Top 15 bài phân tích Người lái đò sông Đà hay chọn lọc

Tải về

Phân tích bài Người lái đò sông Đà trong bài viết sau đây của Hoatieu là tổng hợp các bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyên Tuân, phân tích người lái đò sông Đà hung bạo, phân tích người lái đò sông Đà trữ tình, phân tích người lái đò sông Đà ngắn gọn, phân tích người lái đò sông Đà dàn ý sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích để các em học sinh hiểu rõ hơn về tác phẩm cũng như nắm được cách làm bài khi đi sâu phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà.

Nguyễn Tuân, một người suốt đời đi tìm cái Ðẹp. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân vừa mang nét ngông vừa có màu sắc cổ điển kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những người đi trước. Đến với tác phẩm Người lái đò sông Đà, người đọc thực sự ấn tượng trước tài về nghệ thuật cũng như ngôn ngữ của tác giả. Khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ. Nguyễn Tuân đã tạo ra một hình tượng con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng. Dưới đây là những bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm.

Phân tích Người lái đò sông Đà

1. Dàn ý Phân tích Người lái đò sông Đà

I. Mở bài

- Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.

- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.

II. Thân bài

1. Lời đề từ

- Lời đề từ “Đẹp vậy thay ...”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.

- Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.

2. Hình tượng dòng sông Đà

a. Dòng sông “hung bạo”

- “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.

- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.

+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:

- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.

b. Sông Đà trữ tình

- Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, ...

- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, ...

3. Hình tượng người lái đò sông Đà

- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao - người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.

- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

- Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ...

+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

III. Kết bài

- Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.

- Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.

2. Sơ đồ tư duy Phân tích Người lái đò sông Đà

Sơ đồ tư duy Phân tích Người lái đò sông Đà

3. Phân tích Người lái đò sông Đà

Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”. – M go rơ ki. Là bậc thầy về ngôn từ và là một trong những cây bút có sức sáng tạo độc đáo nhất của nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự tài hoa, uyên bác, cá tính riêng trong phong cách sáng tác trong những tác phẩm của mình. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể loại tùy bút. “ Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Qua tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã có phát hiện mới mẻ về vẻ đẹp của con sông Tây Bắc, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp lao động tài ba của người lao động mà cụ thể ở đây là hình tượng người lái đò mưu sinh trên sông.

​Tùy bút “ Người lái đò sông đà” được sáng tác sau chuyến đi thực tế gian nan nhưng cũng đầy hào hứng nơi Tây Bắc xa côi của Nguyễn Tuân . Bài tùy bút được in trong tập “ Sông Đà” xuất bản năm 1960 – giai đoạn miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tây Bắc là nơi có biết bao nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình để thực hiện quá trình lột xác văn học và phải nói “ Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm xuất sắc nhất giai đoạn này.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét “… Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”. Quả đúng là ngư vậy, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả cái đẹp của thiên nhiên, con người bằng sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế . Ấy vậy mà hình ảnh con sông Đà hiện lên trong văn của ông thật hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng. Trước hết sự hung bạo của con sông Tây Bắc được nhà văn miêu tả hết sức tinh tế với ngôn từ độc đáo, sáng tạo .

Sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo, dữ dằn, lắm thác nhiều ghềnh, không chảy theo khuôn khổ nhất định như những con sông khác: “Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”. Trước hết tính cách hung bạo ấy được thể hiện ở chỗ vách đá “ đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông. Cái hẹp của lòng sông được tác giả miêu tả đầy chân thực “ đúng ngọ mới có mặt trời”, chặt hẹp tới mức “ chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách”, khiến cho người đi trên sông ngồi trên đò thấy mình “ đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên tầng nhà thứ mấy”… Bằng sự so sánh vừa cụ thể vừa chính xác , nhà văn đã làm cho người đọc cảm nhận đầy thực tế sự nguy hiểm của con sông. Những câu văn miêu tả, liên tưởng đầy độc đáo ấy đã làm cho con sông Đà trở nên đẹp ở vẻ hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm. Vũ Quần Phương khi viết về sông Đà cũng từng nhắc tới những vách đá nơi đây:

Tôi đi với sông Đà
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm, thuộc đá
Tôi thuộc lũ, thuộc dòng

Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách hung bạo của con sông qua “ Nước-đá-sóng-gió”: “ hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Động từ “ xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tục tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông đã dữ dằn càng thêm dữ dằn hơn. Điệp từ “ sóng , gió” gợi lên những khó khăn cho con người khi di chuyển trên những quãng sông dữ tợn. Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng con người , những ai đi qua đây bởi “ quãng này nếu khinh suất không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Tiếp tục miêu tả sự hung hang của con sông , nhà văn đưa người đọc tới quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La , đến với những hút nước và thác đá. Những cái hút “ giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, xoáy tít tận đáy, “ nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rung rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đúng là sông Đà không khác gì một con thủy quái đi đến đâu cũng gieo rắc nguy hiểm. Cho nên “ không một chiếc thuyền nào dám men gần”, bởi nếu bị hút là “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau là tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thác thì cứ thi nhau “oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dưới chân thác thì “ sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Cách so sánh, liên tưởng của Nguyễn Tuân thật độc đáo và rất hiếm thấy ở trong văn học , nó tạo cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy, được tân mắt chứng kiến cái hung dữ của con sông.

Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không có được những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người được. Bởi trùng vi thạch trận trên sông mới là nơi hấp dẫn nhất, lôi cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Mỗi hòn đều có một nhiệm vụ riêng, chúng “đứng, nằm, ngồi tùy thích” miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.

Sông Đà rất kiên định với mục tiêu của mình, nó thận trọng đặt ba trùng vây cho thạch trận trên sông với cách bố trí lực lượng vô cùng nham hiểm, làm sao để bắt sống mỗi con thuyền qua đây. Ở trùng vây thứ nhất: nó xếp đá chia thành ba tuyến, gồm năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh lập lờ ở phía tả ngạn (bên trái) dòng sông. Tuyến một, “đá chia làm ba hàng” như đòi ăn chết con thuyền, một khi thuyền đã vào thạch trận là không có đường lui. Tuyến hai, có thêm hàng tiền vệ canh cửa để dụ cái thuyền vào sâu bên trong, rồi “nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi” (đánh ngược trở lại). Tuyến ba, là cả một “pháo đài đá” với nhiệm vụ “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Trùng vây thứ hai: dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh lúc này nằm lệch ở phía bờ hữu ngạn. “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao mạnh trên sông đá” như muốn nhấn chìm con thuyền, bọn tướng đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa ải “nhằm níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Sang trùng vây thứ ba, tưởng dễ dàng hơn khi ít cửa hơn, nhưng sự nguy hiểm lại tăng lên gấp bội bởi “bên trái bên phải đều là cửa chết”, cửa sinh nằm ở giữa nhưng lại bị bọn đá hậu vệ bao quanh tạo thành 3 cửa “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”; đá xếp thành cổng, cánh mở cánh khép. Tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, từ đó làm nổi bật hình ảnh con người lao động và tình yêu bao la mà Nguyễn Tuân dành cho sông Đà. Ở đó không chỉ là cái tài ở văn chương, cái tâm của người nghệ sĩ mà còn là sự tinh tế của một bậc thầy ngôn ngữ. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu).

​Không chỉ miêu tả con sông Đà ở phương diện hùng vĩ , hung bạo của nó mà nhà văn còn quan sát con sông ở một phương diện khác đầy thơ mộng và trữ tình . Đúng như lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh : “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” . Ông đã miêu tả nét trữ tình của con sông khi đánh tầm mắt từ trên cao xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng sông, ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân cách hóa đó làm cho sông Đà đã trữ tình lại càng trở nên gợi cảm hơn! Đúng như trong “Thư trách người tình nhân không quen biết” của Tản Đà viết:

“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm, sông Lô”. “Xanh ngọc bích” là xanh trong xanh sáng – một sắc màu gợi cảm giác trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà, nó không thay đổi dồn dập như màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước sông Hồng. Bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc những cảnh đẹp ấn tượng dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng bày thạch trận trên sông, “cảnh ven sông lặng như tờ, từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, “Bờ sông Đà, , bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Đúng như nhà văn đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi thơ”. Điểm thêm vào đó là “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” cùng “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “Yên hoa tâm nguyệt há Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Chất thơ trong nét tính cách trữ tình này, có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy, gợi lên trong tâm trí người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho tình yêu quê hương đất nước.

“… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông). Bằng sự quan sát tinh tường , tỉ mỉ của mình Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công vẻ đẹp của con sông Đà lúc thì hung bạo , lúc thì thơ mộng trữ tình như “ một cô thiếu nữ” .

​Từ việc miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của con sông Tây Bắc xa xôi nhà văn đã xây dựng lên nhằm tôn vinh vẻ đẹp tài hoa trong lao động của con người mà nổi bật ở đây là người lái đò mưu sinh trên những quãng sông . Hình tượng người lái đò xuất hiện với vẻ ngoài chạc tuổi bảy mươi “ đầu tóc bạc trắng” nhưng thân hình ông “vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Cánh tay “lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy một cuống lái”, ngoại hình ông lái đò hiện lên đã in đậm dấu ấn của người lao động trên miền sông nước. Trên ngực nổi lên một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Sau hơn mười năm chèo đò ngược xuôi sông Đà hàng trăm chuyến, ông đã “có tay lái ra hoa”, phá từng trùng vi thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước” đã nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Cũng không phải ngẫu nhiên mà người lái đò lại “nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá” mà cuộc sống của họ là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành lấy sự sống từ tay nó về tay mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đi sâu vào miêu tả người lái đò trong cảnh vượt thác: ông lái đò khéo léo tinh tế trong từng động tác đưa thuyền qua mỗi trùng vi thạch trận trên chiến trường sông nước, mỗi trùng vi vượt qua lại một nét tính cách khác nhau hiện lên.Trước tiên, ở người lái đò là cả một sự từng trải, phải là người thực sự say mê công việc, yêu mến thiên nhiên Tây Bắc thì mới có thể gắn bó với dòng sông suốt cả một đời người. Ông lái đò hiểu sâu sắc về thạch trận sông Đà, ông“nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông như “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Chính vì vậy, ông “đã nắm chắc được binh pháp của thần Sông thần Đá, ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá” sông Đà.

Cảnh vượt thác được coi là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có - ở đó là vẻ đẹp tài hoa, mưu trí; sự thông minh, linh hoạt của người lái đò. Chất tài hoa nghệ sĩ ấy được thể hiện trong bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là “trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là tài năng của bậc thầy phù thuỷ ngôn ngữ như Nguyễn Tuân. Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,…

Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.

So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa.

Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí dũng song toàn.
Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Thạch trận sông Đà, nguy hiểm là vậy, dữ tợn là vậy nhưng ông lái đò bằng mưu trí của mình, vẫn vượt qua một cách đầy quả cảm. Qua đó, phải chăng nhà văn muốn chúng ta nghiềm ngẫm một triết lý: giữa cái thế giới độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh!

Hình tượng người lái đò sông Đà là đại diện cho những người lao động trong giai đoạn bắt đầu xây dựng lại đất nước. Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà chính là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm.

"Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" – đó là lời nhận xét cho phong cách văn chương độc đáo của Nguyễn Tuân. Bằng những liên tưởng độc đáo kết hợp với phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ nhuần nguyễn , nhà văn đã mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực khi đọc tác phẩm “ Người lái đò sông Đà”. Tùy bút là lời ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước nói chung và sự tài ba của con người lao động nói riêng. Tất cả đã được tạo nên bởi sự tài hoa, uyên bác, con mắt quan sát tinh tường cuẩ Nguyễn Tuân.

Quả thật không sai khi nói Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái đẹp ông tìm kiếm không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật mà còn là cái đẹp của con người. Có lẽ đối với người dân Tây Bắc hình ảnh con sông Đà và người lái đò vô cùng gần gũi nhưng đối với độc giả khi đọc Tùy bút “ Người lái đò sông Đà “ của Nguyễn Tuân sẽ không khỏi bất ngờ và thán phục trước vẻ đẹp của họ . Nguyễn Tuân đã đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam một tác phẩm đầy sáng tạo với phong cách đậm chất riêng và cái tôi của một người nghệ sĩ, một bậc thầy về ngôn từ.

4. Phân tích bài Người lái đò sông Đà

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.

Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà được trích từ tập “Sông Đà” được sáng tác năm 1960, là thành nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Vắc rộng lớn, xa xôi của Tổ Quốc không chỉ để thỏa mãn tìm những miền đất lãn mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động nơi đây.

“Người lái đò sông Đà” là một tuỳ bút viết về thiên nhiên và con người lao động vùng Tây Bắc. Nổi bật giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là hình ảnh con người, hình ảnh người lái đò dùng cảm, can trường. Với phong cách nghệ thuật rất riêng của mình, khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuân, khi đó, lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là một người nghệ sĩ.

Người lái đò trên sông đà trong tác phẩm là một ông lão đã hơn 70 tuổi và đã lái đò trên dòng sông đà này đã hơn 15 năm. Có lẽ chính bởi ông đã dành phần lớn thời gian của của mình cho nghề lái đò trên sông nước mà bản thân ông đã trở thành một người lái đò lão luyện “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…”.

Nhân vật người lái đò là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với ông: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn tuân. Hình ảnh người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”.

Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của thiên nhiên khắc nghiệt như những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Và một mình một thuyền, ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền.

Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Từng chi tiết được tác giả miêu tả chân thực và táo bạo cho thấy sự dữ dội ghê gớm của dòng thác đối với con người và chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân, người lái đò chính là một người nghệ sĩ.

Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có mùi gì cả…”.

Rồi lại vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”.

Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…Thật là một dòng sông đầy hiểm trở, và gian nan cho con người. Thế nhưng, “người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”…

Qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân đã ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.

Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên dữ dội và con người nhỏ bé, trong cuộc chiến đó, con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”

Từ đây, cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Với tác giả, thiên nhiên là chất vàng của tây Bắc còn con người là chất vàng mười đã qua thử lửa. Trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.

“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người lao động vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với công việc. Nổi bật nền trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động nơi đây.

5. Phân tích một đoạn văn trong tùy bút Người lái đò Sông Đà

Đây là bài phân tích chi tiết đoạn văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà... nó khắc hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên" được trích từ tùy bút Người lái đò sông Đà. Trong bài phân tích, chúng ta cần làm rõ các ý chính như sau:

- Thứ nhất là vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả, hiền hòa của dòng sông Đà:

+ Nhà văn miêu tả khách quan cảnh sắc thiên nhiên và kết hợp suy nghĩ cá nhân của bản thân, khắc họa hình ảnh dòng sông và thiên nhiên hai bên bờ tươi đẹp, sắc nét.

+ Thủ pháp nghệ thuật: so sánh, tu từ, nhân hóa, lặp câu, phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn => Để miêu tả vẻ đẹp trữ tình, thi vị, hoang dại của dòng sông vừa có nét hung bạo, vừa có nét nên thơ là sông Đà.; đồng thời muốn ám chỉ dòng sông như có sức sống mang theo cảm xúc của con người.

+ Ngôn từ nhà văn sử dụng rất tài hoa, như thể hiện một bức tranh hội họa hoặc một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật:

  • Gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng.
  • Không gian: tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”).

- Thứ 2 là cảm xúc của du khách - tác giả và những người khác khi đi trên dòng sông Đà.

+ Rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, một người yêu.

+ Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang dại, cổ tích, huyền thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại.

+ Yêu thiên nhiên nồng nàn, tha thiết; hòa nhập tâm hồn mình với thiên nhiên. Người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu thiên nhiên.

+ Khát khao, mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc.

Nội dung bài văn chi tiết:

Người lái đò sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là “hung bạo và trữ tình” đã được khắc họa thật đậm nét. Để có thể khách thể hóa được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu" ngôn ngữ tưởng chỉ mình không mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông mang nhịp diệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ca ngợi “con sông Đà gợi cảm”, câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa cả hai cực đó là cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài cựu” độc đáo được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ câu “Thuyền trôi trên sông” đến câu… “khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.

Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của sông Đà ở quãng trung lưu. Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái “lặng lờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ như thế là thôi”, nghĩa là không thể lặng lờ hơn được nữa! Thiên nhiên thật hài hòa và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt nhìn “xanh non” của tác giả những hình ảnh kì thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Cảnh đã làm cho vị tình nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa đề diễn tả cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Những so sánh lạ lầm, chính xác mà cùng thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng những khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp bỗng mở ra những liên tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhièn” là cái còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, câu văn đã cập bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không phải bằng giác quan bình thường. Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê cúa một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khói mạng lưới vô hình mà quấn chặt của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt điệu để biến cả một đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ dừ trôi trên một mùi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cùng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh quầy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuối mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kỳ sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi. Bút pháp mượn cái động để tả cái tĩnh đã được vận dụng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cùng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn không ngớt biến hóa. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và “di động” hơn nữa là cái nhìn của Nguyễn Tuân. Có vẻ như ông muốn học cách nhìn của “con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chớp mắt" những sự vật như hiện lên từ thế giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương…”. Vật nào cảnh nào được cây đùa thần của nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịu ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn kia đã được viết theo bút pháp của hội họa “lập thể” mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc thấy được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng vang ngân.

Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với con sông đất nước. Trong khi thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà, trong ông dậy lên bao mối liên tưởng về lịch sử, dậy lên cảm giác hàm ơn sâu xa đối với cổ nhân. Việc ông nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê và câu thơ của Tản Đà cho thấy rõ một thiên hướng bộc lộ cảm xúc rất đặc thù của người từng viết Vang bóng một thời. Nhưng trước vẻ “hoang dại” của bờ sông Đà, nhà văn cũng có những suy nghĩ mang tính tích cực của người công dân mới, mong cuộc sống hiện đại tỏa chiếu ánh sáng lên cả chốn sơn cùng thuỷ tận. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở đây ngân xa như một khát vọng, nó hài hòa với cảm hứng lịch sử, tạo cho đoạn văn một vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa hiện đại. Đối với Nguyễn Tuân, những cái gì mang trong nó hơi thở ấm áp của cuộc đời đều để thương, để nhớ, để lưu luyến cho ông. Trong những câu cuối của đoạn văn này, ông đã trải lòng mình ra với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Qua mỗi dặm đường đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ.

Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam – những “đồng tác giả” của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên “trăm dáng sông xuôi” (ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm).

Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng một tài năng, một tấm lòng, một Nguyễn Tuân – con người suốt cuộc đời đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để sáng tạo nên những áng văn đẹp, làm phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.

6. Nghị luận về Người lái đò sông Đà

“Người lái đò sông Đà" là một một tuỳ bút vô cùng đặc sắc của nhà văn Nguyễn Tuân. Nó gây ấn tượng mạnh cho độc giả, nhất là học sinh khi tìm hiểu về tác phẩm này bởi ngôn từ, nghệ thuật sắc sảo, đôi khi khá trìu tượng. Trong phần này, Hoatieu xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết hoàn chỉnh về Nghị luận Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.

"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi..."
(Đất Nước- Nguyễn Khoa Điềm)

Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:

"Chúng thủy giai Đông tẩu,
Đà Giang độc Bắc lưu."

Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kỳ thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, là một "tờ hoa", "trang hoa" đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.

Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một "cố nhân", một cố nhân "chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lũ ngay đấy". Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: "Đường lên Mường Lễ bao xa - bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, Mỏ Năng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".

Ở phía trên trung lưu sông Đà. đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị "chẹt" như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm...". Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu "ặc ặc" như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe "như là oán trách..., như là van xin..; như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất "đắt" để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có "diện mạo và tâm địa" nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi "thạch trận", dày đặc "cửa tử", la liệt ''boong ke chìm vào pháo đài đá nổi", những ông tướng đá trấn giữ "oai phong lẫm liệt" có bộ mặt "xanh lè" đáng sợ, sẵn sàng "bẻ gãy cán chèo", "bắt chết" những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi "cửa ủi nước", đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.

Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với "một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải", hoặc "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai". Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa".

Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà "lặng lờ"; hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê "quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kỳ lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá "điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi giăng đầy "nõn búp". Là những con hươu rừng "thơ ngộ" ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi thoi". Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui "như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm 'lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi"...

Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà là loại "tùy bút - bút kí". Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc... chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ "đề từ" mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: "Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông", và "Chúng thủy giai Đông tẩu - Đà Giang độc Bắc lưu". Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp "Đường thi" như một câu thơ tuyệt bút của Lí Bạch hơn 1.300 năm về trước:

"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu."

Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị.

"Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình."

Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỷ.

Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc "xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phú kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX - để đưa vào bài kí:

"Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu."

Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. “Người lái đò Sông Đà” đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.

Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.Đọc tùy bút “Người lái đò sông Đà”, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã "để thơ vào sông nước". Ông đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người - ông lái đò - ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Đọc "Người lái đò sông Đà" ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt."

7. Phân tích bài Người lái đò sông Đà chi tiết

Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có biết bao nhà văn, nhà thơ lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến người nghệ sĩ yêu nước Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên các tác phẩm có giá trị được.

Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn miêu tả có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng chính cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà văn còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả, ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng chính là một kẻ thù nhưng lại là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối với nhà văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp, phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.

Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước sông Đà dường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân mà phải thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên, hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.

Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ có phí phách “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi nhất ở ngay chính trong các công việc bình thường mà họ đang làm.

Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.

Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

8. Phân tích người lái đò sông đà ngắn gọn

Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” chính là món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.

Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là một con sông vô tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, tâm trạng và là tuyệt mĩ của tạo hóa. Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông “dựng vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”, “ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”.

Bờ sông Đà thật hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những ghềnh sóng hiện lên với sự dữ dội, hung hãn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Tác giả sử dụng câu văn có sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự hung dữ của ghềnh sông. Nó giống như một mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy”. Đáng sợ hơn là những cái hút nước của sông Đà.

Những hút nước này có độ xoáy rất sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu “xoáy tít đáy”. Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có những chiếc thuyền bị lôi xuống, ”thuyền đi ngâm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện ảnh để đem đến cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.

Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở thác nước và trận địa đá của Đà giang. Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa….da cháy bùng bùng”. Câu vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác và thính giác của người đọc, lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác ở sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận địa con sông Đà.

Đặc biệt là cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên không khác gì một con thủy quái dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức sử dụng mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân, người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, ngỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên nhiên.

Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật trữ tình. Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một thiếu nữ kiều diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện ở hình dáng con sông. Dòng sông Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ bóng mây”. Dòng sông Đà được Nguyễn Tuân ví với mái tóc thướt tha của người con gái đang độ thanh xuân. “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài…đốt nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên th, mờ ảo giữa mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.

Vẻ đẹp con sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông. Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”, “một lương ngô…”,Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống, lam mê đắm hồn người.” Bờ sông hoang dại…cổ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình yên của sông Đà từ ngàn năm trước.

Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà với hai tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã cho chúng ta thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo bạo, bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.

9. Phân tích Người lái đò sông Đà lớp 12

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Trong gia tài văn học đồ sộ của mình tác giả đã từng thử sức qua rất nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng... Nhưng có lẽ đến với thể loại tùy bút đã đưa tài năng của Nguyễn Tuân lên một tầm cao mới. Điều này đặc biệt đã được tác giả thể hiện qua tập tùy bút Sông Đà.

Có thể nói Nguyễn Tuân là một ngòi bút tài hoa và uyên bác. Tập tùy bút Sông Đà là kết quả của chuyến đi của tác giả lên vùng Tây Bắc giai đoạn năm 1958-1960.

Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và hình tượng người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.

Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông.

Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.

Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".

Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”.

Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".

Khép lại Tùy bút Sông Đà, người đọc như được trải nghiệm không gian hùng vĩ cũng như vẻ đẹp nên thơ của cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Qua đó tác giả cũng ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây cũng như tình yêu thương yêu quê hương đất nước con người Việt Nam.

10. Người lái đò sông Đà phân tích

Với bài kì nổi tiếng “người lái đò sông Đà” – rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên nhiên bạo liệt, và ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng tháng 8 nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm, và tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi bật, tài hoa và độc đáo.

Với chất tài hoa tài tử sẵn có trong một tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp, một bộ óc uyên bác và lối hành văn cầu kì, độc đáo, Nguyễn Tuân gây ấn tượng với người đọc bởi những tác phẩm cực đẹp. Đối với ông, đã đẹp là phải đẹp đến toàn mĩ, đã dữ dội là phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Và trong một chuyến đi gian khổ và đầy hào hứng đến vùng Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, ông đã tìm thấy cho mình một “nàng thơ” hoàn mĩ: sông Đà với hai “thái cực” mâu thuẫn đến mê hoặc: hung bạo, dữ dội mà trữ tình, đẹp đẽ.

Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong tác phẩm. Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người lái đò sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy con sông Đà dài ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng.

Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.

Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Và phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh được sử dụng để cảm nhận, tạo cho người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

Những quãng ghềnh thác hãy còn đáng sợ ở cái dữ dằn của gió – nước: quãng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Cái dữ dội, hung bạo của ghềnh thác được mô tả thành công và sinh động như đang hiện hữu trước mắt người đọc bởi nghệ thuật tài tình của Nguyễn Tuân với hàng loạt các động từ mạnh, câu văn nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “sô” và phần nào dựng nên nhịp điệu hối hả, dồn dập vừa như cái dữ dội, mạnh bạo của dòng nước mà còn như tiếng tim đập của người đi trên sông.

Như vậy rõ ràng ở nơi ấy lòng sông rất hẹp, độ dốc của con thác rất cao, nhiều luồng chết, vực xoáy. Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả bạn đọc. Bởi vậy, con sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách và cả ngôn ngữ.

Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lư lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Sông Đà không khác gì một loài thú dữ đầy ranh mãnh, chực chờ vồ lấy những chiếc thuyền mỏng manh. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy…

Bè gỗ nghênh ngang qua đây vô ý là bị hút nước đó lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông đến mười phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những so sánh, ví von “như cửa cống bị sặc”, “như cái giếng bê tông”… đầy gợi hình, gợi cảm của tác giả gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy cận cảnh cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại. Thế nhưng, giống như đang cùng người đọc ngồi cùng một chiếc thuyền qua sông, Nguyễn tuân lại đưa người đọc đến những cái ghê rợn hơn nữa của dòng sông Đà.

Trước hết là những âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: con sông Đà đã trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lau, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng”. Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh khiến hình ảnh sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu khôn khéo, ranh ma.

Tiếp đến là sự hung bạo, dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang mai phục ẩn nấp để gieo rắc kinh hoàng cho người lái đò. Bằng tri thức sâu rộng về quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã phác họa nên một cuộc chiến đầy gay cấn như một quyển binh pháp về đánh trận trên sông Đà. Đá ở đây được chia thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh.

Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng đá đang bày thế trận, tảng nào, hòn nào “trông cũng ngỗ nghịch và như những vị tướng”, “có vị trông oai phong lẫm liệt”, “có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi trước khi giao chiến”. Có vị “lại lùi về một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.

Con thác khúc sông này mới độc áo, xảo quyệt làm sao! Nó như đang mai phục để rồi đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đánh giáp lá cà tì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, giở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.

Đồng thời, khi viết về dòng sông, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà viết về giang sơn là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương Tổ quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu quê hương”.

Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Người yêu văn nhận thấy Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình, vô cùng kiều diễm.

Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại.

Cái đẹp của sông Đà, mà cũng có lẽ cũng là nét đẹp trong tâm hồn Nguyễn Tuân, hiện lên mỗi khác qua mỗi góc nhìn khác nhau. Khi nhà văn bay tạt ngang sông Đà, từ trên cao nhìn xuống con sông, điều đầu tiên nhìn thấy lại chính là hình dáng như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, sau đó là “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây” rất tinh tế và ngưng đọng lại hình ảnh “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải là con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”.

Và con sông Đà lại đẹp một kiểu khác nữa, khi Nguyễn Tuân dẫn người đọc đi xuyên rừng đến. Ông đã gọi sông Đà đến ba lần tiếng “cố nhân”. Nguyễn Tuân ấn tượng với cái màu loang loáng của mặt nước như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Và ông bất chợt phát hiện trong cái lấp lánh ấy “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ bãi sông Đà rập rờn bay bao chuồn chuồn bươm bướm.

Nhà văn vui sướng đắm say khi hội ngộ cùng con sông. Nỗi niềm ấy được ông ví von như niềm vui khi thấy cái “nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “như nối lại chiêm bao đứt quãng” – cái nắng sưởi ấm tình cảm thân thương, gần gũi của tác giả trong cảm giác “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”.

Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ nhàng: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.

Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh động: đó là “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động.

Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một “tiếng còi sương” hoặc “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”.

Có thể nói tâm hồn nhà văn như vỗ cánh cùng ước mơ sông Đà đẹp tươi hơn trong ngày mới dựng xây. Càng về cuối bức tranh, sông Đà càng đẹp và sống động với “áng cỏ sương”, rồi “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” và “tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cảnh thiên nhiên cứ mở rộng dần bằng vẻ đẹp vừa hiện thực vừa biến ảo trong cái nhìn đắm mình trong thơ mộng của nhà văn.

Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa và so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng một cách rất nhuần nhụy. Ông cảm nhận con sông Đà và so sánh nó, ví von nó như một áng tóc của người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ: “như một áng tóc trữ tình”… Đây được xem như đoạn thơ đẹp nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái đò sông Đà”, gấp lại trang sách đã lâu nhưng những câu văn đẹp như những vần thơ ấy vẫn giăng mắc, ở trọ mãi trong tâm hồn của mỗi người yêu văn.

Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.

Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và tư duy liên tưởng so sánh bất ngờ kết hợp cùng việc sử dụng tài tình ngôn ngữ Tiếng Việt với các cấu trúc câu trùng điệp, phối hợp linh hoạt và đầy sáng tạo các biện pháp tu từ, tác giả đã làm nổi bật lên hình tượng con sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng của thiên nhiên đất nước. Hình tượng thiên nhiên này cũng chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong giai đoạn mới.

Qua đó, nhà văn cũng bộc lộ được sự tài hoa của mình khi liên tục sáng tạo nên những dáng vẻ biến ảo khôn lường khiến người đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Đó là sự tài hoa thiên bẩm cùng với nền tảng là một vốn kiến thức uyên bác về cả nghệ thuật lẫn cuộc đời, sự dày công quan sát, tìm hiểu đối tượng cần tiếp cận, khám phá cũng như tình cảm man mác sâu nặng, đằm thắm và giàu sức sống, đầy tươi trẻ dành cho Tổ quốc.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam.

11. Phân tích tác phẩm người lái đò sông Đà

Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng nền văn hoá dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá trị. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.

Trong tùy bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thở khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là "kẻ thù số một của con người". Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông. Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.

Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".

Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của chuồn chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm sương đêm, mọi vật như đang hòa mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người thổn thức: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Sông Đà như một "người cố nhân" lại như một" người nghệ sĩ tài hoa". Qua cách miêu tả thật độc đáo với những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, nâng niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt, Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng người với vẻ tuyệt vời, thân thương.

Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò ấy không phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã gần bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần". Phải chăng những kinh nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Người lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn", con người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những "củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao động của con người trong công việc của mình. Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những thạch trận hiểm nguy, ông không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn: "Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá... Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận bằng dũng cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao động và cuộc sống bình yên: "Thế là hết thác... Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam...".

Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những trang văn của tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại, khơi gợi trong lòng mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị vững bền của đời sống lao động và của dân tộc.

12. Người lái đò sông Đà văn mẫu

Nguyễn Tuân được biết đến là một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm dường như đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), và gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.

Có thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng có lúc lại hết sức trữ tình. Đồng thời, nhà văn dường như cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới đó chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó mà nhà văn đã ca ngợi con sông Đà vừa hung dữ nhưng cũng có lúc trữ tình, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử và cũng rất tài hoa.

Người lái đò dường như đã hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang. Hơn nữa lại có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Có lẽ nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm đến tính mạng, diễn ra nhiều hồi, và cũng rất nhiều đợt như một trận đánh mà ở đó dường như đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Dường như “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là ngay lập tức có một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Có thể nói Nguyễn Tuân như đã dùng rất đắt cho việc sử dụng ngôn ngữ của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào dường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Và khi đi tới đây mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.

Dường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất đó chính là dùng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà dường như vẫn giữ được sự bình tĩnh, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Và ngay cả khi người lái đò bị thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm nữa. Nhưng khi mà người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, không quản mệt nhọc thì ngay lập tức người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lão lái đò dường như cũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Và cho đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng dường như lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên thật hung dữ của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, có thể nói rằng chính những cái kết cục cuối thì với người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã chiến thắng thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Có thể nhận thấy nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải am hiểu và nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Nếu như chỉ cần có một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông Đà không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ ngay. Chung quy lại, thì ở bất cứ nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò dường như vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Dường như mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Và trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi cả. Như những nghệ sĩ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm để đời thì không mấy ai tự tán dương về công sức của mình, và chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ”. Chính vì thế mà họ nghĩ thế lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà dường như còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã có thể bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

13. Bài văn mẫu Người lái đò sông Đà

Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.

Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".

Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.

Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".

Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".

Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...

Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước". Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".

Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?". Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.

Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác...

14. Viết văn Người lái đò sông Đà

“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông” Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sĩ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sĩ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vì một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.

Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.

Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sĩ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.

15. Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà

Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.

Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.

Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.

Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

16. Phân tích hình tượng con sông Đà

Sông Đà có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Thể hiện những nét đặc trưng phong cách của ông. Đặc biệt là qua hình tượng con sông Đà Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà ngôn ngữ đại tài. Ở mỗi trường đoạn khác nhau, vẻ đẹp của sông Đà lại hiện lên với những nét riêng biệt, đầy sống động, đầy sức sống.

Người Lái Đò Sông Đà nói riêng cũng như tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang dấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Đoạn trích Người lái đò sông Đà có lẽ là trích đoạn hay nhất, diễn tả được nhiều nhất vẻ đẹp của sông Đà. Từ đầu đến cuối tác phẩm hình ảnh sông Đà hiện lên với khuôn dung, trạng thái khác nhau, vô cùng phong phú độc đáo. Có lẽ Nguyễn Tuân đã phải dày công nghiên cứu, tìm tòi và quan sát kĩ lưỡng mới có thể đem đến cái nhìn hoàn chỉnh, đẹp đẽ về sông Đà đến như vậy.

Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh lẽo, thâm u, mà khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, và những hiểm nguy rình rập con người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đò đến đó hút vào, rồi cho tan xác ở đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”.

Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thể hiện rõ nhất chính là trong trận chiến với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí vô cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo ở tiếng thác nước từ phía xa. Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải sợ hãi. Và dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác vô cùng ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó có đến bốn cửa tử nhưng chỉ có duy nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” và lũ thủy quân xô như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.

Nhưng đẹp đẽ nhất, lưu lại nhiều ấn tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con sông Đà hung bạo kia, mà chính là dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Ở một góc nhìn khác, từ trên cao trông xuống sông Đà thật dịu dàng, đằm thắm: con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đoạn văn quả như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái, lại tựa như một bức tranh thủy mặc. Nét vẽ đơn sơ, chấm phá kết hợp với những làn sương khói khiến cho bức tranh đó càng trở nên mơ hồ, huyền ảo hơn. Nhìn ngắm sông Đà ở những thời điểm khác nhau, ông còn phát hiện, mỗi một mùa sông Đà sẽ mang trong mình những dấu ấn riêng. Và dấu ấn đó được thể hiện qua màu sắc của nước thay đổi theo các mùa trong năm. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, lấp lánh, trong trẻo, dường như có thể soi gương được. Nhưng đến mùa thu, mùa nước lũ, với lượng phù sa đổ về, sông Đà lại mang một diện mạo khác hẳn: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Thật nhạy cảm mà cũng rất đỗi tinh tế, bằng sự kết hợp giữa sự tìm tòi, khám phá với tình yêu thiên nhiên sông Đà đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất.

Không chỉ cảm nhận sông Đà là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, mà ông còn coi sông Đà như một con người, đặc biệt là một cố nhân: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Bờ bãi sông Đà gợi nhắc ta nhớ đến thế giới đường thi cổ kính, lại vừa gợi nhớ đến thế giới cổ tích đầy diệu kì. Nỗi nhớ sông Đà không chỉ đơn thuần là nhớ tới một địa danh, một nơi đã từng đi qua, mà nỗi nhớ ấy như dành cho một người cố nhân, người bạn cũ. Bởi vậy mà càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn.

Sông Đà mang trong mình vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, hoang sơ như thời tiền sử. Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”.

Sông Đà trong những trang văn của Nguyễn Tuân không đơn thuần là một cảnh trí thiên nhiên tuyệt mĩ, đặc sắc. Mà hơn hết thông qua sông Đà ông thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của mình. Đồng thời cũng cho thấy sự chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật của ông. Ông tìm thấy cái đẹp, cái mĩ ở đây, tại cuộc sống, thời điểm này chứ không phải tìm về quá khứ của một thời vang bóng.

17. Phân tích Người lái đò sông Đà học sinh giỏi

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mạng tháng 8 tên tuổi của ông được biết đến thông qua tác phẩm “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”,…Sau cách mạng tháng 8, ông chuyển sang thể loại tùy bút và thành công nhất ở thể loại này chính là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình tượng con sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ.

Người lái đò sông Đà là một thiên tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Tác phẩm là một thiên tùy bút mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người nghệ sĩ tài hoa đã dùng cây bút của mình để khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.

Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy nhà văn đã ngầm thông báo với bạn đọc về hai đặc điểm của con sông với nét tính cách đối nghịch: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông Đà như một bản thể có tâm tính phức tạp. Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội hiểm ác của con sông Đà.

Theo Nguyễn Tuân có lẽ đây là con sông lắm thác ghềnh, vực xoáy, vô cùng nguy hiểm cho con người. Mùa lũ đến, nó “ác như người dì ghẻ”, dữ dằn như con quái vật, trở thành “kẻ thù số một” của con người. Chất hùng vĩ của con sông Đà được hiện lên trước hết ở cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành. Những bức thành vách đá chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của lòng sông được nhà văn xoay ngắm đủ các giác độ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”,…thật thú vị. Một sức hút bình thường làm sao có nổi sự so sánh vừa chính xác, vừa tinh tế vừa phong phú, vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến kiệt cùng cái kho ngôn ngữ muôn màu sắc để đem đến cho người đọc không chỉ cảm nhận bằng thị giác, cảm giác mà cả những tưởng tượng thú vị. Cái khủng khiếp, dữ dội và hiểm ác của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân đặc tả ở những quãng mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn,..rồi tiếp đến là những hút xoáy nước “Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn…sâu như tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Chưa dừng lại ở đó Nguyễn Tuân tiếp tục tìm cho ra cảnh tượng gây được ấn tượng mạnh cho đọc giả. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên,…nghe như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bùng,..”. Nếu như ở đoạn trên nhà văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sựu khủng khiếp mà đày lí thú của những xoáy hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng nỉ non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích. Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tính dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đờn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới lòng sâu, đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái – kẻ thù số một của con người.

Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không bằng lòng với những tri thức hời hợt, quen nhàm mà luôn dồn hết tâm huyết, dựng công khó nhọc tìm tòi mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu giá trị vàng với những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây là đoạn văn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá, sông Đà ở đoạn này hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân bỗng đổi giọng dạt dào, tha thiết, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang được cùng Nguyễn Tuân bồng bềnh trên máy bay rà “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”, thấy Tổ quốc thật bao la. Để từ đó bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Thật không còn so sánh nào đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với áng tóc của một mĩ nữ.

Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng “mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thấy sự tài hoa của bậc du tử khi miêu tả sắc nước sông Đà.

Là cây bút suốt đời tìm kiếm và khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân cùng với các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc để tìm cho ra “cái thứ vàng mười” của núi sông Tây Bắc.

Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy luật của dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử luồng sinh, thông minh gan dạ, hoạt bát tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái. Vẻ đẹp ngoại hình của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đã ngoài bảy mươi, đàu tóc bạc trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mắt tinh anh với nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò là một “tay lái tài hoa” từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Ông là một nhân vật không tên bởi ông là đại diện cho bao con người trên khắp đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm cần mẫn trong lao động, không ngừng đối mặt với những thiên tai, địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Chính bởi vậy mà hình tượng người lái đò càng trở lên lớn lao và kì vĩ.

Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba lần thủy chiến. Cuộc giao tranh giữa một bên là chiếc thuyền con én cùng một con người nhỏ bé, mong manh đơn độc với một bên là gần trăm con thác dữ lớn nhỏ được ví như con quái vật khổng lồ tâm địa hiểm ác đại diện cho sức mạnh kì vĩ, dữ dội của thiên nhiên. Cuộc chiến diễn ra không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, hiên ngang, ngoan cường, bình tâm xử lí tình huống một cách dũng cảm, mưu trí, quyết liệt, táo bạo trước con quái vật nanh ác và giành được chiến thắng. Để miêu tả cuộc giao tranh đầy cam go, quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn kiến thức uyên bác về địa lí, lịch sử và vốn ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự kết hợp với các thủ pháp nhân hóa, so sánh liên tưởng khôn lường, bất ngờ để cống hiến cho người đọc những trang văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh quay sống động bằng nghệ thuật ngôn từ đầy tài hoa, kì thú và hấp dẫn.

Cuộc giao chiến lần một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là chân trời đá. Đá ở con thác này mai phục hàng ngàn năm, chúng ngỗ ngược đứng, nằm, ngồi tùy sở thích, biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu vệ…đòi ăn chết con thuyền đơn độc nhưng ông lái vẫn nhớ mặt từng đứa. Khi thạch trận bày xong, có sự phối hợp của nước thác, sóng thác. Nước hò la vang dậy làm thanh viện cho đá. Đá oai phong lẫm liệt, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân liều mạng đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng ông lái dò mà lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt đánh đòn hiểm độc nhất. Song ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng. Sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén những vết thương, kiên cường vượt qua cơn hỗn chiến.

Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người. Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính mình là người trong cuộc.

Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liền xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thắng, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa ranh giới cửa sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết hớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao độ động bình thường giản dị mà rất đỗi phi thường.

Con sông Đà hung dữ là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với nó như đến với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó, lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói, thiên tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, văn hóa. Dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa, người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,…huy động kiến thức nhiều lĩnh vực: địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,..Tât cả đã tổng hợp, tựu chung lại làm nổi bật vẻ đẹp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng cùng với đó là vẻ đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình dị mà kì vĩ, lớn lao.

Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc giả bức tranh về thiên nhiên sông nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Hiện lên trong bức tranh đó là hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
268 680.552
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm