Top 13 bài cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân siêu hay

Tải về

Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài đã cho người đọc cảm nhận được sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người của Mị. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ bài văn mẫu cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hay chọn lọc sẽ là tài liệu ôn tập bổ ích cho các bạn học sinh.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến. Nhân vật Mị là một trong những nhân vật chính của câu chuyện và là hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh. Hoatieu.vn xin gửi đến bạn đọc một số bài văn mẫu Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết cho thấy tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa Xuân. Bối cảnh đêm xuân khiến Mị nhớ lại chuyện xưa, Mị muốn được đi chơi (tự do) nhưng hiện thực là Mị đang phải sống kiếp đọa đầy tại nhà Thống lý. Dưới đây là nội dung chi tiết các bài phân tích.

1. Dàn ý cảm nhận Mị trong đêm tình mùa xuân

Mở bài

– Giới thiệu về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

– Giới thiệu về nhân vật Mị và tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Thân bài

* Trước đêm tình mùa xuân

– Mị bị đày đoạ và áp chế nên sống như một người vô hồn, hoàn toàn mất đi ý thức.

– Mị sống lầm lũi qua ngày nhưng không có nghĩa là mất hẳn đi sức sống. Sức sống vẫn tiềm tàng trong con người Mị và chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bùng cháy lên mạnh mẽ.

* Trong đêm tình mùa xuân

– Bối cảnh bên ngoài tác động lên tâm trạng của Mị. Mùa xuân nhiều màu sắc và rộn rã âm thanh khiến Mị muốn ra ngoài.

– Mị uống rượu đến say khướt. Trong cơn say Mị nhớ lại những ngày còn được tự do.

– Thế giới được đánh thức trong lòng Mị đối lập với cuộc sống thực tại.

– Mị có ý định giải thoát mình, giải thoát khỏi cuộc sống như ngục tù.

– Mị không thực hiện được ý định vì đã bị A Sử bắt lại.

– A Sử trói thân xác Mị nhưng tâm trí của Mị vẫn lạc ra ngoài kia.

=> Mị dù không tự giải thoát được thân xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm tưởng của mình.

Kết luận

– Nêu cảm nhận của em về tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân

2. Sơ đồ tư duy phân tích/cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích đêm tình mùa xuân

Sơ đồ tư duy phân tích/cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích đêm tình mùa xuân
Sơ đồ tư duy phân tích/cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích đêm tình mùa xuân

3. Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hay nhất

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.

Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chì vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dầu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.

Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.

Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.

Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa... Những đêm tình mùa xuân đã tới.

Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.

Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.

Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.

Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.

Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi... có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?!

Mải mê chìm đắm trong quá Khứ nên Mị tạm quên hiện tại: Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.

Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:

Anh ném pao, em không bắt,
Em không yêu, quả pao rơi rồi...

Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.

Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động "nổi loạn" diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa... là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.

Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.

Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: Mày muốn đi chơi à?, A sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.

Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đảm chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn: Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào... Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách... Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya... Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tĩnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan... Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.

Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.

Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.

4. Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ngắn gọn

Đề tài Tây Bắc in đậm trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài: "Truyện Tây Bắc", "Miền Tây","Họ Giàng ở Phìn Sa"... Truyện "Vợ chồng A mang ý nghĩa như một "chiến công" của nhà văn Hà Nội này khi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra và khi làm chiến sĩ du kích ở căn cứ Phiềng Sa. Qua đó, tác giả nói lên nỗi thống khổ sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm tham gia kháng chiến để giành lấy tự do, tình yêu và hạnh phúc. Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.

Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Vì món nợ truyền kiếp. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm vô hồn "càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".

Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa ngô ở các nương đã thu hoạch xong. Gió và rét dữ dội. Cảnh sắc làng Mèo càng đẹp. Màu "vàng ửng" của cỏ gianh. Màu trắng, màu đỏ au, đỏ thẫm, màu tím man mát của hoa thuốc phiện vừa nở. Màu "sặc sỡ" của những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm. Tiếng "cười ầm" của đám trẻ con chơi quay. Tiếng sáo thổi rủ bạn đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa... Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị "Riêng mình nào biết có xuân là gì?". Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động.

Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy trên sân chơi thì Mị "tha thiết bồi hồi" khi nghe tiếng sáo từ đầu núi "vọng lại". Mị "nhẩm thầm" bài hát của người đang thổi sáo: "... Ta không có con trai con gái - Ta đi tìm người yêu...". Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát? Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Mị lén lấy hũ rượu, "uống ừng ực từng bát". Uống rượu như nuốt hận. Hay uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Say rượu "lịm mặt", tâm trạng Mị diễn biến. Mị hồi tưởng "sống về ngày trước". Tiếng sáo gọi bạn tình "văng vẳng" trong tai Mị. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị. Mị thổi sáo giỏi... Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.

Mị "từ từ bước vào buồng"với tâm trạng "thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". Mị được thức tỉnh, tự ý thức là mình "trẻ lắm", "vẫn còn trẻ". Mị khao khát "Mị muốn đi chơi". Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. A Sử với Mị "không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!". Không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu "vẫn lững lờ bay ngoài đường". Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lý giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Liệu Mị có dám phá tung và cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận, thân phận mình để đến với những cuộc chơi cùng với tiếng sáo gọi bạn yêu?

Mị vào buồng lần này không phải để nhìn qua "cái lỗ vuông" để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngờ trong buồng. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc... để đi chơi rình bắt gái đem về làm vợ. Mị cũng chuẩn bị đi chơi Tết. Như thách thức. Mị đã hành động. Xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Quấn lại tóc. Với tay lấy cái váy hoa. Rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị "cũng không nói" hay không thèm nói? Hàng loạt hành động "nổi loạn" của Mị diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang "rập rờn" trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi lòng khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi Mị với tay lấy váy hoa... là Mị thực sự được thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ đẹp.

Sự phản kháng Sự phản kháng của Mị phải trả giá nặng nề. Chỉ sau một câu hỏi: "Mày muốn đi chơi à? Thằng A Sử độc ác đã trói Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị quấn lên cột, Mị "không cúi, không nghiêng được đầu nữa". Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài như đã "nhập hồn" vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị "đứng im lặng". Hơi rượu còn như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên đau khổ, đau đớn thực tại, Mị "vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi,những đám chơi". Mị vùng bước đi, lòng "bồi hồi" theo tiếng sáo: "Em không yêu, quả pao rơi rồi – Em yêu người em bắt pao nào...". Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục "tay chân đầu không cựa được". Mị thức "thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa" khi nghe tiếng ngựa "gai chan", nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Mị nghĩ đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã "dỡ vách ra rừng chơi". Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi trong trạng thái lúc mê lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị "nồng nàn tha thiết nhớ".

Bị trói đứng suốt đêm, Mị "bàng hoàng tỉnh" lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo - Không một tiếng động - Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà "khốn khổ sa vào nhà quan"; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng Ngài "một đời con người chỉ biết đi theo con ngựa của chồng". Mị sợ hãi "cựa quậy" xem mình còn sống hay chết. Dây trói siết lại "đau dứt từng mảnh thịt".

Nhờ một sự tình cờ mà Mị thoát chết trong đêm hãi hùng đó. Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh. Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát. Cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi. Cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ. Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như lay gọi, như vỗ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.

Sự "nổi loạn" của Mị cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị mà máu và sự dã man không thể nào vùi dập được! Đêm tình mùa xuân thấm đẫm tính nhân vãn, Nó đã góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Nó đã thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện "Vợ chồng A Phủ".

5. Nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn Tô Hoài

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau:

“Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét

càng dữ.

….

Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gò vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mỵ nín khóc, Mỵ lại bồi hồi”.

Từ đó nhận xét ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Tô Hoài.

Thạch Lam đã từng khẳng định sứ mệnh của nhà văn chính là: “Phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Ý thức được điều đó Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn được sứ mệnh của mình khi mang đến cho bạn đọc tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” với điểm sáng là hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân qua đó thấy được ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Tô Hoài.

Tô Hoài được coi là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trong hành trình sáng tạo bền bỉ của mình ông đã sáng tác đạt tới mức kỉ lục gần 200 đầu sách. Văn chương Tô Hoài thiên về xu hướng phản ánh hiện thực, phản ánh những sự thật của cuộc sống đời thường trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ, bộc lộ vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những phong tục tập quán độc đáo của rẻo núi cao Tây Bắc. Và truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” được sáng tác năm 1952 in trong tập truyện Tây Bắc (1953), là kết quả của chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc.Trong chuyến đi ấy, nhà văn đã có dịp chung sống cùng những người dân tộc thiểu số từ khu du kích đến những bản làng mới được giải phóng. Tô Hoài từng tâm sự: “Cảnh vật và con người nơi đây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá!”. Việc tác phẩm ra đời như một món quà mang đầy nghĩa tình mà Tô Hoài muốn gửi tặng cho con người và mảnh đất nơi đây.

Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: “Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm”. Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến của truyện. Việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được tư tưởng, nội dung và tình cảm. Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Được biết đến là cô gái xinh đẹp, trẻ trung, tài hoa có tài năng thổi lá hay như thổi sáo nên Mị có rất nhiều những chàng trai theo đuổi. Cô đang có một thanh xuân tươi đẹp bên người mà mình yêu thương. Thế nhưng, chỉ vì món nợ truyền kiếp, món nợ tiền kiếp từ ngày cha mẹ mới lấy nhau để lại, Mị đã trở thành món hàng đem ra để trao đổi, cô bị lừa bắt trở thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà thống lý Pá Tra – địa chủ ở Hồng Ngài lúc bấy giờ. Cuộc sống của cô từ đó gắn với đọa đầy về cả thể xác và tâm hồn, cô sống mà như đã chết lúc nào cũng chỉ âm thầm như một chiếc bóng, lẻ loi và đơn độc, cho đến đêm tình mùa xuân năm ấy, khi tiếng sáo tình yêu xuất hiện, cùng là lúc khơi dậy khả năng sống tiềm tàng trong cô gái trẻ này.

Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang là một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan, gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu . Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Thêm một điều lạ lùng là năm ấy mùa xuân lại đến sớm với Hồng Ngài, đây quả là sự bất ngờ bởi lâu lắm rồi xuân mới đến Hồng Ngài sớm như vậy, những biến đổi của mùa xuân cũng đã làm cho lòng người có những xao động nhỏ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Mị quan sát thấy cảnh sắc thiên nhiên có sự đổi khác, những đám trẻ chơi quay, chơi cù, không khí nhộn nhịp, ấm áp tại Hồng Ngài khiến những tảng băng trong trái tim của cô gái này đang tan ra. Sự biến đổi của thiên nhiên, đất trời cũng là một trong những tác nhân làm xuất hiện những đổi thay trong lòng Mị.

Trong không khí mùa xuân rộn ràng sắc màu, âm thanh, có một hình ảnh đặc biệt đã xuất hiện - đó là tiếng sáo. Tiếng sáo gọi về ký ức, gọi về khoảng trời yêu, dội lại trong tâm hồn cô gái trẻ những tiếng lòng tha thiết đã rất lâu chưa được tỏ bày. Tiếng sáo đầu núi vọng vào sâu thẳm tâm hồn gợi về bài hát Mị thường thổi năm xưa:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao chưa có con trai, con gái

Tao đi tìm người yêu”.

Tiếng sáo cất lên từ trái tim tưởng chừng như khô cằn, chai sạn của Mị giờ đây, tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và khát vọng được yêu bấy lâu nay Mị chôn chặt trong tim. Mị như bừng tỉnh, tiếng sáo rung lên trong trái tim Mị khiến cho nhận thức về cuộc sống ùa về.

Tiếng sáo lần thứ nhất từ xa vọng lại khiến trái tim Mị đang lạnh giá, khô cứng, bỗng mềm dịu, ấm áp, đập những nhịp đập hồi sinh trở lại “thiết tha bồi hồi”. Rồi Mị bắt đầu uống rượu, Mị uống “ực từng bát” như để trôi đi bao đau khổ, uất hận. Cách uống rượu như thế khiến Mị say, lịm mặt ngồi đấy. Mị vẫn nghe tiếng sáo vẫy gọi giục giã, men rượu đã nâng tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi, đám chơi trong của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát” khi mọi người về hết “Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”. Men rượu khiến Mị quên và nhớ: lãng quên đi thực tại trước mắt và gọi về những kỷ niệm thanh xuân. Tiếng sáo lần hai lại vang lên “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” tiếng sáo lần này đã đến gần Mị hơn. Tiếng sáo như thôi thúc Mị, lòng Mị đang sống về ngày trước, những ngày tươi đẹp xuân sắc, rực rỡ, vui tươi nhất, thuở ấy “Mị thổi sáo giỏi” “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Theo thói quen, Mị lại bước vào căn buồng tối tăm nhưng lòng phơi phới trở lại, vui như những đêm Tết ngày trước. Đồng thời Mị nhận thức rõ ràng về bản thân, Mị còn trẻ và Mị muốn được đi chơi. Và Mị còn nhận thức được hiện thực phũ phàng rằng mình và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Lúc này, ý thức sống trỗi dậy mạnh mẽ khiến một lần nữa Mị muốn tìm đến cái chết, chết để được sống tự do. Thế nhưng, tiếng sáo vẫn lơ lửng bay ngoài đường như mời gọi, đưa Mị thoát khỏi cảm giác muốn chết. Mị thấy mình như được hồi sinh thêm một lần nữa. Tiếng sáo vẫn ở đây, cùng với khúc ca yêu thương của tuổi trẻ vọng về:

“Anh ném pao

Em không bắt

Em không yêu

Quả pao rơi rồi...”

Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi. Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị xắn miếng mỡ, thắp sáng căn phòng u tối; quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi. A Sử biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm, đánh rồi trói đứng Mị vào cột, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những hành động nhẫn tâm của A Sử dường như muốn đẩy Mị vào bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng thế nhưng Mị thật tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra với mình. Mị đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong đầu của Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà thậm chí còn câm lặng hơn trước.

Cuộc sống hiện lên với muôn màu, nhưng có lẽ sâu thẳm bên trong lại là chính tâm hồn con người ​​ấy vậy mà vẫn có những nhà thám hiểm đại chuyên phiêu lưu khám phá thế giới – đó là những người nghệ sĩ văn chương. Đọc đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân, bất cứ ai cũng đều ngạc nhiên, thán phục trước khả năng am hiểu nội tâm nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Với tài năng nổi bật, Tô Hoài đã miêu tả thật tinh tế những diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa. Chẳng những thế, cả hai Mị và A Phủ đều được thể hiện một cách sống động và chân thực với những nét tính cách của người dân lao động miền núi nói chung và của người H'mông nói riêng. Mị bên ngoài lặng lẽ, âm thầm nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một niềm ham sống, khao khát tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác tự tin. Cả hai tuy cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác nhưng họ tiềm ẩn sức mạnh phản kháng mãnh liệt, dữ dội. Tác giả đã chọn các góc nhìn và điểm nhìn mang tính chất đối lập để tạo ra hai hình tượng nghệ thuật mang những nét đặc sắc khác nhau. Ngòi bút ấy còn được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, ít miêu tả hành động bên ngoài nếu có thì chỉ có những hành động lặp đi lặp lại. Ngoài ra, Tô Hoài còn mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng “Mùa xuân của thiên nhiên của đất trời như gợi lên cả sức sống mùa xuân trong lòng Mị”. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị, và cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút Tô Hoài.

Ai-ma-top đã từng nhận định: “Tác phẩm chân chính sẽ không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi các câu chuyện về nhân vật kết thúc”. Gấp lại những trang viết về “Vợ chồng A Phủ”, về nhân vật Mị một cô gái Mèo với sức sống mãnh liệt song trong lòng người đọc vẫn để lại trong lòng người đọc vẫn những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp, sức sống, khao khát sống của con người. Qua đó mang đến ta một niềm khao khát sống, niềm tin vào chính mình bởi sứ mệnh của con người không phải chỉ là tồn tại mà là sống, sống cho thật ý nghĩa và rực rỡ.

6. Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.

Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.

Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó.

Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử - con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.

Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.

7. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Mẫu 1

Bàn về nghệ thuật viết truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan cho rằng “ truyện ngắn chạy bằng chi tiết”, còn Tô Hoài thì khẳng định : “ Nhân vật là vấn đề cốt tủy”- từ nhân vật mà hình thành nên cốt truyện và cấu trúc tác phẩm cùng với mọi vấn đề của truyện. Phải chăng vì thế mà VCAP là câu chuyện về cuộc đời, số phận của người nghèo khổ vùng núi cao trong quá trình đi từ” thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. Đó là quá trình tự giải phóng cuộc đời mình- quá trình ấy gắn liền với sức sống tiềm tàng, tập trung ngay trong nhân vật Mị. Nhà văn dụng công xây dựng Mị với thế giới nội tâm đầy những biến chuyển, thay đổi để cho người đọc cùng suy nghĩ và cảm nhận chiều sâu nhân vật trong cả tư tưởng và cảm xúc. Điều này thể hiện khá rõ ở hai đoạn trích miêu tả Mị trong những ngày tháng cam chịu về làm dâu Thống lí và Mị trong đêm tình mùa xuân với bao nhiêu là sức sống và sự phản kháng mãnh liệt trào dâng.

Mở đầu truyện, người đọc chúng ta ám ảnh về một cô gái suốt ngày cúi mặt, mặt buồn rười rượi ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu máng ngựa; ám ảnh về một căn buồng kín mít với thứ ánh sáng “ mờ mờ không biết là sương hay là nắng” soi rọi cuộc đời một cô dâu gạt nợ; ám ảnh về sự câm lặng, lùi lũi sống trong cái khổ của người con gái tên Mị. Đó là những gì được tái hiện trong đoạn văn Tô Hoài miêu tả Mị trong những ngày tháng về làm dâu nhà Thống lí. Qua đây, ta thấy hiện lên một cô Mị đầy cam chịu tủi cực với những giày vò về tinh thần đến mức tê liệt bản năng sống.Thời gian “ mỗi ngày” trôi qua, nó như thước phim chậm, rất chậm, mô tả một vòng luẩn quẩn của chuỗi những công việc, chuỗi những đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần chồng chất, giày xéo lên nhau làm Mị “ ngày càng ít nói”, làm cô hóa “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Câm lặng trước mọi diễn biến của cuộc sống, cúi đầu lặng lẽ phớt lờ trước mọi nỗi đau và sự chà đạp để tiếp tục sống, để tiếp tục duy trì cái nhịp thở đều đều, tẻ nhạt, sống đó mà chỉ như sự tồn tại qua ngày, không khát khao, không lý tưởng. Ngòi bút Tô Hoài cứ tự nhiên, không nhiều góc cạnh nhưng sao làm lòng người khắc khoải và bị xoáy sâu vào những trăn trở. Hình ảnh “ con rùa nuôi trong xó cửa” kia cứ luẩn quẩn trong tâm thức để ta phải nghĩ nhiều, nghĩ lại về nó. Ai có thể đoán trước được một cô Mị tài sắc, với tiếng thổi khèn làm say đắm bao tấc lòng, nay lại lùi lũi, câm lặng như tảng đá lạnh ngắt, vô hồn. Nơi “ xó nhà” ấy bao trùm sự u ám, nặng nề, tù túng bao nhiêu thì cái không gian tiếp theo mở ra cũng tù túng, ảm đạm không kém- đó là căn buồng ngày ngày Mị quẩn quanh. Nó kín mít, thứ duy nhất để ánh sáng có thể lọt vào là “ một chiếc lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay”. Trong không gian bao trùm là bóng đen đè nặng, có một chút le lói của ánh sáng chiếu vào, nhưng thứ ánh sáng ấy cũng mù mờ, hư ảo vô định trong màu “ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Dường như mọi ý thức về thời gian và không gian trong Mị cũng mờ nhạt như thứ ánh sáng kia. Bức tường đã là rào cản ngăn cách MỊ với ánh sáng bên ngoài, là một vách ngăn hữu hình tách biệt cô với tất cả những rực rỡ, tươi vui của cuộc sống để cuộc đời đang diễn ra với cô chỉ toàn là những thứ bị bóng tối của không gian vùi lấp, bị bóng tối xâm lấn cả phần tâm hồn, ràng buộc đôi chân và trói chặt cả những tiếng phản kháng dù rất mãnh liệt ngày trước trong Mị. Bóng tối, dù nó luôn im lặng, nhưng lại mang sức mạnh ghê gớm, nó khuất phục con người bằng cách giết dần giết mòn đi sức sống, bằng cách buộc người ta phải chấp nhận cúi đầu mà cam chịu lẩn mình trong nó. Và Mị cũng đang là nạn nhân của bóng tối, dường như sống chung với cái khổ, sống chìm trong bóng tối lâu rồi nên Mị quen khổ rồi và Mị cũng quên đi cả ánh sáng. Những tội ác bất nhân của cha con Thống lí đẩy Mị vào tận cùng của nỗi tủi cực, tái tê, nhưng những định kiến trong chính con người Mị lại càng đẩy nàng đến vực thẳm của bất hạnh. Bất hạnh gì bằng việc con người không còn cảm giác, cảm nhận được cái khổ? Bất hạnh gì bằng việc con người ấy nhìn ra ánh sáng mà vẫn chấp nhận chết trong bóng tối? Mị cũng nghĩ tới tương lai, nhưng đó lại là vòng lặp của quá khứ, của những gì đang diễn ra trước mặt, của cái chết vùi trong cam chịu và, bóng tối… Lúc này, những giày vò thể xác đã không là gì vì nó đã khiến Mị chai lì, nhưng con ma của sự thỏa hiệp, của sự tê liệt hoàn toàn cảm xúc cuộc sống mới thật đáng sợ.

Trở về những ngày tháng xưa cũ, ta vẫn giữ vẹn nguyên trong lòng hình ảnh một cô Mị đẹp như đóa ban trắng của núi rừng Tây Bắc, vừa thắm sắc, đượm hương; một cô Mị khao khát tình yêu và tự do, có ý thức sâu sắc về quyền sống, từng tha thiết xin cha “ đừng gả con cho nhà giàu”, từng có ý định ăn lá ngón kết thúc chuỗi ngày sống không bằng chết. Giờ đây thì sao? Đau đáu trong ta lại là ánh mắt vô thần nhìn ra cái lỗ vuông cửa sổ, là gương mặt chìm lấp trong bóng tối, là sự câm nín cam chịu sống chung với những tháng ngày vô nghĩa và mù mờ hướng về tương lai với cái chết là dấu chấm nhạt nhòa cho cuộc đời một con người. Đoạn văn ngắn, nhịp văn chậm, không nhiều những góc cạnh gằn dữ, nhưng Tô Hoài đã khắc họa đủ sự suy sụp, tê liệt hoàn toàn sức sống của Mị sau những ngày tháng sống trong đau khổ và sống chung với bóng tối. Qua đó, ngòi bút lên án cũng đanh thép hơn bao giờ hết, vì đâu mà Mị thay đổi nhiều quá như vậy? Vì đâu mà bóng tối có thể lấn lướt để ngự trị trong một con người từng luôn hướng về ánh sáng của tự do và hạnh phúc?

Nếu chỉ dừng lại ở những lầm lũi, bế tắc, đau thương trong bi kịch thì truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” chẳng hơn gì những tác phẩm Trước Cách mạnh khi bước chân cuối cùng của con người luôn là những bước đường cùng đầy ai oán. Nhưng không, Tô Hoài muốn khẳng định, không phải hoàn cảnh có sức tác động ghê gớm làm con người bị cuốn theo nó, bỏ lại đằng sau bao giá trị, mà ở đâu đó vẫn tỏa sáng lên sức mạnh nội tâm quật cường tiềm ẩn trong chính những con người tưởng chừng như đã vắt kiệt sức sống như Mị. Vì thế, khi mùa xuân tới, theo những thay đổi của thiên nhiên vạn vật là sự đổi thay, nảy nở những mầm sống, khát vọng nơi trái tim con người: Ở đoạn văn miêu tả này, Tô Hoài khắc họa nhân vật Mị với bao nhiêu sự hồi sinh trong cảm thức về cuộc sống, về cả chính số phận mình. Cái nồng nàn của lửa, của men rượu, cái tươi vui rộn ràng của mùa xuân Hồng Ngài đã đánh thức tâm hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị để truyền đến trái tim những rung động thổn thức, bồi hồi sau bao tháng ngày bị trơ lì, cằn cỗi. Mùa xuân là tín hiệu đẹp trong sự hồi sinh và nó đang làm hồi sinh chính tâm hồn Mị. Đêm tình mùa xuân, cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương, hay đêm được tượng trưng bởi tiếng sáo mê ly, đã đến. Sau khi cất tiếng hát nhẩm thầm lời bài hát người đang thổi, Mị uống rượu, có lẽ để say, và say là để quên đi thực tại và dũng cảm sống lại với ký ức thuở xa xưa. Hành động tiếp theo của Mị là bước vào phòng, cái căn phòng là vách ngăn khắc nghiệt của Mị với thế giới ngoài kia. Vẫn có thứ ánh sáng đặc trưng trăng trắng qua khe lỗ vuông nhỏ hẹp, lúc này Mị nhìn ra, không phải ánh mắt vô hồn, không phải với suy nghĩ về cái chết rũ xương ở nơi tù túng này, mà là cảm xúc, là thứ cảm xúc ít ai có thể ngờ đến được “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo đánh thức trong lòng Mị hai tiếng “ ngày trước” và “ mùa xuân này”. Trong lòng Mị đã bắt đầu có khái niệm về thời gian trở lại, nó làm ta nhớ đến CHí Phèo vì tình cảm Thị Nở mà lần đầu tiên hắn tỉnh mà cảm được thời gian và tuổi già đang ở trước mắt. Và khi biết nhìn vào thời gian là khi con người có ý thức. Ý thức đang dần sống lại trong Mị. Một quá khứ êm đẹp, một tuổi xuân phơi phới, tất cả cùng sống lại vẹn nguyên như thuở ban đầu, sống thật từng khoảnh khắc trong Mị. Rượu đang làm say lòng người hay chính quá khứ êm đẹp đang gây men làm say lòng Mị để Mị thấy “ phơi phới”,” đột nhiên vui sướng”. Nhưng bất hạnh thay, đó chỉ là những cảm xúc của quá khứ, của ảo ảnh chứ không đến từ hiện tại. Tô Hoài thực sự là người biết đi vào những kẽ sâu của tâm hồn để cho nhân vật cất lên tiếng nói bên trong: “Mị trẻ lắm, Mị hãy còn trẻ.”. Khi một người đàn bà không thiết sống, cả đời vùi vào công việc, cả đời chấp nhận sống trong căn buồng tăm tối, ngột ngạt, không chút đoái hoài đến bản thân, lại nhận ra mình còn trẻ lắm, thì đó là một cảm xúc bi kịch. Người ấy đang giật mình mình lại thương mình xót xa”. Người ấy đang cay cực nhận ra phần hiện thức khốn cùng mà oan uổng cho một tuổi xuân, xót xa cho thân phận và phẫn uất cho số kiếp này. Đó là sự tự nhận thức, một sự tự nhận thức cao độ về bi kịch của bản thân- cái mà suốt một phần đười Mị đã cúi mặt đi qua. Tiếng nói bên trong tiếp tục lên tiếng, răng: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.”. Nó đủ thuyết phục cho ý định “ Mị muốn đi chơi”. Nó đủ để Mị dũng cảm lựa chọn sống với tiếng nói khát vọng của bản thân. Rồi khi ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ, một khi ý thức ấy lên đến đỉnh điểm, thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã, đau đớn sống trong cảnh “ sống không ra người “nữa. Sức sống của khát vọng, và đến bây giờ, sức sống scuar tự do lên tiếng, và lá ngón, một lần nữa lại xuất hiện: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do về thể xác nhưng cô có thể tự do về tâm hồn khi cô kết thúc chuỗi bi kịch bằng cái chết.Như vậy lá ngón lại xuất hiện với tầng ý nghĩa mới, đó là sự giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian.Địa ngục ở đây không chỉ là những nỗi đau chồng chéo về thể xác lẫn tinh thần, mà địa ngục thật sự là khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu. Lại một sự tự nhận thức cao độ, rằng Mị đã mất tất cả: tình yêu, hạnh phúc và tự do. Nó đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng đã “ Chết đi trong cõi sống” ( Chu VĂn Sơn). Tất cả những gì ta thấy, ta hiểu và ta cảm được về sức sống đang lớn dần lên , bừng tỉnh trong con người Mị đã khẳng định một sự thật, Mị không còn bỏ quên mình trong bóng tối, trong vô cảm tàn nhẫn. Mị thôi làm “ con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị muốn làm cánh chim tung bay trong đêm tình mùa xuân.

Hai đoạn văn là hai mảng cuộc đời rất khác nhau của cùng một con người, mà ở đó có những bước ngoặt làm thay đổi rất nhiều thứ trong Mị. Từ cô Mị như một chân dung tĩnh, sống cuộc đời thờ ơ với nỗi đau và khát vọng của chính mình, thì trong hương sắc men say của đêm tình mùa xuân và tiếng sáo dập dờn vi vu nơi thôn bản, đã thổi lại cho cô cảm xúc của trái tim biết yêu, biết nhớ, biết căm hờn, đặc biệt hơn nữa là cảm thức mãnh liệt về thân phận, về bi kịch của số phận. Trong sâu thẳm lòng Mị vẫn có một tiếng hát mà không đòn roi cường quyền, không bóng ma thần quyền nào có thể hủy diệt được.

Những bước đi trong tâm lí nhân vật đã được nhà văn Tô Hoài bắt lấy và dụng vào ngòi bút nghệ thuật để gửi trọn những tư tưởng, suy nghĩ có chiều sâu của mình. Không chỉ ở hai đoạn văn được trích dẫn mà trong cả tác phẩm, Mị hiện lên không nhiều ở lời nói, Mị như một bức chân dung tĩnh, hầu như trong nhà Thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu, nhưng nhà văn luôn biết xoáy sâu vào đời sống tinh thần “cộng nhiều sóng gió”, đấu tranh mãnh liệt trong người con gái ấy. Những khoảng lặng Mị ngồi bần thần nhìn ra ngoài ô cửa bằng bàn tay, không phân định được thứ ánh sáng lọt qua khe ấy là ánh nắng hay sương đêm, không nghĩ nhiều về sự giải thoát mà nghĩ về an phận chết cùng, chết trong chính căn buồng giảm hãm tuổi xuân và hạnh phúc của nàng,… Chi tiết không nhiều, nhưng thực sự nó trở thành điển hình nhất cho những đau thương, mất mát bủa vây, dồn ép con người ta đến bước phải đầu hàng với số phận. Và cũng khai thác rất tinh tế từ một góc nhìn trong một con người ấy thôi, vào đêm tình mùa xuân, Mị cũng nhìn ra ô cửa vuông, cũng thấy thứ ánh sáng trắng trắng, nhưng lần này lại khác, nó mang niềm phơi phới trở lại, nó đi vào với sự vui sướng đột nhiên xuất hiện cùng những hoàn niệm xưa cũ. Lúc đó, MỊ không sống bằng sự lãnh đạm, thờ ơ như trước nữa và sống bằng hết sự nồng nhiệt, cháy bỏng của con tim tuổi trẻ. Sự đối lập được nhà văn vận dụng miêu tả tâm lí tinh tế, cho người đọc phát hiện ra những biến chuyển tâm lý rất mạnh, đột ngột mà cũng hợp lí xuất hiện trong nhân vật Mị. Cũng khai thác ở sự đối lập, ở trên Mị nghĩ về cái chết, cái chết ấy là cái chết sinh lí, tất yếu và vô định, nó thể hiện cái nhìn bi quan, chán nản và buông mình thả trôi theo vần xoay của cuộc đời, không phản kháng, không uất ức. Còn trong đêm mùa xuân, Mị cũng nghĩ đến cái chết, cái chết ngay đi được nếu có thể. nó không phải sự bi quan, đầu hàng số phận nữa, mà ngược lại, cái chết lúc này là hiện thân cho sự tự nhận thức về những cay đắng và khát vọng hạnh phúc mãnh liệt nhất trong con người Mị. Mị muốn chết vì Mị biết mình không thể sống chìm nghỉm trong tủi cực mãi, không thể sống khi những kí ức đẹp về tự do, hạnh phúc cứ bị thực tại trái ngang vùi dập. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài đã thực sự thành công trong việc hình thanh những đối cực xung đột để cho người đọc hiểu và cảm được quá trình tranh chấp giữa khát vọng sống và đầu hàng số phận của nhân vật Mị. Từ đó,niềm tin được nâng cao vào sức sống của con người sẽ không bị hoàn cảnh chôn vùi mà nó luôn tìm ẩn đợi một ngày tỏa sáng.

Đồng thời ta cũng xét đến giọng điệu kể của nhà văn, chậm rãi, tự nhiên thể hiện sự đồng cảm thương xót và thấu hiểu chính nhân vật của mình. Nhiều chỗ Tô Haoif như hòa vào dòng suy nghĩ và tiếng nói bên trong của nhân vật: MỊ còn trẻ. Mị còn trẻ lắm… Nghệ thuật kể chuyện kết hợp nhiều điểm nhìn: bên ngoài, bên trong, xa, gần,… Tất cả, dưới mỗi trang văn, là những bè nghịch âm cùng giao hưởng,các mặt đối cực tranh chấp giúp tâm lý luôn vận động, chuyển hóa, tựa như những dòng độc thoại không dứt.

Cảm hứng xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng hồi sinh, qua hai đoạn văn trích dẫn điểm hình và toàn tác phẩm, nhân vật MỊ hiện lên với khát vọng sống, khát vọng yêu chân chính và mãnh liệt để đi qua những tháng ngày đầy rẫy những đau thương, nước mắt và bóng tối. Tô Hoài đã không ngần ngại để “ hát cho chính đồng bào nghe bài hát lạc điệu của họ để nói ra sự thật, mà đã là sự thật thì không tầm thường” ( Chu Văn Sơn). Ta cũng thầm cảm ơn cái tâm và cái tài của nhà văn đã truyền tới người đọc sức đấu tranh mạnh mẽ khi con người tưởng chừng bị hoàn cảnh hạ gục, đồng thời gửi đến thế hệ sau một áng văn giàu tính nghệ thuật, dào dạt chất thơ, tựa một viên ngọc đẹp và sáng.

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Mẫu 2

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.

Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ. Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.

Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).

Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.

Tìm hiểu vào truyện, ta thấy Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân, cuộc sống tủi nhục hơn trâu ngựa: “Bây giờ thì Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Tâm lý cam chịu, buông xuôi, cách sống âm thầm, lặng lẽ đã in dấu sâu đậm lên dáng vẻ bên ngoài của Mị: “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô gái trẻ ấy chỉ biết “ngồi trong cái lỗ vuông ấy trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Thiên nhiên mùa xuân tác động đến Mị: đó là một mùa xuân rộn rã âm thanh, sắc màu của “váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ” hoà trong “gió rét thổi vào cỏ gianh vàng ửng”; tiếng trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân trước nhà. Chính cái náo nức của đất trời cũng là cái náo nức của lòng người.

Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi”: Mị thấy trái tim mình “thiết tha, bổi hổi”, Mị ngồi “nhẩm thầm” lời bài hát của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã lâu rồi không thổi, bài hát ấy từ lâu cũng đã quên. Nhưng hôm nay Mị vẫn nhớ, vẫn thuộc, vẫn nhẩm thầm. Vậy là Mị chưa có nghĩa đã hoàn toàn vô cảm. Hay nói đúng hơn, chính tiếng sáo là tác nhân đã lay động sâu xa tâm hồn Mị và đánh thức quá khứ cùng hiện tại của Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ cho tự do, cho tuổi trẻ và ký ức đẹp tươi của cô gái trẻ người Mèo. Tiếng sáo cũng chính là men tình đã đánh thức tâm hồn và lý trí của Mị.

Sau khi nghe tiếng sáo: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Đây thực chất là một “cuộc nổi loạn nhân tính” của Mị. Cách uống ấy là sự dồn nén của những ẩn ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào lòng. Rượu làm Mị say “ngồi trơ một mình giữa nhà”. Nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Mị đi đi về về giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại; tỉnh và say…. Mị nhớ về thời con gái của mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng đối lập với ký ức tươi đẹp ấy là hiện tại đầy tủi nhục của Mị “A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết”.

Căn buồng là địa ngục, ngoài kia là thiên đường. Thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau có một ô cửa bằng bàn tay. Nhưng sự tủi nhục không ngăn được lòng yêu tự do của Mị. Bởi: “đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Những từ ngữ như “phơi phới”, “đột nhiên vui sướng”… như diễn tả tận sâu thẳm niềm khao khát của Mị. Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Câu văn sử dụng phép điệp: trẻ lắm, còn trẻ,…kết hợp kiểu câu đơn ngắn làm nhịp điệu câu văn dồn dập, góp phần cho thấy tình yêu tự do và ý thức về bản thân chưa bao giờ bị dập tắt trong Mị. Nó giống như hòn than âm ỉ cháy trong lớp tàn tro giờ có dịp bùng cháy.

Mị lại tủi thân khi nghĩ về A Sử: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Như vậy, khi linh hồn đã trở về, Mị không chỉ ý thức được giá trị của tinh thần mà còn ý thức được hoàn cảnh sống nghiệt ngã. Muốn chết cũng là sự thể hiện rất mãnh liệt sức sống tiềm tàng ẩn chứa trong tâm hồn cô gái Mèo. Nhưng trong cảm xúc đầy bi kịch và sự tuyệt vọng ấy, tiếng sáo lại đến: “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Tiếng sáo đầy mê hoặc, quyến rũ, như lôi kéo Mị, đưa Mị từ vực sâu của tuyệt vọng thăng hoa trở lại cùng khát vọng tự do. Có thể nói: chính tiếng sáo làm Mị ý thức sâu sắc hơn bi kịch của mình, từ đó tự đánh thức mình bằng khát vọng tự do.

Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào dĩa đèn cho sáng… Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi…Mị cuốn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo”. Đây chính là sự “nổi loạn” trong Mị với khát vọng tự do trào sôi, mãnh liệt. Câu văn được ngắt bởi nhiều dấu phẩy, nhịp gấp, nhiều động từ được huy động: lấy, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo… làm cho những hành động của nhân vật trở nên mạnh mẽ, cương quyết, táo bạo. Đó là lúc ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, bất chấp sự hiện diện của A Sử. Giờ đây, bóng đêm của cường quyền bạo ngược và thần quyền đã không thể nào vùi dập được Mị. Bởi khát vọng tự do trong Mị đang lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.

Kể cả lúc bị trói. Mị cũng không biết mình đang bị trói. Dù bị vùi dập phũ phàng, khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi. Thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị đã đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình, Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Bởi vậy khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị – “vùng bước đi”. Là lúc dây trói siết lại đau nhức. Cơn đau thể xác đã đánh thức Mị, rồi Mị tỉnh. Tiếng sáo vụt biến mất, chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Tô Hoài đã khéo léo lồng vào chi tiết này âm thanh của tiếng chân ngựa. Tiếng sáo là âm thanh của giấc mơ; tiếng chân ngựa là âm thanh đau buồn của thực tại. Thực tại đập vỡ giấc mộng làm tiêu tan tiếng sáo. Âm thanh tiếng chân ngựa đánh thức Mị, đập vỡ cả giấc mơ của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở về địa ngục. Nỗi đau thể xác ngay lập tức chuyển hoá thành nỗi đau tinh thần vì Mị chợt nhận ra: “Mình không bằng con ngựa”.

Như vậy, cuộc trỗi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát khỏi cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp của tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một thử thách khắc nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng định một chân lí rằng: sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó không chết mà luôn âm ỉ cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ. Đúng như Lỗ Tấn đã từng nói: “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai”. Hành động của Mị tuy bột phát nhưng sẽ hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở phía trước. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.

Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Mẫu 3

Nhắc đến "Vợ chồng A Phủ" chắc hẳn bạn sẽ nhớ đến ngay cô Mị - một nhân vật trung tâm của truyện ngắn. Với cuộc đời đau khổ và cơ cực, Mị đại diện cho cuộc sống tủi nhục của người dân miền núi dưới ách thống trị của phong kiến và bọn chúa đất. Cuộc đời của Mị trong cảnh làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm. Tuy nhiên dưới ngòi bút nhân đạo của mình, Tô Hoài không để cho cô Mị cứ mãi sống nhẫn nhịn chai lì mà thúc đẩy sức sống tiềm tàng trong cô. Sức sống ấy được bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm ấy đã trở thành điểm ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc.

Nguyễn Du có câu "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Chính vì cảnh vật thiên nhiên nơi miền núi vào xuân đã tác động đến tâm trạng của Mị. "Những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ". Đám trẻ con chơi quay ầm cả bản. Gió heo may, cỏ vàng ửng.... Cảnh vật vào xuân, cả bản ăn Tết. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha bổi hổi cứ vang vọng. Ngoại cảnh đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi tâm trạng của Mị. Và rồi Mị lén uống rượu. "Mị uống ừng ực từng bát". Uống "ừng ực" như để trôi đi, nguôi đi cái buồn, cái khổ. Mị uống như để quên đi cái đau khổ của phầm đời đã qua. Mị uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Nhưng Mị uống chỉ say về thể xác còn tâm hồn cô lại như được thức tỉnh sau bao ngày bị tê liệt, đày đọa. "Chén rượu tiêu sầu, sầu càng sầu thêm". Mị càng uống, Mị càng tỉnh. Mị nhớ về những kỉ niệm ngày xưa. "Ngày xưa Mị thổi sáo giỏi", Mị có tài thổi lá hay hơn thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đứng nhẵn cả đầu buồng Mị. Rồi Mị thấy "phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng". Mị ý thức được "mình còn trẻ lắm". Điều đí đã dẫn tới ý định Mị "muốn đi chơi xuân". Nhớ lại kỉ niệm ngày xưa Mị lại trở về thực tại. Mị ý thức được cuộc đời, số phận của mình. Mị ý thức được tình cảnh đau xót của mình. "Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn sống lại nữa". Tiếng sáo lại rập rờn trong đầu Mị cùng tiếng hát " Anh ném pao, em không bắt- Em không yêu, quả pao rơi rồi". Tiếng sáo và tiếng hát cứ tha thiết như mời gọi lại vừa như giận hờn. Tiếng sáo cứ rập rờn bay bổng thể hiện cho khát vọng tình yêu và tự do. Tiếng sáo ấy cùng men rượu nồng nàn đã thổi bùng lên tâm hồn Mị. Điều đó đã dẫn tới hành động Mị chuẩn bị đi chơi xuân.

Cũng như bao cô gái khác trong làng, họ vẫn đi chơi xuân ngay cả những người đã có chồng cũng vậy. "Huống hồ Mị và A Sử chẳng có lòng với nhau". Thế là "Mị vào buồng, quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa". Mị "xắn thêm mỡ" để thắp sáng căn buồng âm u, thắp sáng ngục tù tối tăm, thắp sáng ngọn lửa khát vọng trong lòng mình. Mị chuẩn bị đi chơi xuân. Phải, đúng như vậy. Nhưng thật không may, A Sử đã nhìn thấy điều đó. Hắn ta không cho Mị đi. Hăn trói đứng Mị trong căn buồng tối tăm ấy. Nhưng A Sử đâu biết rằng, hắn chỉ có thể trói được thể xác còn tâm hồn Mị vẫn theo các cuộc chơi. Mị vừa mơ vừa tỉnh. Mị vùng bước đi theo các cuộc vui nhưng sợi dây trói lại kéo Mị trở về thực tại. Tiếng sáo tha thiết cứ đưa hồn Mị bay theo thì Mị lại trở về thực tại với tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị lại nhận ra mình không bằng con ngựa. Khát vọng chơi xuân của Mị đã bị chặn đứng. Mị phải trở về thực tại. Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch. Khát vọng mãnh liệt của Mị đối lập hoàn toàn với hiện thực phũ phàng. Nhưng điều đó không làm tắt đi sức sống trong Mị mà càng khiến cho sức sống ấy thêm mãnh liệt. Chính khát vọng này của Mị đã thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm. Mặc dù bị chà đạp nhưng sức sống của Mị vẫn còn. Nó như một đốm than nhen nhóm trong đống tro tàn chỉ chờ dịp để bùng cháy. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không dửng dưng trước khát vọng đó của Mị.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Tô Hoài đã tạo một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Ông đã khiến cho trang văn của mình không nhuốm màu u uất và tối tăm mà vẫn chứa chan ánh sáng của sự sống. Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân như một bước "chuyển nhịp" cho tác phẩm. Nó mang đến màu sắc mới cho truyện ngắn. Chính khát vọng sống tiềm tàng, ẩn chứa trong Mị đã làm nên điều đó.

8. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều công sức và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "Truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Tuy nhiên sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực để sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa xuân này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

9. Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân ngắn gọn

Một trong những thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tế, sâu sắc trong việc miêu tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Đó là Mị – người phụ nữ tưởng chừng như đã cam chịu số phận, không còn sức sống và lối thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn vươn lên làm chủ cuộc đời mình. Và cái gì đã khiến bên trong “con rùa” câm lặng ấy bùng lên khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng được quyền làm người cho ra một kiếp người, chính là đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao.

Trong tác phẩm, nhân vật Mị biểu hiện rất rõ khi cô có những biến đổi trong tâm lí trước hoàn cảnh sống và tìm cho mình một con đường hy vọng. Đặc biệt là diễn biến tâm lí của cô trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Những ngày đầu làm dâu, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt, “đêm nào Mị cũng khóc”, Mị muốn tự tử. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa, điều này chứng tỏ trong con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng thương cha sẽ phải gánh chịu hậu quả về cái chết của mình, Mị đành vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.

Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cùng cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng ấy vào tận đáy buồng tìm Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa. Mị bị biến thành một công cụ lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc đời của Mị “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị bị đọa đày đến mức bị tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “biết đi làm mà thôi”. Mị còn phải chịu nỗi đau về tinh thần triền miên. Căn buồng của Mị ở là một thứ ngục thất giam cầm tù nhân “ Ở cái buồng Mị nằm, kín nút, có một… không biết là sương hay nắng”. Nhưng giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã nhìn thấy sức sống vẫn còn tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy sẽ vẫn bùng cháy khi có cơ hội. Và nó đã đến trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân thường mang lại cho con người hi vọng, ước mơ, là mùa lễ hội, vui chơi, mùa của tình yêu.

Năm ấy ở Hồng Ngài gió và rét dữ dội. Mùa xuân đến mang theo âm thanh đặc trưng của nó. Âm thanh rộn rã của trẻ con chơi đùa, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình hòa cùng màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình xuân tha thiết, bồi hồi vọng đến tai Mị. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu nay. Từ trong tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vô vị không có quá khứ, không có hiện tại và không có cả tương lai. Mị nghe tiếng sáo tha thiết gọi bạn mà hồi tưởng những ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy Mị thổi sáo giỏi. Tiếng sáo giúp Mị nhận ra một điều tưởng như đã chìm vào quên lãng.

Mị uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua và muốn thoát khỏi thực tại. Rượu làm thân xác cô say, nhưng tâm hồn cô lại tỉnh, Mị với cõi lòng phơi phới trở lại với thời con gái trẻ trung, hạnh phúc. Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Không khí mùa xuân chỉ là một chất xúc tác, bởi vì nếu như sâu xa trong Mị không có một sức sống tiềm tàng thì nó đã không thức dậy với bao điều tốt đẹp. “Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”.

Cứ thế cho đến khi men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị trở về với ý thức sâu sắc của nhân phẩm. Mị ý thức sự tồn tại của bản thân “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chớ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khát khao sống hồi sinh, con người không chấp nhận cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại. Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm vì trước nay Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác: “Mị muốn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát khao. “Mị quấn lại tóc”. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.

Chính sự thay đổi đó làm cho A Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam giữ tâm hồn Mị: “ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.” Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống trỗi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ đến người chị dâu đã bị trói chết. Mị sợ. Một khi ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy.

Với ngôn ngữ lựa chọn một cách tinh tế, nghệ thuật trần thuật đặc biệt là thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả làm cho người đọc cũng phải thổn thức, vui mừng đến xót xa cho số phận nhân vật. Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.

10. Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Bài 1

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Tô Hoài được độc giả biết đến là một trong những cây bút rất tiêu biểu. Đến với đoạn trích Vợ chồng A Phủ, độc giả lại càng thêm ấn tượng bởi cách xây dựng hình tượng nhân vật mang cá tính độc đáo, tiêu biểu. Đặc biệt, tác giả đã để lại dấu ấn mạnh trong lòng người đọc bởi cá tính, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của nhân vật Mị. Tô Hoài đã khắc họa thành công và chân thực diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Nhân vật Mị được tác giả khắc họa nổi bật và chân thực xuyên suốt tác phẩm. Đó là một cô gái xinh đẹp, mang vẻ đẹp rất riêng của những cô gái vùng cao Tây Bắc. Vẻ đẹp ấy đã làm cho bao chàng trai trong vùng đắm say mà nguyện thổi sáo đi theo Mị. Cô gái trẻ ấy, mang trong mình những sức sống tươi trẻ nhất, với bao tình yêu và hy vọng để bước vào quãng thời gian tươi đẹp mang tên thanh xuân. Nhưng, những hủ tục bởi một xã hội vẫn còn ngang trái nhiều bất công đã xô đẩy cuộc đời Mị vào những ngã rẽ cay đắng nhất. Món nợ truyền kiếp của gia đình đã biến số phận một cô gái đáng lẽ ra phải có được cuộc sống hạnh phúc, lại rơi vào sự bế tắc. Lối thoát nào cho Mị khi bị bắt trở thành con dâu nhà Thống lí Pá Tra. Mang danh con dâu, nhưng cuộc sống hàng ngày của Mị chẳng khác gì thân trâu ngựa. Mị phải làm việc lùi lũi, không chuyện trò, không giao tiếp, làm việc như một cỗ máy, như một cái xác không hồn. Những tưởng, những tháng ngày Mị sống trong sự vô cảm đó sẽ kéo dài mãi. Nhưng không, thực ra sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn luôn tồn tại, như một đốm lửa vẫn nhen nhóm tận sâu ở dưới, chỉ chực có cơ hội là cháy bùng lên mạnh mẽ.

Người ta luôn nói rằng, yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng rất nhiều đến tâm trạng cũng như hành động của con người. Quả thực như vậy. Khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài đã đem những sức sống tiềm tàng trong Mị bấy lâu nay bị đè nén sống dậy một cách mạnh mẽ. Mùa xuân vùng cao đến, những màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá như những cánh bướm, tiếng sáo gọi bạn tình của những chàng trai cô gái chớm yêu… Tất cả mang đến một không khí mùa xuân rạo rực, làm lòng Mị cũng dâng trào bao cảm xúc.

Đêm tình mùa xuân, Mị bắt đầu uống rượu. Tâm hồn Mị bắt đầu trở về với những kỉ niệm ngày trước. Hơi rượu nồng nàn và tiếng sáo xung quanh đã làm Mị nhớ lại những ngày tháng còn được tự do, được sống với đúng ý nghĩa một con người. Mị nhớ lại ngày trước, mình thổi lá hay hơn thổi sáo. Những kí ức về những tháng ngày tươi đẹp tưởng chừng như bị quên lãng giờ đây đang sống dậy, như một thước phim quay chậm đưa Mị trở về với quá khứ. Sự thức tỉnh ấy đang làm trỗi dậy sức sống của một tâm hồn đã bị số phận làm cho chai sạn. Kỉ niệm ùa về, cảm xúc ùa về. Trong những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị sống với cảm xúc trơ lì như một tảng đá. Nhưng giờ đây, trong khung cảnh đêm tình mùa xuân đang rạo rực, Mị đã có những luồng cảm xúc mạnh. Mị ước nếu như có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn luôn mà không cần suy nghĩ. Ý nghĩ đầy táo bạo này chính là một sự nhen nhóm của tinh thần phản kháng lại số phận. Thực tại đau khổ đã làm người con gái căng tràn sức sống ngày nào chai lì cảm xúc. Nhưng khung cảnh đêm tình mùa xuân đã làm cho người con gái ấy nhen nhóm lên ý thức đấu tranh để có thể thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa đang bủa vây, ngay cả khi cách phải chọn là tìm đến cái chết.

Tuy nhiên, những cảm xúc mạnh ấy của lòng Mị lại không biểu hiện ngay trong những hành động. Tác giả Tô Hoài đã cho nhân vật của mình có sự đấu tranh quyết liệt trong tư tưởng: một bên là khát khao tự do cháy bỏng, một bên là sự chai lì cảm xúc, mặc cảm về số phận. Mị đã có những hành động liên tiếp nhau. Hành động đầu tiên, Mị sắn thêm mỡ bỏ vào đèn. Đó là hành động tuy nhỏ nhưng mang nhiều ý nghĩa. Đó có thể là mong muốn của nhân vật muốn căn phòng sáng lên, hay cuộc đời mình có thể tươi sáng và nhiều hy vọng hơn. Tiếp theo, Mị bắt đầu quấn lại tóc và chuẩn bị váy áo đi chơi. “Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Vậy là, khát khao được sống với những cảm xúc chân thực nhất của đời mình đã chiến thắng trong ý nghĩ, hành động của Mị. Mị đang sống, nhưng là sống với những kỉ niệm của quá khứ, cảm xúc của quá khứ. Mị đang quên đi thực tại đau khổ, mà sống đúng với bản chất con người yêu tự do trong mình. Trớ trêu thay A Sử về, và trói đứng Mị lên cột nhà. Nhưng, thân xác Mị bị trói buộc tại đấy, còn tâm hồn Mị vẫn đang lơ lửng và đi theo những tiếng sáo gọi bạn tình. Khát vọng sống vừa mới bùng lên trong Mị, đã bị trói buộc bởi thực tại đau khổ, đó mới là điều cay đắng nhất. Khi Mị dần tỉnh chính là lúc các cơn đau thể xác bắt đầu ập đến, những cảm xúc mạnh mẽ trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân cũng dần mất theo cơn say đang dần biến mất. Nhưng, đó lại chính là ngọn nguồn của ánh lửa yêu tự do, vẫn hàng ngày hàng giờ cháy âm ỉ trong lòng cô gái H’mông xinh đẹp ngày nào.

Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công khi có những trang văn miêu tả chân thực, cảm động diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Cảm xúc và hành động của nhân vật đã dần bộc lộ cá tính và nét tính cách, sức sống tiềm tàng vẫn ẩn sâu trong người con gái ấy. Đó chính là minh chứng cho khát vọng sống, sức sống mạnh mẽ tiềm tàng biểu trưng cho những con người ý chí vùng cao Tây Bắc.

Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Bài 2

Phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật luôn là một thử thách đối với bất cứ tác giả nào. Không phải ai cũng có cái biệt tài đi miêu tả tâm lí nhân vật một cách tường tận và chân thực. Và Tô Hoài chính là một trong số ít những tác giả có biệt tài phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật với sự phát triển tâm lý hết sức logic, tự nhiên. Sự phát triển tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân chính là một ví dụ điển hình.

Mị là cô gái trẻ, sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ vì không có tiền cưới nhau nên phải vay tiền thống lí Pá Tra. Tiền chưa trả hết, món nợ đó đổ dồn lên Mị. Nhưng Mị không lấy đó làm gánh nặng, mà vẫn xin cha cho mình lao động để trả nợ dần. Rõ ràng trong cô gái này có một tình yêu lao động, yêu cuộc sống hết sức mãnh liệt. Khi bị biến thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng vô cùng quyết liệt, cô còn có quyết định ăn lá ngón để chấm dứt cuộc sống mất tự do này. Nhưng vì thương cha mà cô đã gắng gượng sống. Nhưng càng gắng gượng bao nhiêu thì tâm hồn cô lại càng bị bào mòn, chai sạn bấy nhiêu cho đến mức “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, Mị “như con rùa lùi lũi nơi xó cửa”, Mị dường như quên đi cả khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc của mình, chỉ chờ đến ngày mình chết đi mà thôi.

Đẩy nhân vật vào sự cùng khổ đến tận cùng chính là một dụng ý nghệ thuật của Tô Hoài, bởi chỉ khi con người ta bị đẩy vào bước đường cùng thì khát khao mới được bùng lên quyết liệt và mạnh mẽ ấy. Và cái khao khát ấy đã được thể hiện rõ nét trong đêm tình mùa xuân ấy.

Để tạo tiền đề cho sự đột phá của Mị, Tô Hoài đã dụng công chuẩn bị những yếu tố khác đặc biệt là những yếu tố về thiên nhiên, về cảnh sắc cuộc sống của những người miền núi. Mùa xuân về trên vùng cao quả thực vô cùng rực rỡ, đẹp đẽ. Những đồi cỏ ranh vàng ửng nhưng những vệt lửa thổi dưới thung khô, càng rét càng trở nên dữ dội hơn. Trên những mỏm đá mèo là những chiếc váy sắc màu rực rỡ, rồi cùng với đó tiếng cười của trẻ con. Không khí mùa xuân thật náo nhiệt, tràn đầy sức sống. Chính những tác nhân bên ngoài này đã phần nào gợi lên lòng yêu cuộc sống, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.

Trong những yếu tố được Tô Hoài chuẩn bị thì đắt giá nhất là chi tiết tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, từ đỉnh núi, đến đầu làng rồi quanh quẩn trong tâm trí Mị. Tiếng sáo ấy đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí Mị. Cùng với đó là sự kết hợp của hơi men, “ngày tết, Mị cũng uống rượu như ai” , nhưng Mị uống như để quên đi đau đớn, Mị uống ừng ực từng bát, rồi say lịm đi. Trong mơ màng Mị thấy tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng. Tiếng sáo ấy đã làm Mị động tâm, là cô bổi hổi nhớ lại những kỉ niệm đẹp trước đây. Lòng cô phơi phới trở nên, niềm vui sướng trào dâng. Và cô nhận thấy “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Sau bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa, dường như ý thức về bản thân mình đã dần dần quay trở lại. Dường như đoạn văn này ta thấy như chính lời Mị nói ra, Tô Hoài đã xuất sắc hóa thân để thấu hiểu những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật. Đồng thời điều đó cũng giúp Tô Hoài thấy được những giằng xé, mâu thuẫn trong tâm lí Mị giữa quá khứ và hiện tại. Và khi tiếng sáo vang lên, khi Mị như bừng tỉnh, và khát khao: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không muốn nhớ lại nữa”. Đây là sự phản kháng hết sức quyết liệt, đối với Mị phải sống mất tự do, còn đau đớn, tủi cực hơn cả cái chết. Điều đó đã cho thấy khát khao mãnh liệt của Mị.

Thì ra đằng sau con những tưởng như đã chết hoàn toàn ấy lại vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt đến như vậy. Mị không cam chịu ở nhà, Mị muốn đi chơi như mọi người, muốn được hòa nhập, muốn được sống thực sự. Cô đã hiện thực hóa bằng hàng loạt các hành động: cô vào khêu đèn, quấn tóc và lấy váy để chuẩn bị đi chơi… Nếu như với những người con gái khác đó là điều rất bình thường, nhưng đối với Mị là cả một quá trình thức tỉnh và đấu tranh không ngừng.

Nhưng chính lúc ấy, ý định của cô lại bị kẻ độc ác – A Sử chặn đựng bằng hành động bạo ngược, trói đứng ở cột. Dù A Phủ có giam giữ được thân thể nhưng cũng không thể giữ nổi tâm hồn của cô bởi tâm hồn cô theo tiếng sáo, nhớ về những ngày trước.

Chỉ với duy nhất phần miêu tả tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân, đã có thể khẳng định tài năng nghệ thuật của Tô Hoài trong cách xử lý, sắp xếp sự kiện để miêu tả tâm lí nhân vật. Qua đó càng khẳng định hơn nữa tài năng của ông. Đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp trong sức sống của Mị.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học - Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
72 147.170
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm