân thương. Gặp lại dòng sông thì nhiều lần, nhưng với tác giả thì vẫn như là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất.
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Câu văn mở đầu đoạn “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng như tái hiện hình ảnh con thuyền êm ái, nhẹ nhàng trôi xuôi. Những so sánh, liên tưởng giàu hình ảnh đã gợi ra vẻ thơ mộng, yên tĩnh, huyền ảo của sông Đà. Hình ảnh “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp” vừa gợi tả sự trùng điệp của những đồi cỏ gianh nối tiếp nhau đến tận những dãy núi xa xăm, vừa gợi ra hình ảnh sinh sôi, nảy nở, tràn đầy sức sống của những “nõn búp”. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” với hình ảnh so sánh độc đáo vừa gợi tả âm thanh (tiếng quẫy), vừa cho thấy màu sắc (sắc trắng như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình (thon dài như thoi) của những đàn cá dầm xanh quý hiếm và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Đoạn văn đã sử dụng hình ảnh miêu tả tràn đầy sức sống, gợi lên sự trù phú, tô điểm thêm cho vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mĩ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
Sông Đà hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa là một con sông hung bạo gây bao khó khăn, nguy hiểm cho con người Tây Bắc, vừa là một dòng sông rất đỗi trữ tình, tạo nên nét thơ mộng cho cảnh sắc đất nước, Sông Đà quả là “chất vàng” của Tây Bắc. Qua hình tượng Sông Đà, văn phong tài hoa, uyên bác cùng tình yêu đất nước của Nguyễn Tuân thật sự để lại ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
3. Hình ảnh con sông Đà thơ mộng, trữ tình
Sông Đà hay còn gọi được gọi là sông Đà giang, là một trong những phụ lưu lớn nhất của dòng sông Hồng. Khi nhắc đến sông Đà ta đều liên tưởng đến nững dòng chảy cuộn xiết với lưu lượng nước lớn và những đoạn thác nước khét tiếng. Những đến với tùy bút sông Đà của Nguyễn Tuân, người đọc lại được cảm nhận một sông Đà rất khác. Sông Đà hiện lên như một nàng thơ, hiền hòa e ấp cuộn mình trong dòng chảy như một suối tóc dài của người thiếu nữ.
Trước hết, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà được thể hiện qua dáng vẻ của dòng sông. Dòng sông không chỉ nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông” mà còn để lại ấn tượng sâu sắc qua những nét vẽ thơ mộng, trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông mang vẻ đẹp dịu dàng như một người đàn bà kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Bằng sự quan sát tinh tế, tác giả Nguyễn Tuân còn phát hiện sắc màu đa dạng, tươi đẹp của màu nước sông Đà: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Sự thay đổi về sắc màu dựa trên quy luật vận động theo mùa, qua nhiều điểm nhìn từ làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu,… đã tái hiện một dòng sông hiền hòa, trong sáng, quyến rũ và tình tứ. Cảnh đẹp hai bên bờ Đà giang cũng được miêu tả trong không gian thơ mộng, trữ tình: đôi bờ dòng sông mang vẻ đẹp “hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…”, lặng tờ “như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê”. Vẻ đẹp huyền ảo, lung linh đó còn được khắc họa qua những nét vẽ về cảnh sắc: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”. Trên mặt nước sông Đà, những đàn cá quẫy vọt lên dòng sông như đàn thoi đang rơi. Tất cả những hình ảnh, chi tiết đều thấm đượm vẻ đẹp nhẹ nhàng để làm nổi bật sự thơ mộng, trữ tình của sông Đà. Qua đó, chúng ta có thể thấy được những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của tác giả Nguyễn Tuân đối với cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc.
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông còn được thể hiện qua tâm hồn. Qua cách nhìn độc đáo của tác giả, sông Đà hiện lên như một cố nhân – người bạn thân thiết từ xưa. Cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông như thấm sâu vào cảnh sắc thiên nhiên và trở nên thân thiết: “… trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Như vậy, qua vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà, chúng ta có thể thấy được trái tim say mê vẻ đẹp thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân mê đắm trước cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Lòng ngưỡng mộ, sự trân trọng, niềm tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang tùy bút hiếm có. Đồng thời, qua đó, chúng ta có thể thấy được phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ luôn say mê tìm kiếm cái đẹp toàn bích, tuyệt mĩ. Ông luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa và thẩm mĩ, đi tìm và sáng tạo cái đẹp. Vẻ đẹp của dòng sông Đà còn tạo nên một bối cảnh đặc biệt góp phần làm nổi bật hình tượng người lái đò – người lao động bình dị với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Bằng những cảm nhận tinh tế, sự sắc nhọn của giác quan người nghệ sĩ, cách sử dụng ngôn từ độc đáo, lối văn rất mực tài hoa, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà. Từ đó, hình ảnh dòng sông đã trở thành biểu tượng thể hiện niềm yêu mến tự hào về cỏ cây, sông núi quê hương cùng khát khao đi tìm cái đẹp, hướng tới và sáng tạo cái đẹp của tác giả.
4. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 1
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách tiêu biểu, đó là hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Với sự hiểu biết sâu, gắn bó và niềm đam mê cháy bỏng bừng vào trang văn, Nguyễn Tuân đã biến dòng sông của tự nhiên thành dòng sông nghệ thuật, thành một sinh thể có tâm hồn tính cách, trước hết là những đẹp thơ mộng, trữ tình được tái hiện qua ngòi bút của Nguyễn Tuân làm say mê bao trái tim bạn đọc.
Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống - lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra và đi thuyền trực tiếp trên sông nước. Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống, tác giả so sánh từ trên máy bay sông Đà “như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, phép so sánh cụ thể hóa dáng hình mềm mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn trên núi rừng Tây Bắc. Tác giả tiếp tục sử dụng trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để tô đậm thêm vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ muôn sắc của dòng sông, “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc. Phép so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả, mượt mà, duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều, hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông. Động từ “bung nở” là một động từ mạnh đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ xôn xao rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng người. Những phép tu từ giúp Nguyễn Tuân vừa tả sông Đà lại vừa gợi lên vẻ đẹp lộng lẫy giống như một cô gái Tây Bắc e ấp tình tứ. Nguyễn Tuân phải rất yêu sông Đà thì mới có cái nhìn đắm đuối say mê xuyên qua làn mây mùa xuân thấy “mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích”, phép so sánh tài hoa làm nổi bật màu nước sông Đà vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Còn khi qua làn sương mùa thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Khi đi từ rừng ra nhà văn lại thấy nước sông Đà chói lóa như trẻ con nghịch miếng gương chiếu vào mặt trời, ánh sáng này cũng cho ta cảm nhận rằng nước sông Đà rất trong, phản chiếu ánh mặt trời chói lóa gợi cảm giác ấm áp. Trên bờ bãi sông còn có sắc màu lộng lẫy của chuồn chuồn, bươm bướm.
Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh”, “những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất”, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu.
Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân, lúc lại đắm say như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, ấm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến để sông Đà mãi sống trong lòng người đọc.
Thành công xuất sắc của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đó là bức tranh thiên nhiên rất thực hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của thiên nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật.
5. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 2
Nguyễn Tuân là một con người hết mực tài hoa, uyên bác. Dù chỉ viết văn nhưng ông lại có sự am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng cường khả năng quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ. Và “Người lái đò Sông Đà” là một tác phẩm đỉnh cao, thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ, cũng như những quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo. Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, có lúc ông quan sát con sông từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc thì tầm nhìn của ông lại gần hơn khi ông đi thuyền trực tiếp trên con sông. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà thật “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chôc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số ,ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình- một nét tính khác của Sông Đà đươc Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm chất chữ tình
Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Phép so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình như nhấn mạnh hình dáng dòng sông mềm mại, mượt mà, lại duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều như áng tóc của người con gái. Cùng vớ hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý Bạch,Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực ,vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi ông khách sông Đà…, những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái đẹp.
Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.
6. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 3
Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ – “suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp” (Gs. Nguyễn Đăng Mạnh). Tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc. Đoạn văn ta sắp phân tích sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đó của Đà giang.
Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” được trích trong tùy bút sông Đà (1960). Tác phẩm này là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng mà Nguyễn Tuân đã đến với Tây Bắc. Tây Bắc hùng vĩ mà dạt dào chất thơ đã tạo ấn tượng cho nhà văn, nhất là con sông Đà. Nguyễn Tuân sau khi trở về Hà Nội đã bắt tay vào sáng tác tùy bút Sông Đà. Tác phẩm nhanh chóng đến với bạn đọc và được đón nhận nồng nhiệt. Tùy bút đã thật sự gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi chất liệu ngôn từ phong phú và đa dạng. Nhà văn đã huy động cả kho tàng tiếng Việt, cả nhiều ngành nghề, lĩnh vực để tái hiện một sông Đà hung bạo, trữ tình và một người lái đò mang cốt cách nghệ sĩ.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Lóong “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người đàn bà kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Sự nhân cách hóa đó làm sông Đà gợi cảm biết bao!
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về.
Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ giành đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào nguyên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
Sông Đà là dòng sông của Tây Bắc, dòng sông với trữ lượng thủy điện lớn nhất cả nước. Đó cũng là một dòng sông hiểm nguy rình rập với “ trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh “. Nhưng đó cũng là một dòng sông lai láng chất thơ trong cảm nhận của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
7. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - mẫu 4
Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tuân được sống hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn để ông sáng tác.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống - với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh “sông Đà như một áng tóc” kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà - của người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.
Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.
Tác giả đã quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.
Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.
Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
8. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - mẫu 5
Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.
Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh.
Các nhà văn khác thường so sánh cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sánh của ông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông” gợi đến bao cái vô hình “bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm. Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc.
Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khi tả Sông Đà “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại.
Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “thèm được giật mình vì tiếng còi xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của ông “từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy?
Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sánh với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh "một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa" hay như “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương… Con sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng đầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “nhớ thương”, đang “lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống?
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng “tôi trôi” và điệp âm “t” gợi hình ảnh con thuyền nổi bênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “ thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc.
“Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, “thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông?
Câu “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dâng trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “chăm chăm”, “lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ chở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống.
Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ ràng. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “nhú”, “mấy”, “lá”, có một cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ngọn cỏ”, “sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ.
Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm đen cả đoạn văn – bài thơ của Nguyễn Tuân.
Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “Tiếng cá đập nước sông đùi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá?
Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nên hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang một điệp khúc xanh của ngô non, áng cỏ, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã được vận dụng, khám phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc sống.
Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xe lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
(Tiếng hát con tàu).
Nhưng “thèm giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới.
Trước Cách mạng, ông đã từng “xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào cảnh vật, và con hươu thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, “ lắng nghe những giọng nói êm êm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
9. Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà ngắn gọn
Sông Đà đâu chỉ hung bạo, mà còn là một dòng sông tuyệt vời thơ mộng. Đặc biệt, từ mạn Thác Bờ về xuôi, Sông Đà chỉ còn vẻ dịu dàng như bất kì một dòng sông nào ở vùng đồng bằng. Bởi vậy, bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân rất chú trọng khắc họa tính trữ tình của dòng sông này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những dòng thơ.
Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dòng sông, trước hết Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Có thể coi đây là một bức tranh tổng thể về Sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn ngoèo giữa điệp trùng núi đá và đại ngàn Tây Bắc nhưng khi về dần đến miền trung du, Đà giang chảy êm ả thẳng dòng?
Tác giả ngắm nhìn sông Đà ở nhiều thời gian, nhiều không gian khác nhau. Với tình cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng sông biến đổi theo từng mùa. Xuân về, Đà giang xanh ngọc bích, tức là màu xanh rất đẹp, vừa trong xanh lại vừa óng ánh, chứ không xanh như màu xanh canh hến. Khi thu sang, nước Sông Đà một vẻ đẹp riêng.
Tác giả đã dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sông Đà để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp: “Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả, lúc thì chậm rãi, như dãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông này: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hình ảnh một bà tiên sứ, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc họa được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng và ví von ấy, dường như Sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua bao tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.
Qua phân tích trên, có thể thấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh con sông Đà ở đây với những nét đẹp đầy thơ mộng, khác hẳn con sông Đà nơi thượng nguồn hung bạo.
10. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà học sinh giỏi
Nguyễn Tuân “cả đời đi tìm cái đẹp”. Tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “con thủy quái nham hiểm, độc ác” mà còn dịu dàng, say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
“Người Lái Đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đặc biệt trong chuyến đi năm 1958, Nguyễn Tuân được sống hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này trở thành nguồn cảm hứng lớn để anh viết. Trong phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ và hiểm trở của một dòng sông nhiều thác ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá bồi thành bãi sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “đá đổ nước, đá xô sóng, sóng xô ngược gió”, những cảnh hút nước rùng rợn; cảnh thác nước gào thét; dòng sông nhiều cửa tử… Kết thúc đoạn trích, tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều góc nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống – với tầm nhìn bao quát. Ở góc nhìn đó, tác giả hình dung sông Đà như một người phụ nữ đẹp với mái tóc trữ tình đằm thắm: “Sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, chân tóc ẩn hiện mây trời Tây Bắc nở hoa với hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Múa đốt cánh đồng xuân, hình
ảnh so sánh “sông Đà như sợi tóc” kết hợp với điệp ngữ “suối dài, chảy dài” dường như mở ra trước mắt người đọc chiều dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như trải dài đến vô tận, trập trùng giữa màu xanh bao la, tĩnh mịch của núi rừng Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” cho người đọc xuýt xoa trước vẻ đẹp ngỡ ngàng của sông Đà. một kiệt tác của đất trời
Chữ “áng” thường gắn với thơ văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” trở thành “áng tóc trữ tình” Hai chữ “ẩn” càng tăng thêm sự huyền bí, trữ tình. của dòng sông. vẻ đẹp của sông Đà – của người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “nở” và điệp từ “lăn tăn” kết hợp với hoa ban trắng rừng, hoa gạo đỏ bên bờ sông. Đọc hình ảnh mái tóc như được tô điểm bởi
mây trời, như tô điểm thêm hoa lá và mơ màng như sương xuân.
Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua cách miêu tả màu nước. Câu văn thể hiện niềm say mê, đắm say của Nguyễn Tuân về sông nước Tây Bắc bay bổng, lãng mạn: “Ta đã say mê ngắm mây xuân bay trên sông Đà, ta đã đi qua mây thu thấy vào nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho sông Đà.
Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh sáng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do mây phản chiếu và đẹp như một đóa hoa phù du; Nguyễn Tuân đã phát hiện ra vẻ đẹp của màu nước sông Đà thay đổi theo mùa. Vào mùa xuân, nước sông Đà có màu xanh ngọc bích, “không phải màu xanh của trai sông Gâm, sông Lô”. Màu xanh lục bảo là trong, màu xanh lá cây tươi sáng, màu xanh – một màu gợi cảm, tươi mới.
Đó là màu của nước, của núi, của bầu trời. Vào mùa thu, nước sông Đà “chảy chậm lại đỏ như da mặt người bầm vì rượu, đỏ bừng trong người bất bình, căm giận bồi hồi”. Câu văn sử dụng phép ví von “từ từ đỏ ửng lên như mặt người bị men rượu” làm cho người đọc hình dung ra vẻ đẹp đa dạng của màu nước sông Đà. Đồng thời, qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã tô đậm thêm trong thơ trữ tình sông nước, có cả sự dữ dội của sông nước Tây Bắc. Tác giả quan sát ở góc độ cận cảnh, bằng những câu thơ, Nguyễn Tuân đã để ngòi bút của mình phiêu diêu về Đà giang. Tác giả so sánh sông Đà với người bạn cũ đi xa, nhớ nhung, vui mừng khôn xiết khi gặp lại. Khi bắt gặp ánh nắng rọi vào mắt mình, trong sự hướng ngoại, nhà văn phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến nao lòng “bừng sáng cả một màu nắng tháng ba”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Ở lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên về Quảng Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ kính của sông nước Tây Bắc. Dòng sông ấy gắn với thơ Đường gợi lên vẻ đẹp êm đềm, trong trẻo, lấp lánh, hồn nhiên và êm đềm. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, khi gặp lại sông Đà, ông mới nhận ra “dòng sông vui như thấy nắng tan đi sau cơn mưa dầm dề, vui như nối lại một giấc mộng tan vỡ”. Với cách so sánh, nhân hoá độc đáo, sông Đà hiện lên thật đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của con sông. Nó trở thành một người bạn trung thành và thủy chung, bình lặng chờ đợi sự trở về của những người đã đi xa. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của thời tiền sử. Câu “Thuyền tôi lênh đênh trên sông Đà” đầy vần trắc tạo cảm giác bình yên, tĩnh lặng, tĩnh lặng. Nội quan này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ, hoang sơ của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang vu chẳng khác gì bờ tiền sử. Bờ sông thơ ngây như một câu chuyện cổ tích xưa. Cách so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi thời gian, mở rộng biên độ, làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên sơ của buổi sơ khai. Cảnh hai bên sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cái tĩnh lặng của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm còn chưa tan, nhà văn đã thấy một vẻ đẹp tràn đầy sức sống “một cánh đồng ngô nhú vài lá ngô non đầu mùa nhưng không một bóng người, cỏ đâm chồi nảy lộc. núi non đang ra chồi non ”. Cảnh tượng ấy còn ấn tượng bởi một “đàn hươu chúi đầu xuống ăn những búp cỏ đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy đầy chất thơ và chất hội họa. Thiên nhiên như một bức tranh màu nước lộng lẫy. Điều đó làm chúng ta nhớ đến cảnh ở Trung Quốc, giả sử rằng một người đánh cá một ngày nọ chèo thuyền ngược dòng sông và bị lạc vào một thế giới thần tiên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ còn toát lên từ điển gợi lên trong lòng người đọc vẻ đẹp của vùng sông nước Tây Bắc - nơi khởi nguồn của tình yêu quê hương đất nước.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng đàn cá hú… đuổi đàn hươu đi” và dòng sông Đà trong thơ Tản Đà “nổi bọt sóng… biết bao cảnh ân tình của một người tình không biết.” làm cho hình ảnh dòng sông trở nên hấp dẫn, có hồn và hấp dẫn hơn.
Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông như một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà thiên nhiên ban tặng để tô điểm cho đất nước; Ông đã khám phá ra cuộc sông về phương diện thẩm mỹ nên thể hiện một phong cách tài hoa. Trang sách đã khép lại, nhưng dường như tâm hồn người đọc vẫn đang trôi trên một dòng sông “hồn nhiên như truyện cổ tích
xưa”.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.
- Chia sẻ bởi:
- Ngày:
Tham khảo thêm
Năm 2021 là năm gì? 2021 mệnh gì? Bích Thượng Thổ là mệnh gì? 30 tết 2021 là ngày mấy dương lịch
Phân tích cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở (3 mẫu) Phân tích truyện ngắn Chí Phèo
Vẻ đẹp người tráng sĩ trong bài thơ Tỏ lòng (4 mẫu) Hình ảnh người tráng sĩ trong bài thơ Tỏ lòng
Những điều kiêng kỵ trong đêm giao thừa 2023 Điều cấm kỵ trong đêm giao thừa
Lịch âm 2023 hôm nay, Lịch 2023 hôm nay Lịch âm năm Quý Mão
Top 8 bài cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia hay nhất Cảm nhận đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Phân tích cảnh đám ma gương mẫu siêu hay Phân tích cảnh đưa đám trong Hạnh phúc của một tang gia

- Top 15 bài phân tích Thương vợ của Tú Xương hay nhất
- Top 11 bài phân tích Vội vàng của Xuân Diệu
- Cảm nhận bài thơ Vội vàng hay nhất
- Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng siêu hay
- Cảm nhận 13 câu đầu bài Vội vàng hay chọn lọc
- Phân tích khổ cuối bài Vội vàng
- Cảm nhận khổ thơ cuối bài Vội vàng
- Phân tích Vội vàng khổ 1 hay nhất
- Phân tích Vội vàng khổ 2 siêu hay
- Kết bài Vội vàng hay chọn lọc
- Mở bài Vội vàng siêu hay
- Phân tích bài thơ Tự tình siêu hay
- Top 10 bài phân tích Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất
- Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến hay chọn lọc
- Top 10 bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến chọn lọc
- Top 11 bài phân tích đoạn 3 Tây Tiến hay chọn lọc
- Phân tích đoạn 1 Tây Tiến hay chọn lọc
- Phân tích đoạn 2 Tây Tiến hay chọn lọc
- Cảm nhận đoạn 3 Tây Tiến hay nhất
- Cảm nhận vẻ đẹp hào hùng hào hoa của người lính Tây Tiến hay nhất
- Phân tích bức tranh thiên nhiên Tây tiến hay nhất
- Ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến
- Phân tích Việt Bắc hay nhất chọn lọc
- Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc siêu hay
- Phân tích Câu cá mùa thu hay chọn lọc
- Phân tích Nhàn hay nhất
- Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích tâm trạng nhân vật Liên hay và xúc tích
- Cảm nhận cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích cảnh đợi tàu của chị em Liên hay chọn lọc
- Cảm nhận bức tranh phố huyện lúc về đêm hay chọn lọc
- Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn hay chọn lọc
- Phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm trong tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất
- Phân tích giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ hay nhất
- Tóm tắt Hai đứa trẻ siêu hay
- Kết bài Hai đứa trẻ hay nhất
- Phân tích Chữ người tử tù đầy đủ và chọn lọc
- Phân tích truyện Tấm Cám đầy đủ và chọn lọc
- Phân tích nhân vật An Dương Vương đầy đủ nhất
- Phân tích nhân vật ông Hai hay nhất
- Phân tích Làng Kim Lân đầy đủ và chọn lọc
- Phân tích Chiếc lược Ngà chọn lọc nhất
- Cảm nhận Câu cá mùa thu hay nhất
- Phân tích bài thơ Tỏ lòng hay nhất
- Cảm nhận về Tiểu đội xe không kính hay nhất
- Phân tích Bài ca ngất ngưởng hay nhất
- Phân tích Đoàn thuyền đánh cá hay nhất
- Phân tích bài thơ Đất nước hay chọn lọc
- Phân tích Cảnh ngày hè hay nhất
- Phân tích bài thơ Đồng chí hay nhất
- Phân tích Sóng đầy đủ và chọn lọc
- Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
- Phân tích khổ 5 6 bài Sóng hay nhất
- Phân tích 2 khổ đầu bài Sóng hay chọn lọc
- Phân tích 3 khổ cuối bài Sóng hay chọn lọc
- Cảm nhận 3 khổ thơ cuối bài Sóng hay nhất
- Mở bài Sóng hay chọn lọc
- Phân tích hình tượng Sóng hay nhất
- Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ Sóng
- Phân tích nét truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng siêu hay
- Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Sóng siêu hay
- Phân tích khổ 5 6 7 bài Sóng hay chọn lọc
- Phân tích bài thơ Bếp lửa hay chọn lọc
- Cảm nghĩ về mẹ hay nhất
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya hay chọn lọc
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bạn đến chơi nhà
- Phân tích Hạnh phúc của một tang gia hay nhất
- Phân tích Người lái đò sông Đà hay chọn lọc
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng hay nhất
- Tóm tắt Lặng lẽ Sapa ngắn gọn xúc tích
- Tóm tắt Chí Phèo ngắn gọn và đầy đủ
- Phân tích nhân vật Chí Phèo sau khi ra tù
- Phân tích nhân vật Chí Phèo ngắn gọn
- Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo hay chọn lọc
- Phân tích cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
- Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở siêu hay
- Cảm nhận về nhân vật Chí Phèo hay chọn lọc
- Phân tích truyện ngắn Chí Phèo hay sâu sắc
- Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo siêu hay
- Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo sâu sắc nhất
- Cảm nghĩ về tình bạn hay chọn lọc
- Kể về một kỉ niệm đáng nhớ hay chọn lọc
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang siêu hay
- Thuyết minh về hoa mai ngày Tết siêu hay
- Thuyết minh về cây hoa đào hay chọn lọc
- Phân tích bài thơ Ánh trăng siêu hay
- Thuyết minh về cây bút bi siêu hay
- Hãy kể về 1 kỉ niệm sâu sắc trong lòng em (10 mẫu)
- Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam hay nhất
- Phân tích Độc Tiểu Thanh kí siêu hay
- Kể chuyện mười năm sau em về thăm lại mái trường mà hiện nay em đang học
- Thuyết minh về cái phích nước siêu hay
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa hay chọn lọc
- Thuyết minh về chiếc nón lá hay chọn lọc
- Kể về một thầy giáo hay một cô giáo mà em quý mến siêu hay
- Viết đoạn văn về bạn thân bằng tiếng Anh
- Cảm nghĩ về mùa xuân siêu hay
- Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay
- Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước siêu hay
- Thuyết minh về ngày Tết cổ truyền siêu hay
- Thuyết minh về cái quạt siêu hay
- Thuyết minh về cái kính hay nhất
- Kể về một người thân của em hay nhất
- Thuyết minh về thể thơ lục bát hay chọn lọc
- Thuyết minh về chiếc cặp sách siêu hay
- Kể về một việc tốt mà em đã làm
- Vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế (7 mẫu)
- Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du siêu hay
- Thuyết minh về một loài hoa ngày Tết hay chọn lọc
- Tả cảnh mùa xuân hay chọn lọc
- Bài văn kể về mẹ hay nhất
- Thuyết minh về bánh chưng hay và ngắn gọn
- Phân tích Vợ chồng A Phủ cực hay
- Cảm nhận Vợ chồng A Phủ siêu hay
- Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hay nhất
- Tóm tắt Vợ chồng A Phủ hay nhất
- Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị cực hay
- Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lọc
- Cảm nhận về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
- Top 37 mẫu mở bài Vợ chồng A Phủ hay
- Phân tích nhân vật A Phủ hay chọn lọc
- Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Kết bài Vợ chồng A Phủ hay
- Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân siêu hay
- Cảm nhận của em về sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân
- Vợ chồng A Phủ: tác giả, tác phẩm
- Phân tích Phú sông Bạch Đằng siêu hay
- Phân tích Lưu biệt khi xuất dương hay nhất
- Phân tích Hầu trời siêu hay
- Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt siêu hay
- Phân tích Vợ nhặt hay chọn lọc
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ hay nhất
- Phân tích nhân vật Thị siêu hay
- Tóm tắt Vợ nhặt ngắn gọn và đầy đủ
- Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt siêu hay
- Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt siêu hay
- Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
- Mở bài Vợ nhặt hay nhất
- Kết bài Vợ nhặt siêu hay
- Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
- Ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt siêu hay
- Cảm nhận của anh chị về nhân vật Tràng trong đoạn trích sáng hôm sau
- Cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt (3 mẫu)
- Phân tích nhân vật Tràng sáng hôm sau
- Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo hay chọn lọc
- Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo hay chọn lọc
- Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo siêu hay
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo hay chọn lọc
- Phân tích Bình Ngô đại cáo siêu hay
- Sơ đồ tư duy Bình Ngô đại cáo
- Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo hay nhất
- Phân tích Bình ngô đại cáo đoạn 4 siêu hay
- Cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô đại cáo siêu hay
- Phân tích Chiều tối hay chọn lọc
- Cảm nhận bài thơ Chiều tối siêu hay
- Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối hay chọn lọc
- Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Chiều tối hay chọn lọc
- Nghị luận văn học Chiều tối siêu hay
- Phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối siêu hay
- Phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối siêu hay
- Top 17 mẫu mở bài Chiều tối siêu hay
- Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Bác trong bài thơ Chiều tối
- Top 14 mẫu nghị luận về vấn đề bạo lực học đường hay nhất
- Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay chọn lọc
- Phân tích bài thơ Nhớ Rừng hay chọn lọc
- Nghị luận về hiện tượng xả rác bừa bãi hay chọn lọc
- Phân tích Tràng Giang hay nhất
- Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang hay chọn lọc
- Cảm nhận bài thơ Tràng giang siêu hay
- Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Tràng Giang hay chọn lọc
- Phân tích khổ 1 Tràng Giang hay chọn lọc
- Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang siêu hay
- Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
- Phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
- Thuyết minh về mâm ngũ quả ngày Tết hay chọn lọc
- Mẫu bài viết số 5 lớp 7 đầy đủ 5 đề
- Phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc
- Phân tích hình tượng cây xà nu hay chọn lọc
- Phân tích bài thơ Quê hương lớp 8
- Thuyết minh về cây tre siêu hay
- Nghị luận về tinh thần tự học hay chọn lọc
- Phân tích người đàn bà hàng chài siêu hay
- Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa hay chọn lọc
- Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa hay nhất
- Cảm nhận về nhân vật người đàn bà làng chài hay nhất
- Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng hay nhất
- Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa siêu hay
- Top 29 mẫu mở bài Chiếc thuyền ngoài xa siêu hay
- Phân tích đoạn cuối Chiếc thuyền ngoài xa hay sâu sắc
- Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa siêu hay
- Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài
- Phân tích nhân vật Phùng siêu hay
- Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình
- Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ siêu hay
- Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ siêu hay
- Cảm nhận khổ 4, 5 bài Mùa xuân nho nhỏ siêu hay
- Phân tích khổ 4, 5 bài Mùa xuân nho nhỏ hay chọn lọc
- Cảm nhận khổ 2 3 bài Mùa xuân nho nhỏ hay chọn lọc
- Cảm nhận của em về ước nguyện của tác giả trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Nghị luận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất
- Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay chọn lọc
- Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn siêu hay
- Viết đoạn văn ngắn về trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước
- Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác siêu hay
- Cảm nhận về nhân vật Phương Định hay chọn lọc
- Nghị luận về lòng dũng cảm siêu hay
- Nghị luận về bệnh vô cảm siêu hay
- Phân tích bài thơ Sang thu hay chọn lọc
- Thuyết minh về một món ăn siêu hay
- Phân tích nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội
- Phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 siêu hay
- Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay chọn lọc
- Viết bài tập làm văn số 6 lớp 8 hay chọn lọc
- Phân tích 12 câu đầu Trao duyên siêu hay
- Cảm nhận 14 câu đầu đoạn trích Trao duyên
- Mở bài Trao duyên siêu hay
- Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên hay chọn lọc
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Trao duyên siêu hay
- Cảm nhận 14 câu giữa đoạn trích Trao duyên siêu hay
- Phân tích Trao duyên siêu hay
- Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên
- Phân tích Chí khí anh hùng siêu hay
- Cảm nhận khổ 1 bài Nói với con siêu hay
- Nghị luận xã hội về tinh thần lạc quan
- Phân tích nhân vật Trương Phi hay chọn lọc
- Chứng minh nhân dân ta luôn sống theo đạo lí ăn quả nhớ kẻ trồng cây
- Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó hay chọn lọc
- Giải thích câu tục ngữ đi một ngày đàng học một sàng khôn
- Giải thích câu tục ngữ Một cây làm chẳng nên non ba cây chụm lại nên hòn núi cao
- Nghị luận về tình yêu quê hương đất nước siêu hay
- Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ siêu hay
- Phân tích bài thơ Ngắm trăng siêu hay
- Chứng minh câu tục ngữ thất bại là mẹ thành công
- Thuyết minh về một lễ hội ở địa phương em
- Chứng minh câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
- Chứng minh câu tục ngữ Có chí thì nên
- Chứng minh câu tục ngữ Có công mài sắt có ngày nên kim siêu hay
- Giải thích câu tục ngữ Thất bại là mẹ thành công siêu hay
- Suy nghĩ về những người không chịu thua số phận siêu hay
- Chứng minh câu tục ngữ Uống nước nhớ nguồn hay và ngắn gọn
- Suy nghĩ của em về câu tục ngữ Lá lành đùm lá rách siêu hay
- Hãy viết một bài báo tường để khuyên một số bạn trong lớp cần phải học tập chăm chỉ hơn (3 mẫu)
- Nghị luận về nghiện game siêu hay
- Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng siêu hay
- Giải thích Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người
- Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích siêu hay
- Chứng minh câu tục ngữ đói cho sạch rách cho thơm siêu hay
- Nghị luận khuyên bạn học tập chăm chỉ hơn
- Nghị luận về lòng nhân ái hay sâu sắc
- Nghị luận về tuổi trẻ và tương lai đất nước siêu hay
- Nghị luận về đồng cảm và chia sẻ siêu hay
- Tóm tắt tác phẩm Người trong bao siêu hay
- Nghị luận về trang phục và văn hóa hay chọn lọc
- Em hãy giải thích nội dung lời khuyên của Lênin học học nữa học mãi
- Hãy nói không với các tệ nạn xã hội siêu hay
- Nghị luận tình thương là hạnh phúc của con người siêu hay
- Nghị luận về lòng bao dung hay chọn lọc
- Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn (4 mẫu)
- Văn mẫu Văn học là tình thương - Bài viết số 7 lớp 8 đề 2
- Giải thích câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương người trong một nước phải thương nhau cùng
- Đoạn văn 200 chữ về suy nghĩ tích cực siêu hay
- Nghị luận nói lời hay làm việc tốt ứng xử đẹp là những nét đẹp học đường cần có ở học sinh hiện nay
- Chứng minh câu tục ngữ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây siêu hay
- Giải thích câu tục ngữ Uống nước nhớ nguồn chọn lọc
- Nghị luận sống giản dị giúp ta tìm thấy những điều tốt đẹp trong cuộc sống
- Nghị luận xã hội về dịch Covid19 siêu hay
- Nghị luận học đi đôi với hành siêu hay
- Giải thích câu tục ngữ Lời nói chẳng mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
- Trình bày suy nghĩ của em về tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay
- Phân tích 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú
- Nghị luận về hút thuốc lá điện tử ở học sinh
- Nghị luận về ước mơ siêu hay
- Viết đoạn văn về lòng dũng cảm siêu hay
- Nghị luận về lời cảm ơn siêu hay
- Đọc hiểu: Giặc Covid đang áp đặt luật chơi
- Nghị luận về lối sống có trách nhiệm siêu hay
- Các bài văn nghị luận xã hội lớp 9
- Nghị luận về tác dụng của việc đọc sách siêu hay
- Nghị luận ý nghĩa của cuộc sống hòa bình siêu hay
- Nghị luận về sống cống hiến hay chọn lọc
- Tóm tắt bài Cổng trường mở ra siêu hay
- Suy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
- Tóm tắt bài Sống chết mặc bay ngắn gọn
- Tóm tắt văn bản Trong lòng mẹ siêu hay
- Tóm tắt văn bản Tôi đi học siêu hay
- Tóm tắt văn bản Lão Hạc ngắn gọn
- Phân tích nhân vật chị Dậu hay chọn lọc
- Phân tích Vào phủ chúa Trịnh hay chọn lọc
- Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học
- Nêu cảm nhận của em về những nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh
- Nghị luận về sống đẹp siêu hay
- Soạn bài Cuộc chia tay của những con búp bê ngắn gọn
- Kể về một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong ngày khai trường đầu tiên
- Thuyết minh về cái kéo siêu hay
- Văn học dân gian là gì?
- Soạn Đấu tranh cho một thế giới hòa bình, ngắn nhất
- Tóm tắt Đăm Săn chiến thắng Mtao Mxây ngắn gọn
- Suy nghĩ của em về Bác Hồ kính yêu siêu hay
- Đoạn văn về tình yêu quê hương đất nước hay chọn lọc
- Đoạn văn về tình mẫu tử lớp 8 hay chọn lọc
- Thuyết minh về con trâu siêu hay
- Phân tích Tuyên ngôn độc lập siêu hay
- Ghi lại ấn tượng của em trong buổi đến trường khai giảng lần đầu tiên siêu hay
- Viết 1 đoạn văn ngắn nêu suy nghĩ của em về một lối sống lành mạnh
- Thuyết minh về con mèo hay chọn lọc
- Thuyết minh về đồ dùng học tập siêu hay
- Cảm nghĩ về đêm trăng Trung thu siêu hay
- Nghị luận về rác thải nhựa hay chọn lọc
- Cảm nghĩ của em về dòng sông quê hương siêu hay
- Cách trình bày đoạn văn: Diễn dịch - quy nạp - song hành - móc xích - tổng phân hợp
- Soạn văn 8 Xây dựng đoạn văn trong văn bản
- Phân tích Chiếu cầu hiền siêu hay
- Nghị luận xã hội về tính tự ti và tự phụ siêu hay
- Phân tích nhân vật Đăm Săn siêu hay
- Soạn bài Khóc Dương Khuê
- Trình bày suy nghĩ về điều bản thân cần làm để tuổi trẻ có ý nghĩa siêu hay
- Viết thư cho một người bạn để bạn hiểu về đất nước mình siêu hay
- Soạn Bài ca ngắn đi trên bãi cát
- Viết đoạn văn nêu suy nghĩ của em sau khi học văn bản Đấu tranh cho một thế giới hòa bình
- Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát siêu hay
- Phân tích hình tượng vua Quang Trung siêu hay
- Đoạn văn về bạo lực học đường siêu hay
- Soạn bài Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
- Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều
- Tóm tắt đoạn trích Uy-lít-xơ trở về hay chọn lọc
- Biểu cảm về thầy cô siêu hay
- Biểu cảm về cây phượng siêu hay
- Hãy giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ Gọi dạ bảo vâng
- Cảm nghĩ về ngôi trường em đang học cấp 2 siêu hay