Cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt (3 mẫu)

Vợ nhặt là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Kim Lân. Tuy không được nhắc đến quá nhiều nhưng hình tượng nhân vật người vợ nhặt lại để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Sau đây là bài văn mẫu cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt hay và sâu sắc, Hoatieu xin chia sẻ đến các bạn.

Cảm nhận về khát vọng sống của người vợ nhặt trong Vợ nhặt - Khát vọng sống mãnh liệt của người vợ nhặt chính là tất cả những gì chúng ta đã cảm nhận được rõ nét nhất về hình ảnh nhân vật Thị trong tác phẩm. Bỏ qua tất cả những tự trọng, Thị đã về làm vợ của Tràng trong một hoàn cảnh không thể éo le hơn. Đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, Thị đã lựa chọn con đường sống cho mình bằng cách chấp nhận làm vợ của Tràng mà chẳng có nổi đám cưới. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ một số bài cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt siêu hay giúp các bạn hiểu rõ hơn về diễn biến tâm trạng của nhân vật Thị.

Cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt
Cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt

1. Dàn ý cảm nhận của anh/chị về khát vọng sống của nhân vật người vợ nhặt trong truyện Vợ nhặt (Kim Lân)

I. Đặt vấn đề.

– Kim Lân được mệnh danh là “nhà văn của đồng ruộng”, “một lòng đi, về với đất, với người”.

– Vợ nhặt là truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí xuất bản 1962. Bối cảnh nhà văn lựa chọn để dựng truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Trong nhiều cuộc trò chuyện, trao đổi về tác phẩm, ông đều tâm sự rằng mình viết vế cái đói để khẳng định mục đích này: Cái điểm sáng mà tôi đưa vào trong truyện là những suy nghĩ về nhân phẩm con người. Tôi chú ý: Tuy trong cảnh nghèo đói nhưng con người ta vẫn giữ gìn đạo lí.

– Giới thiệu nhân vật người vợ nhặt.

II. Giải quyết vấn đề.

1. Cảm nhận về khát vọng sống của nhân vật người vợ nhặt:

– Khát vọng sống của nhân vật trước hết thể hiện ở khát vọng được sống qua nạn đói (qua việc người đàn bà bám víu vào câu hò của Tràng, gợi ý để đòi ăn; chấp nhận theo không Tràng…).

– Khát vọng về hạnh phúc gia đình, về tương lai (thể hiện qua hành động cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa; sự đúng mực, ý tứ trong bữa cơm ngày đói,…).

– Nghệ thuật thể hiện khát vọng sống của nhân vật người vợ nhặt.

2. Nhận xét về giá trị nhân đạo mà nhà văn thể hiện qua nhân vật người vợ nhặt:

Khát vọng sống của nhân vật người vợ nhặt thể hiện cái nhìn phát hiện, trân trọng của Kim Lân về phẩm chất tốt đẹp của người nông dân trong nạn đói: trong hoàn cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn thể hiện được phẩm chất tốt đẹp. Đây cũng chính là biểu hiện quan trọng nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

III. Kết thúc vấn đề

– Nhấn mạnh đóng góp quan trọng của nhân vật vào việc thể hiện tư tưởng của tác giả, chủ đề của tác phẩm.

– Thể hiện tấm lòng đồng cảm và trân trọng của Kim Lân dành cho những kiếp người nhỏ bé, cùng khổ.

2. Cảm nhận về khát vọng sống của người vợ nhặt trong Vợ nhặt

I. Đặt vấn đề:

– Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông hướng ngòi bút vào đời sống cơ cực của người lao động, làm nổi bậc vẻ đẹp của đời sống bình dị, thủy chung của con người bằng cả tấm lòng và sự am hiểu sâu sắc của mình. Bởi thế, ông được mệnh danh là “nhà văn của đồng ruộng”, “một lòng đi, về với đất, với người”.

– Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

II. Giải quyết vấn đề:

1. Khát vọng sống của nhân vật trước hết thể hiện ở khát vọng được sống qua nạn đói:

– Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về” thì người đàn bà kia lại im lặng” (mà thường tâm lí im lặng là đồng ý).

– Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư?

– Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống.

+ Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại.

+ Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái ảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình.

⇒ Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: ”Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

2. Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều và giàu khát vọng về hạnh phúc gia đình, về tương lai:

Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét.

+ Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại:

  • Xấu hổ trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư.
  • Ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.

+ Về đến nhà chồng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.

+ Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.

+ Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.

– Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách.

+ Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa.

+ Nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.

– Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.

– Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”.

– Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.

– Viết về sự đổi thay trong tâm lí của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây.

– Thông qua nhân vật người “vợ nhặt” – một sáng tạo của Kim Lân, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp: Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.

Nghệ thuật thể hiện khát vọng sống của nhân vật người vợ nhặt:

+ Đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo

+ Diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế

+ Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật

+ Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…

– Khát vọng sống của nhân vật người vợ nhặt thể hiện cái nhìn phát hiện, trân trọng của Kim Lân về phẩm chất tốt đẹp của người nông dân trong nạn đói: trong hoàn cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn thể hiện được phẩm chất tốt đẹp. Đây cũng chính là biểu hiện quan trọng nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

III. Kết thúc vấn đề:

Qua hình ảnh người vợ “nhặt”, người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực. Tác phẩm thể hiện tấm lòng đồng cảm và trân trọng của Kim Lân dành cho những kiếp người nhỏ bé, cùng khổ.

3. Khát vọng sống mãnh liệt của người vợ nhặt

1. Cảnh ngộ

Không: nhà cửa, quê hương, tên tuổi. Thị không có tên cụ thể, được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”. Số phận, cuộc đời của “thị” là đại diện cho số phận, cuộc đời của những người phụ nữ khác. Nạn đói khiến thị rời bỏ quê hương sống lang thang, vất vưởng, không nơi nương tựa. Thị bị đẩy đến bước đường cùng, trở thành một con số 0 vô nghĩa trong cuộc sống.

Nghề: nhặt thóc kho rơi vãi. Trong cảnh đói kém, tìm được công việc để nuôi thân càng thêm khó khăn. Thị mỏi mòn chờ đợi, “ngồi vêu ra” ở kho thóc đợi “nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì thì gọi đến làm”.

Qua nạn đói: hình hài xơ xác, tính cách chao chát, thiếu ý tứ, xem lời nói đùa của Tràng là lời cầu hôn.

+ Ngoại hình của thị được Kim Lân đặc tả qua một chi tiết “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”. Chi tiết đó đã khiến người đọc hiểu rằng thị là một người phụ nữ không nhan sắc. Nạn đói khiến thị “gầy sọp hẳn đi”, càng thêm xấu. Đến manh áo lành thị cũng không có, quần áo “tả tơi như tổ đỉa”, rách rưới một cách thảm hại.

+ Thị đanh đá,“cong cớn” bắt bẻ khi Tràng nói đùa, nói chuyện với Tràng bằng những câu nói chỏng lỏn, cách nói chao chát. Thị trơ trẽn đến mức “sầm sập chạy đến” khi nhìn thấy Tràng đang ngồi ở quán nước, “sưng sỉa” mắng Tràng và gợi ý để Tràng mời ăn. Khi Tràng mời ăn thì thị sỗ sàng “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, ăn hì hục, ăn không kịp thở, không quan tâm đến xung quanh. Tuy vậy, thị vẫn là một người có bản chất nhân hậu khi chủ động giúp Tràng đẩy xe bò thóc nặng lên dốc.

-> Thị chấp nhận theo Tràng khi chưa hiểu gì về anh và hoàn cảnh gia đình của anh. Trở thành vợ nhặt chẳng qua để chạy trốn cái đói và Tội ác của bọn thực dân phát xít.

2. Niềm tin, khát vọng sống và bản chất tốt đẹp của người lao động

Trên đường về nhà: thị ngượng ngập, e thẹn. Thị ngượng ngùng, tủi hổ khi rơi vào cảnh ngộ trớ trêu, phải theo không một người con trai xa lạ để thoát khỏi cái chết đói đang rình rập, “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Đến nhà Tràng: thị ý thức thân phận rõ rệt, lễ phép, khép nép. Thị ý tứ “nén một tiếng thở dài” thất vọng khi nhìn thấy gia cảnh khốn cùng của Tràng. Thị đã đánh cược cả cuộc đời mình khi quyết định nương tựa vào Tràng và rồi nhận ra chỗ dựa này cũng lắm chông chênh. Mặc dù vậy, thị vẫn nén lòng, bước tới cuộc sống mới với ý thức trách nhiệm của một người vợ. Đối diện với cụ Tứ, “thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Thị ngại ngùng, xấu hổ với cụ Tứ, tự ý thức thân phận bị rẻ rúng của một người phụ nữ khi tự ý theo không về nhà chồng. Trước sự quan tâm, tình cảm yêu thương của cụ Tứ dành cho mình “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, thị “khép nép, đứng nguyên chỗ cũ”. Khi cảm nhận được tình thương, tình người, thị hoàn toàn thay đổi, trở lại là người phụ nữ “hiền hậu, đúng mực”.

Sáng hôm sau: vợ thảo dâu hiền, đảm đang, tháo vát. Thiên chức, bổn phận làm vợ của thị được đánh thức. Thị đảm đang thu vén nhà cửa, dọn dẹp vườn tược, mang lại một không khí mới cho cuộc sống gia đình Tràng. Tính cách thị đã hoàn toàn thay đổi, bản chất, vẻ đẹp tâm hồn thị được hồi sinh.

Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng: thị tế nhị, không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của bà mẹ nghèo nhân hậu. Đón bát “chè khoán” từ tay mẹ chồng, thị nhìn rõ đấy là cám nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, ăn một cách ngon lành thứ lương thực chẳng dành cho người ăn. Tràng không được tế nhị như thị, “mặt hắn chun lại ngay” khi vừa bỏ miếng cám vào miệng.

Thị mang đến tia hy vọng qua lời kể về việc cướp kho thóc. Bôn ba nhiều nơi, thị thấy nhiều, hiểu nhiều. Câu chuyện “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy” của thị đã mở ra một niềm hi vọng mới giữa cảnh đói khát cùng quẫn cho cả gia đình, mở lối cho hiện thực tăm tối.

-> Qua nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân muốn thể hiện một niềm tin đầy giá trị nhân văn: trong lúc tăm tối nhất, con người vẫn khát khao sống, khát khao hạnh phúc, vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình yêu và hướng về tương lai.

4. Cảm nhận khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật vợ nhặt và Mị

1. Giới thiệu chung:

- Tô Hoài là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú, hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói chung.

- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí”.

- Thông qua hai tác phẩm, Tô Hoài và Kim Lân đã thể hiện những nét đặc sắc trong việc khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ.

2. Phân tích:

2.1. Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”:

a/ Thân phận của Mị:

- Mị là một cô gái người dân tộc Mèo (H’Mông) đã kết tinh được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ miền núi. Nhưng dưới mấy tầng áp bức khắc nghiệt tàn bạo của cường quyền, thần quyền, hủ tục phong kiến, Mị gần như tê liệt hết sức sống.

b/ Khát vọng sống của Mị:

Tô Hoài đã khám phá ra lòng ham sống, khát khao tình yêu, hạnh phúc, tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Chính sức sống này là tiền đề quan trọng giúp Mị thoát khỏi nhà ngục thống lí tìm đến Phiềng Sa được cán bộ A Châu dìu dắt để trở thành người tự do, người làm chủ cuộc đời mình, chiến đấu, giải phóng quê hương mình như một tất yếu.

* Sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng của Mị trong đêm tình mùa xuân:

- Các yếu tố làm thức tỉnh ý thức và lòng ham sống ở Mị: khung cảnh ngày xuân ở Hồng Ngài, tiếng sáo gọi bạn yêu và hơi rượu nồng ngày Tết.

- Sự trỗi dậy của sức sống vốn tiềm tàng trong Mị:

+ Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước…

+ Mị nghĩ lại sự tù túng của mình, nghĩ đến cái chết lần thứ 2 -> Muốn giải thoát, kết thúc cuộc đời bi kịch, địa ngục trần gian.

+ Mị thức dậy ý thức và khát vọng: thấy mình còn trẻ, muốn đi chơi, thắp sáng căn phòng lên – thắp sáng khát vọng đời mình, sửa soạn đi chơi -> sự trở về của nữ tính… Mị thôi làm “con rùa…”, muốn làm con chim tung cánh trên bầu trời tự do.

+ Khát vọng bị A Sử chặn đứng, sức sống mùa xuân trong lòng Mị vẫn không hề bị trói buộc, dập tắt. Hồn Mị vẫn bay theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi xuân.

=> Sức sống trong Mị chưa phải đã tắt hẳn, nó như đống tro tàn nhưng vẫn còn hơi ấm, chỉ cần ngọn gió thổi qua, sẽ bùng cháy lên mãnh liệt.

* Sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của Mị trong đêm đông cắt dây trói cho A Phủ:

- Nguyên nhân: Mị trông thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Nó khiến Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Mị nhớ lại kí ức đau khổ - lần mình bị trói đứng, thật đau khổ! Từ thương mình mà đồng cảm, thương cho người.

- Sự thức tỉnh ý thức:

+ Nhận ra dấu hiệu về cái chết, phán đoán “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” -> càng thương hơn và so sánh“người kia việc gì mà phải chết thế”

+ Lần đầu tiên Mị nhìn rõ kẻ thù của mình cũng như những kiếp người đau khổ như mình: “Chúng nó thật độc ác”

+ Nghĩ đến tình huống cha con Pá Tra bảo là Mị cởi trói cho A Phủ, bắt Mị đứng trói thay đến chết trên cái cọc ấy nhưng Mị cũng không sợ -> tình thương vượt lên sự sợ hãi, lấn át cả nỗi thương thân.

- Cắt dây trói cho A Phủ -> hành động tự phát, xuất phát từ tình thương nhưng cũng chính là Mị đang cắt dây trói cho chính mình, chiến thắng cường quyền, thần quyền.

- Sau đó, Mị “hốt hoảng”, “vụt chạy” đuổi theo A Phủ, nói “A Phủ cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất!” -> bắt đầu hành trình từ “thung lũng đau thương” đến “cánh đồng vui” ở mảnh đất Phiềng Sa.

=> Những hành động của Mị có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, cái xấu.

* Qua việc xây dựng tình huống đặc sắc và miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Mị, Tô Hoài đã đặt vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải phóng họ phải đi từ tự phát đến tự giác, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2.2. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”:

a/ Người vợ nhặt hiện lên như một nạn nhân tiêu biểu của nạn đói khủng khiếp năm 1945.

- Nhân vật không có tên riêng, không có lai lịch… chỉ là một thân phận bọt bèo trôi dạt giữa dòng đời.

- Cái đói đã hủy hoại cả vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp nữ tính của một người phụ nữ, khiến thị trở nên liều lĩnh, trơ trẽn đến mức sẵn sàng theo không người ta về.

b/ Song đằng sau hành động liều lĩnh đó là một khát vọng sống mãnh liệt:

- Người vợ nhặt theo Tràng về nhà không chỉ vì cái đói dồn đuổi mà còn xuất phát từ ước mơ được sống trong một gia đình ấm cúng, từ sự cảm động trước một tấm lòng hào hiệp hiếm có trong nạn đói. Vì vậy trên đường về nhà cùng Tràng thị tỏ ra e thẹn, ngượng ngập và ý tứ hơn. Khi nhìn thấy ngôi nhà lụp xụp rách nát, người phụ nữ ấy vẫn ở lại để cùng chia sẻ cuộc đời đói khổ với Tràng chứ không bỏ đi.

- Hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

- Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.

- Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm".

* Đặt thị vào một tình huống đặc biệt éo le, đi sâu khai thác tâm lí nhân vật cùng với khắc họa nhân vật bằng lời nói, cử chỉ, hành động, nhà văn Kim Lân đã cho ta thấy lòng ham sống, khát vọng sống và ý thức vươn lên giành lấy sự sống vô cùng mãnh liệt của thị.

3. Điểm tương đồng và khác biệt của hai tác phẩm:

- Sự tương đồng:

+ Cùng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người. Những nhân vật phụ nữ của Tô Hoài, Kim Lân được các nhà văn quan sát, miêu tả trong xu thế hiện thực, vận động đi lên nên số phận các nhân vật này đã đi từ bóng tối đến ánh sáng, “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.

+ Cả 2 tác giả đều có tài năng xây dựng tình huống và miêu tả tâm lí nhân vật.

- Sự khác biệt: Do cái nhìn khám phá riêng biệt độc đáo của từng tác giả trước hiện thực cuộc sống nên mỗi nhân vật cũng có những biểu hiện khác nhau về số phận và vẻ đẹp tâm hồn thật đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Mị là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi hà khắc mà cụ thể là cường quyền và thần quyền; vợ Tràng bị cái đói, cái chết đe doạ cướp đi sự sống. Nhưng họ không mất đi hy vọng vào tương lai và luôn luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt.

4. Đánh giá:

Tô Hoài và Kim Lân xứng đáng là những cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam, đặc biệt trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật và khám phá những vẻ đẹp trong tâm hồn họ. Ở hai cây bút ấy cũng luôn dạt dào tấm lòng nhân ái, yêu thương, trân trọng con người.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học - Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 10.587
0 Bình luận
Sắp xếp theo