Biện pháp dự thi giáo viên dạy giỏi 2024 mới cập nhật

Hoatieu xin chia sẻ các mẫu Biện pháp dự thi giáo viên dạy giỏi năm 2024 mới nhất. Mời các bạn tham khảo chi tiết trong bài.

Trình bày một biện pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác giảng dạy là một phần không thể thiếu của hội thi giáo viên dạy giỏi. Những biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học hay sẽ giúp các quý thầy cô để có thêm kinh nghiệm dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường học. Trong bài viết này Hoatieu.vn là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học hay nhất Hoatieu đã tổng hợp để các thầy cô cùng tham khảo và tải về sử dụng.

Hiện nay hội thi giáo viên dạy giỏi năm 2024 đã có rất nhiều thay đổi so với hình thức thi giáo viên giỏi trước đây. Để nắm rõ hơn về quy định thi giáo viên dạy giỏi các bạn có thể xem chi tiết tại Thông tư 22/2019/TT-BGDĐT.

1. Hướng dẫn làm biện pháp thi giáo viên dạy giỏi

Nội dung biện pháp do chính giáo viên đúc rút, sáng tạo, áp dụng trong thực tế giảng dạy môn học nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác giảng dạy đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học của cá nhân tại các nhà trường như: đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; dạy học gắn liền với sản xuất kinh doanh; dạy học gắn liền với di sản; đổi mới kiểm tra đánh giá; ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học;… hướng tới phát triển phẩm chất năng lực của người học.

- Cấu trúc của biện pháp gồm có các phần chính:

+ Lý do hình thành biện pháp;

+ Nội dung biện pháp;

+ Hiệu quả thực hiện của việc áp dụng biện pháp trong thực tế dạy học;

+ Kết luận của biện pháp.

- Biện pháp dài không quá 10 trang A4 kể cả phụ lục (nếu có); sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt (chỉ dùng tiếng nước ngoài đối với thuật ngữ chuyên môn); đảm bảo thể thức văn bản theo quy định hiện hành.

Trình bày biện pháp dự thi: Giáo viên lựa chọn nội dung và hình thức để trình bày biện pháp trước Ban giám khảo. Cần nêu rõ biện pháp có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh và thực tiễn của nhà trường, địa phương và của cá nhân giáo viên tại cơ sở giáo dục đang công tác; có minh chứng về sự tiến bộ của học sinh khi áp dụng biện pháp

Dưới đây là mẫu Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh tiểu học, Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh THCS, báo cáo biện pháp thi giáo viên dạy giỏi, biện pháp thi giáo viên giỏi cấp tiể học, THCS. Thầy cô tải file về máy để xem đầy đủ nội dung.

2. Biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập

2.1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp

- Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh.

- Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể: + Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.

+ Học sinh khuyết tật.

+ Học sinh các biệt về đạo đức.

+ Học sinh yếu.

+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.

* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

* Đối với những học sinh khuyết tật.

* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:

- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…

- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.

* Đối với học sinh học yếu:

- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.

- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:

+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ lên lớp .

+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.

+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.

+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ.

+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.

+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.

2.2. Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.

Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.

- Trước hết, những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè....

- Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng, 2 lớp phó, 4 tổ trưởng, 4 tổ phó. sẽ tiến hành công việc của mình như sau:

*Đầu giờ (trước giờ truy bài):

Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép lê....rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2 điểm xấu)

*Trong giờ học:

Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5 điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng 1đ/1lần. nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/1lần.

*Giờ ăn ngủ bán trú:

Tổ trưởng,Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian (nếu vi phạm trừ 2đ/ 1 lần).

2.3. Biện pháp 3: Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh

* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:

- Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.

- Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.

- Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục - Có con em học khá giỏi.

* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký

* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:

- Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh. Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp

- Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. - Có kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt kiểm tra định kỳ của nhà trường.

* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:

- Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.

- Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.

- Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.

- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.

- Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. - Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.

2.4. Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức

Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,....

- Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…

- Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên.

- Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát huy và chọn lọc những HS có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng

- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:

- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:

+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.

+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.

+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.

- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm. sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.

- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)

- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng. Trên đây là một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và đạt được kết quả tốt.

2.5. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng

Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng

- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:

- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:

+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.

+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.

+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.

- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm. sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.

- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)

- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng.Trên đây là một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và đạt được kết quả tốt. Hy vọng đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo tốt dành cho thầy cô.

3. Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh Tiểu học

* Bài dự thi được chia sẻ bởi cô giáo Vũ Thị Thảo.

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH.

Họ và tên giáo viên: .......................

Dạy tại lớp: 3A

Trường: Tiểu học ............................

Huyện (TX, TP): .............................

1. Mục đích của biện pháp:

Xuất phát từ mục tiêu giáo dục tiểu học

Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.

Bác Hồ đã từng nói:

“Vì lợi ích mười năm trồng cây.

Vì lợi ích trăm năm trồng người”.

Câu nói ấy đã thấm nhuần vào đường lối của Đảng và nhà nước ta. Nhà nước ta xác định mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, năng lực của học sinh. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, ở các trường học không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức mà còn dạy các em kĩ năng sống.

Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của quá trình giáo dục.

Xuất phát từ thực tế tại trường Tiểu học Thị trấn Tiên Yên

Tại trường Tiểu học Thị trấn Tiên Yên, Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện để giáo viên được trau dồi kĩ năng và chuyên môn nghiệp vụ.Học sinh trong trường luônđược các thầy cô chú trọng giáo dục kĩ năng sống thông qua các bài học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.

Học sinh khối 1,2 các em còn nhỏ không phải quét lớp, quét sân trường, không phải kê bàn ghế và gấp chăn gối bán trú. Lên lớp 3 các em cần có những kĩ năng sống cần thiết đó để tự chăm sóc bản thân và làm tốt các nhiệm vụ của mình.Các kĩ năng như tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành và củng cố nhưng các em chưa thể hiện được nhiều.Đồng thời kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vụ bản thâncòn hạn chế.Các em chưa có nhiều kĩ năng sống nên hoạt động nền nếp giáo viên còn phải nhắc nhở thường xuyên như: tình trạng đi học muộn, ôn bài đầu giờ chưa tự giác, hoạt động múa hát tập thể còn chưa khẩn trương nghiêm túc, quên đồ dùng học tập, lao động sân trường còn chưa chủ động, ăn bán trú còn chưa hết suất, kĩ năng cất ghế và sắp xếp ngăn bàn chưa gọn gàng.

Với những hạn chế trong kĩ năng sống của học sinh, tôi đã quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục Kĩ năng sống cho các em.Nhưng làm thế nào để các em có những kĩ năng sống tốt thì đó là vấn đề không chỉ tôi mà tất cả các giáo viên khác đều quan tâm.Với suy nghĩđó tôi thực hiện biện pháp“Một số biện pháp của giáo viênchủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh” và mong muốn chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp.

......................

Do nội dung bài dự thi giáo viên dạy giỏi quá dài, mời các bạn Tải file Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh về máy để xem bản đầy đủ.

4. Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh THCS

Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh
Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh

I. Mở đầu :

Mục tiêu của giáo dục THCS là giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo dục ở Tiểu học; có học vấn phổ thông trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động

Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như: "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở bậc THCS còn khá nhiều yếu kém. Yêu cầu đặt ra cho chúng ta là phải tìm những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn thẳng vào sự thật một cách khách quan .Từ đó bình tỉnh đưa ra những giải pháp tích cực sát với thực tế để từng bước nâng cao chất lượng. Vấn đề này cần phải có thời gian, công sức của mọi người trong toàn xã hội.

Phụ đạo cho học sinh yếu là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong bất kỳ trường THCS nào. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân. Trong đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là việc làm thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra.

II/ Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh yếu kém :

1/ Đối với học sinh:

Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập.

Mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức trong học tập, không theo kịp các bạn (thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để học tập lớp đang học (ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học).

Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của mình. Khả năng học tập của HS rất khác nhau, cùng một độ tuổi và 1 lớp nhưng trình độ các em có thể chênh nhau khá lớn. Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai đặc biệt là môn ngoại ngữ .Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết .

Một số học sinh đi học thất thường, ham chơi, la cà quán xá .

Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả) , học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu .

Thì giờ học thêm quá nhiều, học sinh không "tiêu hóa" hết sinh ra uể oải, nhàm chán .Còn phân biệt môn chính, môn phụ nên học lệch .

Học sinh yếu không chịu đi học phụ đạo .

2/ Phụ huynh :

Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần thấp, thái độ học tập của học sinh, chất lượng học tập cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong việc hợp tác với nhà trường là chưa cao.Qua đó cho thấy một bộ phận phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô. Việc phụ huynh vùng biển đi làm ăn trên biển lâu lâu mới về nên việc phối hợp giáo dục là rất hạn chế .Một số gia đình không hạnh phúc ảnh hưởng đến học tập của học sinh. Người lớn chưa làm gương về chuyện học .

3/ Giáo viên

Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng cũng có trường hợp chỉ thành công trong đối tượng là học sinh khá trở lên, còn đối với học sinh yếu kém thì chưa hiệu quả, hoặc ngược lại. Trong quá trình dạy học còn mắc phải :

Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng; có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm .

Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của ĐDDH.- Chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động còn mang tính hình thức chưa phù hợp.

Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng còn hạn chế.

Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ. Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV chỉ chú trọng vào các em HS khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.

Một số giáo viên không làm tròn trách niệm trong việc kiểm tra đánh giá học sinh, cho học sinh lên lớp khi các em chưa đủ chuẩn hậu quả các em phải gánh chịu khi học lên lớp trên

Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học tập của HS, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.Tinh thần trách nhiệm một số đồng chí chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích vẫn còn, không đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.

Có đồng chí thì quá khắt khe làm các em lo sợ khi học giờ của mình, thậm chí còn làm các em thui chột tinh thần học tập .Một số giáo viên giảng dạy thiếu nhiệt tình do xã hội và các em xem nhẹ bộ môn mình đang dạy .

Một số GV còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, chưa nhiệt tình giảng dạy, chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học, chưa nắm chắc chuẩn kiến thức cần đánh giá nên nhiều lúc yêu cầu quá cao so với chuẩn, chưa đầu tư cho việc ra đề kiểm tra, chỉ dạy tốt những giờ thao gỉang .

Việc dạy cho học sinh tự học và sáng tạo hình như ít thực hiện, chỉ lo dạy hết nội dung đã qui định, lo cháy giáo án. Một số đồng chí còn lệ thuộc vào sách tham khảo, coi đây là "sách gối đầu giường". Khi giảng bài trên lớp còn phụ thuộc quá nhiều vào SGK, giáo án, ít khi xuống gần học sinh, giọng nói một số giáo viên còn hạn chế .

4/ Đối với chương trình và sách giáo khoa:

Chương trình học quá ôm đồm nhiều thứ và nặng nề, thiếu thực hành, cung cấp kiến thức sự kiện là chính, một số nội dung chưa phù hợp với lứa tuổi học sinh, nhiều học sinh không theo kịp chương trình vì nặng kiến thức và nhiều môn, nội dung nhiều trong một tiết học nên giáo viên khó thực hiện đổi mới PP dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của HS vì sợ cháy giáo án .

5/ Đối với nhà trường :

Còn thiếu thốn quá nhiều về cơ sở vật chất và các trang thiết bị dạy học .Số học sinh trong một lớp còn quá nhiều nên làm cho giáo viên khó khăn trong việc quan tâm đầy đủ đến các đôí tượng HS và các em dễ quay cóp trong thi cử .

Chưa thực hiện tốt việc kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh (ngân hàng đề, bốc thăm đề kiểm tra, quản lý đề, duyệt đề ....).

Nội dung sinh hoạt chuyên môn còn nghèo nàn, nặng về hành chính, chưa tập trung thảo luận, bàn bạc để tìm ra những biện pháp tốt nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn, một số môn nhiều năm liền chất lượng thấp mà vẫn chưa có chuyển biến. Kế hoạch bôì dưỡng đội ngũ (tổ chức hội thảo, mở chuyên đề, BDTX,..) làm còn qua loa, chưa triển khai tốt các chuyên đề để phục vụ nâng cao chất lượng dạy và học .Đánh giá xếp loại đội ngũ đôi khi mang tính hình thức, chưa thực chất .

Kế hoạch phụ đạo học sinh yếu còn chậm .

6/ Đối với Phòng vá Sở :

Lịch kiểm tra cuối HK chưa phù hợp. Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh chưa được cụ thể. Cần xem xét lại mức độ khó của đề kiểm tra học kỳ .

7/ Đối với địa phương và các lực lượng xã hội :

Chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể để tham gia giáo dục học sinh ở địa phương .

Quản lý các quán Internet chưa tốt .

Nhiều biểu hiện tiêu cực trong xã hội, nhiều thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, sống thiếu lành mạnh vẫn chưa được xử lý đúng mức làm tác động xấu đến quá trình học tập và rèn luyện của các em. Nhiều quán xá còn lợi dụng học sinh để kinh doanh .

III/ Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học :

1/ Đối với Nhà nước:

Cần có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất giáo dục đảm bảo theo tiêu chuẩn qui định của Quốc gia cho tất cả các trường học để có điều kiện tổ chức tốt các hoạt động giáo dục theo mục tiêu GD&ĐT qui định, trang bị đủ các trang thiết bị để thực hiện chương trình giáo dục (có nơi dạy dỗ và học tập đường hoàn sẽ tổ chức dạy học có nền nếp và chất lượng hơn).

2/ Đối với các cấp quản lý giáo dục :

Cần xác định lại triết lý Giáo dục của Việt Nam .

Có kế họach nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên và nhân viên để đáp ứng yêu cầu của từng vị trí công tác một cách tốt nhất (ai không đảm bảo yêu cầu thì cho đi học lại, chuyển làm công tác khác hoặc cho nghỉ theo chế độ qui định, đừng để người yếu kém trong ngành GD)

Tập trung trí tuệ và nguồn lực để xây dựng một chương trình giáo dục mềm dẻo và phù hợp; biên soạn sách giáo khoa chuẩn mực và phù hợp với trình độ học sinh Việt Nam. Đừng để học sinh phải học quá sức mình !

Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn các cơ sở giáo dục một cách nghiêm túc .Bồi dưỡng nghiệp vụ cho CBQL nhà trường (Tổ trưởng, HT, PHT) và có kế hoạch đánh giá đội ngũ quản lý các trường học một cách nghiêm túc và thường xuyên .

3/ Đối giáo viên :

Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu .

Đối tượng học sinh phải học phụ đạo là những học sinh có điểm kiểm tra không đạt trung bình và những học sinh tuy có đạt trung bình nhưng do chính giáo viên bộ môn lập danh sách đề nghị cho phụ đạo vì không chắc với kết quả ấy. Vì vậy giáo viên cần lưu ý một số biện pháp sau:

Lập danh sách học sinh yếu báo cáo cho Tổ trưởng theo mẫu :

TT

Họ tên HS

Lớp

Môn

Biểu hiện yếu kém

Con ông bà

Nơi ở

Kiến thức

kỹ năng

Phân loại học sinh: học sinh mất căn bản hoàn toàn từ lớp dưới và học sinh có khả năng học được nhưng lười học, ít được sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh nên mê chơi ít dành thời gian cho học tập để thuận lợi trong quá trình phụ đạo.

Phân tích nguyên nhân từ đâu? Để từ đó có biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.

Đề xuất với Tổ Trưởng, nhà trường về cách khắc phụ để tất cả cùng tập trung giải quyết có hiệu quả tốt nhất.

Giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính khóa có thể ở trường, ở nhà (đề xuất với Tổ trưởng, nhà trường, phụ huynh...) .Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của HS, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.

Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có kế hoạch dạy học cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải phù hợp với trình độ học sinh đó.

Phân công HS khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh yếu. Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh yếu có tiến bộ.

Trong quá trình giảng dạy giáo viên bộ môn cần hướng dẫn học sinh sắp xếp thời gian tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp... Trong giảng dạy cần xác định trọng tâm bài học, nội dung chương trình, tránh tình trạng dạy tràn lan gây nặng nề cho học sinh, nắm chắc các đối tượng trong từng lớp đẻ có biện pháp giảng dạy phù hợp, tránh tình trạng dạy học theo kiểu cào bằng (em nào cũng như em đó), đặc biệt chú ý giúp đỡ các em học tập còn yếu kém để các em tiến bộ, sẵn sàng tham gia phụ đạo học sinh yếu theo phân công.Phải thự hiện tốt việc đổi mới phương pháp và ứng dụng CNTT vào dạy học, tăng cường giáo dục động cơ thái độ học tập bộ môn, thầy phải giỏi, dạy hay, đánh giá chất lượng học sinh phải đúng chuẩn kiến thức bộ môn, đề kiểm tra phải chính xác và khoa học. Cống hiến hết sức mình cho công việc mình phụ trách .Xây dựng tốt mối quan hệ thân thiện tích cực trong thầy trò để dạy và học tốt hơn .

Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng giáo viên bộ môn báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng và giáo viên trong tổ, từ đó giáo viên nào còn vướn mắc thì được tập thể giáo viên trong tổ góp ý bổ sung.

4/Đối với Tổ trưởng

Tập hợp danh sách học sinh yếu báo cáo nhà trường.

Họp tổ, nhóm chuyên môn để phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục HS yếu.

Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu.

Tổ chức chuyên đề “khắc phục học sinh yếu”.

Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục HS yếu.

Giao trách nhiệm cho từng giáo viên và báo cáo thường xuyên cho nhà trường .

Hàng tháng sinh hoạt chuyên môn với nhà trường Tổ trưởng báo cáo tiến độ tiếp thu của những em học sinh yếu .

5/Đối với lãnh đạo nhà trường :

Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn nghiệp .

Tổ chức tốt hoạt động dạy học và sinh hoạt chuyên môn để nâng cao chất lượng dạy và học. Tập trung thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, ứng dụng CNTT, thay đổi cách kiểm tra đánh giá, quản lý tốt dạy thêm học thêm, quản lý tốt chất lượng giảng dạy các bộ môn giáo viên.

Tổ chức thực hiện tốt phong trào " xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", và các phong trào khác .

Lập kế hoạch và phân công dạy phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu mỗi năm học phù hợp với tình hình cơ sở vật chất và con người của nhà trường .

Việc chọn giáo viên phụ đạo rất quan trọng. Do đó lãnh đạo nhà trường phải thuyết phục cho được những thầy cô có kinh nghiệm, có tâm huyết theo dạy những đối tượng này. Có thể nói phải vừa dạy vừa dỗ các em đi từ những cái cơ bản nhất của bộ môn.

Thực tế có nhiều thầy rất giỏi nhưng khi dạy những đối tượng học sinh này thì không hiệu quả. Ngược lại có những thầy không phải siêu sao gì nhưng kỹ lưỡng, tỉ mỉ và kiên trì với học sinh thì mới hiệu quả hơn. Chính vì thế, việc chọn giáo viên phụ đạo cho học sinh yếu kém vừa trên cơ sở tự nguyện vừa trên cơ sở dựa vào tâm huyết, sự tận tụy, chu đáo, quan tâm của từng giáo viên và tổ trưởng bộ môn cũng không đứng ngoài việc này.

Phối hợp thật tốt với các tổ chức đoàn thể và ban đại diện cha mẹ học sinh, đặc biệt là những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi, giải thích rõ cho cha mẹ học sinh hiểu được sức học cụ thể của con em họ, biết được sự lo lắng, quan tâm và trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều kiện cho con em mình đi học đầy đủ. Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo là việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém không theo kịp bạn bè, không theo kịp chương trình học.

Có những hình thức khen thưởng những học sinh tiến bộ như: có chế độ điểm thưởng cho học sinh tiến bộ, tìm nguồn bồi dưỡng cho giáo viên phụ đạo. Đồng thời cần quan tâm theo dõi và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của giáo viên và học sinh về phòng học, photo bài học, bài tập…

Nếu gặp trường hợp học sinh yếu không chịu học, ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm cần phải tiếp xúc với phụ huynh học sinh để giải thích, thuyết phục. Học sinh học phụ đạo được miễn phí hoàn toàn .

Tổng hợp danh sách học sinh yếu theo khối lớp báo cáo UBND Phường, Ban đại diện phụ huynh. Tổ chức hội thảo để tìm biện pháp tối ưu nhất khắc phục học sinh yếu.

Mời phụ huynh có học sinh yếu, Ban đại diện phụ huynh, đại diện UBND Phường, Tổ trưởng dân phố, giáo viên có học sinh yếu, Tổ trưởng để bàn biện pháp khắc phục học sinh yếu, đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ của nhà trường mà toàn xã hội.

Thường xuyên kiểm tra việc giáo viên phụ đạo ở trường, ở nhà. Thường xuyên họp với BĐDphụ huynh, UBND Phường, Tổ trưởng dân phố, giáo viên, phụ huynh có học sinh yếu để đánh giá kết quả đạt được, từ đó có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp.

6/ Đối với học sinh :

Cần xác định việc học là học để có kiến thức cho mình, để làm người, để hoà nhập với cộng đồng, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức của nhân loại thành kiến thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp; học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân .

Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng.

Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.

Trong giờ học tập trung nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài.

Tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo do nhà trường tổ chức .

Thực hiện tốt đôi bạn cùng tiến .

7/ Đối với phụ huynh học sinh

Giúp đỡ HS trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho HS.

Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần. Nhắc nhở con đi học phụ đạo.

Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường.

Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập.

Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.

8/Đối với Ban đại diện phụ huynh

Ban đại diện phụ huynh mời phụ huynh có con em học yếu họp bàn về cách khắc phục.

Ban đại diện phụ huynh có biện pháp hỗ trợ về vật chất cho giáo viên, học sinh (nếu có).

Ban đại diện phụ huynh thường xuyên trao đổi với phụ huynh có con em học yếu, với giáo viên, với nhà trường.

Đặc biệt thường xuyên động viên, đôn đốc phụ huynh cho con đi học chuyên cần.

8/Đối với Đảng và chính quyền địa phương :

Cần quan tâm đúng mức đến sự nghiệp GD&ĐT của địa phương, chú ý đến diện tích sân trường, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường các trang thiết bị, xây dựng tốt môi trường GD....

Huy động mọi nguồn lực của xã hội để chăm lo cho giáo dục. Cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh .

Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm hoặc để con em ở nhà đi học không chuyên cần. Từ đó Tổ trưởng dân phố có biện pháp nhắc nhở, động viên những phụ huynh này.

Cần có biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia đình gặp khó khăn.

IV/ Kết luận:

Học sinh yếu là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức cơ bản. Một phần là do các em không thích học, không biết cách học dẫn đến ngày một tụt hậu so với trình độ chung của lớp…. Không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết, không nóng vội, có lộ trình hợp lý, có biện pháp hiệu quả và kịp thời, có kế hoạch riêng cho mỗi học sinh.

Phụ đạo cho học sinh yếu kém trong nhà trường là việc làm hết sức tế nhị và đòi hỏi có nhiều công sức, sự yêu thương tận tụy và cố gắng của thầy và trò.

Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu.

Có thể nói giáo viên là yếu tố quyết định về kết quả phụ đạo học sinh yếu. Nếu có được những thầy cô tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu, tận tụy với từng học sinh thì kết quả mới khả quan được.

Làm thế nào để Nâng cao chất lượng giáo dục?" là một câu hỏi đặt ra và suy nghĩ rất nhiều của những người thầy Tận Tâm với nghề giáo trong thời điểm hiện nay khi chúng ta đã làm nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của nhà trường, của bộ môn.

Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của từng năm ở từng khối lớp mà nhà trường có kế hoạch và biện pháp thích hợp để nâng cao được trình độ cho học sinh lỡ mất căn bản trong học tập - giúp các em có cơ hội hội nhập cùng với bạn bè. Kế hoạch phải được lập ngay từ đầu năm và phải tổ chức thực hiện thật chu đáo. Để thành công trong công tác phụ đạo học sinh yếu nhà trường phải biết huy động mọi nguồn lực của xã hội để cùng làm cho hiệu quả .

Phải xác định: Mỗi thầy cô giáo phải có trách nhiệm giúp đỡ học sinh yếu kém để các em này cải thiện tình hình học tập của mình một cách tốt nhất (Dạy học là dạy cho người chưa biết để họ được biết).

5. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Sinh học

Thay đổi cách kiểm tra bài cũ

Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành ở đầu giờ. Đây là việc làm theo đúng tiến trình dạy học.

Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách làm đó sẽ khiến học sinh nhàm chán, đôi khi gây áp lực, tạo sự căng thẳng cho học sinh trong suốt tiết học hôm đó.

Theo tôi giáo viên có thể lồng ghép các câu hỏi kiểm tra kiến thức đã học trong quá trình dạy bài mới để làm giảm bớt đi sự căng thẳng không đáng có.

Ví dụ: Khi dạy mục I bài 29. Hấp thụ chất dinh dưỡng và thải phân, giáo viên có thể treo tranh phóng to về Cấu tạo trong của ruột non. Sau đó yêu cầu học sinh nhắc lại cấu tạo của ruột non phù hợp với chức năng tiêu hóa; kiểm tra kiến thức của học sinh về cấu tạo của ruột non, sau đó nhận xét và cho điểm.

Thay đổi cách đặt vấn đề vào bài mới

Trong một giờ học, nếu ngay từ phần vào bài giáo viên đã tạo ra sự hứng thú cho học sinh, chắc chắn trong những phút tiếp theo, các em sẽ hào hứng hơn với những hoạt động do giáo viên tổ chức.

Do đó phần vào bài có vai trò quan trọng đến hoạt động dạy cũng như kích thích quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh trong một tiết dạy.

Kinh nghiệm của tôi để có cách dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn hơn là: Mở đầu bằng một câu chuyện vui; mở đầu bằng một đoạn phim hay hình ảnh; hay mở đầu bằng một câu chuyện li kì, hấp dẫn…

Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đề hay góp phần làm tăng tính hấp dẫn cho bài học, tạo hứng thú cũng như làm cho không khí học tập trở nên thoải mái hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần vào bài để tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới.

Thay đổi cách giao tiếp

Trong hoạt động dạy học luôn đòi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên giữa thầy và trò. Một trong những điều kiện để học sinh có thể học sâu là các em phải có cảm giác thoải mái.

Trong quá trình giao tiếp với học sinh, giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, tạo cho học sinh cảm giác được yêu thương, nhưng khi cần vẫn phải nghiêm khắc để học sinh hiểu được giới hạn của sự thoải mái. Vì nếu quá dễ dãi, học sinh không kính nể sẽ rất khó dạy; quá nghiêm khắc, học sinh sẽ bị ức chế khó tiếp thu bài học.

Hơn ai hết, giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên đối với công tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được tôn trọng có nghĩa là các em sẽ thêm phần tự tin vào bản thân mình, sẽ đáp lại bằng thái độ tôn trọng, yêu quý đối với thầy cô, nhờ đó mà cũng sẽ yêu thích hơn bộ môn những thầy cô giáo đó đang giảng dạy.

Bên cạnh đó, người giáo viên cũng cần quan tâm đến những học sinh chậm tiến của lớp, quan tâm nhắc nhở các em học bài và chỉ cách học bài cho học sinh; kịp thời khen ngợi khi học sinh tiến bộ.

Ví dụ, có em học sinh chậm tiến lần thứ nhất kiểm tra bài cũ chỉ được 3 điểm, nhưng lần thứ hai được 5 điểm, giáo viên cần khen ngợi để học sinh cảm thấy mình có tiến bộ, từ đó sẽ cố gắng nhiều hơn.

Đổi mới cách thức soạn bài và thiết kế các hoạt động dạy học

Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài học trong sách giáo khoa, kết hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách giải bài tập sinh học, chuẩn kiến thức kĩ năng,… để chỉ ra được mục tiêu chính là những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và đạt được.

Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức và nội dung các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên.

Tuy nhiên, để hướng đến sự thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo viên cần lựa chọn cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa khả năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập thể.

Trong quá trình thiết kế, giáo viên nên có sẵn những dự kiến và phương án giải quyết cho những tình huống không theo ý muốn có thể xảy ra để có thể chủ động điều chỉnh nhằm tránh sự lúng túng, kéo dài thời gian, thậm chí là không đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo cho các tiết dạy

Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, giáo viên không thể bỏ qua vai trò của các đồ dùng, phương tiện dạy học. Việc lựa chọn được những đồ dùng phù hợp và có chất lượng không chỉ làm tăng hiệu quả của việc khai thác, phát hiện kiến thức mà còn tạo ra sự thích thú cho học sinh.

Ngay từ khâu soạn bài, giáo viên đã phải xây dựng kèm theo đó là danh sách các đồ dùng dạy học có liên quan. Từ danh sách này, giáo viên phải kiểm tra trên thực tế tại các phòng đồ dùng xem các đồ dùng đó có đủ để đáp ứng về số lượng và chất lượng hay không, nếu không thì phương án giải quyết là gì.

Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị những đồ dùng nhất định. Khi được tự chuẩn bị, học sinh sẽ phải nghiên cứu tài liệu để hiểu về vấn đề được giao tức là các em đã được học tập thêm một lần nữa.

Ví dụ: Khi sử dụng tranh vẽ “Thí nghiệm về hoạt động của enzim trong nước bọt” (hình 26- SGK, trang 85, sinh 8) để khai thác phát hiện kiến thức mới, giáo viên phải hướng học sinh chỉ ra được: Vì sao ống A lại có độ trong không đổi? Vì sao ống B lại có độ trong tăng lên và vì sao ống C và D lại có độ trong không đổi! Từ đó, hướng học sinh đến kết luận về hoạt động của enzim trong tuyến nước bọt.

Tổ chức các hoạt động dạy học

Một số cách tổ chức các hoạt động học tập

Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Khăn phủ bàn”: Để tiến hành kĩ thuật này, giáo viên chia học sinh thành nhóm (4 người/nhóm), mỗi người ngồi vào một vị trí đã được sắp xếp. Mỗi nhóm được nhận một tờ giấy có chia các ô dành cho hoạt động của từng cá nhân, ở giữa là ô trống dành cho kết quả chung của nhóm sau khi đã thống nhất ý kiến.

Giáo viên đưa ra câu hỏi chung cho mỗi nhóm. Các cá nhân tập trung vào các câu hỏi được giáo viên giao cho, hoạt động độc lập trong khoảng vài phút, viết đáp án vào ô của mình. Khi mọi người đều đã xong, cả nhóm bắt đầu chia sẻ và thảo luận về các câu trả lời. Tiến hành viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn.

Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”: Để thiết kế, giáo viên cần lựa chọn nội dung/chủ đề phù hợp, xác định một nhiệm vụ phức hợp cần giải quyết ở vòng 2 dựa trên các nhiệm vụ khác nhau đã thực hiện ở vòng 1. Học sinh được chia thành các nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên trong nhóm.

Trong quá trình tiến hành, ở vòng 1 giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm 3 hoặc 4 người, mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao, mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm.

Ở vòng 2, giáo viên hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới là sự kết hợp giữa mỗi thành viên trong mỗi nhóm trên, các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau. Sau khi chia sẻ xong thông tin ở vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa lập để giải quyết. Các nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2.

Tổ chức dạy học theo nhóm có sử dụng phiếu học tập: Ngoài những kĩ thuật dạy học trên, giáo viên còn có thể tổ chức dạy học theo phiếu học tập. Với cách tổ chức này, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài để chọn ra những phần phù hợp, thiết kế các bảng biểu hoặc đưa ra những câu hỏi, bài tập với định hướng kèm theo để học sinh thảo luận nhóm và hoàn thành.

Tuy nhiên, điều quan trọng là thiết kế và tổ chức như thế nào để mọi thành viên đều phát huy được năng lực cá nhân cũng như biết cách phối hợp với tập thể nhằm tăng cường sự liên kết và khả năng thu nhận, tích lũy kiến thức.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

Khi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin thì khả năng truyền tải ý tưởng của giáo viên cũng dễ dàng và phong phú hơn.

Để có thể sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học, giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian để học tập, nghiên cứu cho thành thạo cách thiết kế bài giảng, cách khai thác các ứng dụng khác.

Đồng thời, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để thiết kế những hoạt động dạy học phù hợp, có kế hoạch sắp xếp và khai thác hợp lí các tranh, ảnh, mô hình, băng hình,… sưu tầm được theo trật tự nhất định phù hợp với nội dung kiến thức từng phần.

Trong quá trình dạy học phải gắn kiến thức với thực tiễn

Sự gần gũi của kiến thức lí thuyết với thực tế giúp học sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ đã trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy tính tích cực của học sinh.

Trong quá trình dạy học, ngay từ khâu soạn bài, giáo viên phải luôn đặt cho mình câu hỏi: Mỗi nội dung kiến thức có trong bài được gắn với những vấn đề nào trong cuộc sống? Làm thế nào để học sinh nhận thấy sự liên quan đó? Với bài dạy cụ thể trên lớp, giáo viên tìm cách để cho học sinh kết nối kiến thức vừa tìm hiểu với chính thực tiễn cuộc sống, nhờ đó một lần nữa khắc sâu kiến thức của bài học.

Ví dụ: Khi dạy bài 25. Tiêu hóa ở khoang miệng, giáo viên yêu cầu học sinh liên hệ với thực tế giải thích vì sao: Tại sao khi nhai cơm lâu trong miệng ta thấy có vị ngọt?

Tại sao khi ăn uống ta không nên cười đùa thái quá?

Khi ăn uống ta có thực hiện đồng thời phản xạ nuốt không?....

Bồi dưỡng học sinh năng khiếu bộ môn

Tiến hành phân loại học sinh trên cơ sở bài khảo sát đầu năm và thông qua quá trình giảng dạy từ đó sẽ chọn lọc ra những học sinh năng khiếu để tiến hành bồi dưỡng vào thời gian trái buổi hoặc vào ngày chủ nhật.

Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, phụ huynh học sinh chặt chẽ để truy bài cho các em vào những buổi chiều hoặc ngày chủ nhật nhằm giúp các em nắm kiến thức trọng tâm và nâng cao của từng bài học cụ thể.

Thường xuyên liên lạc với phụ huynh, kết hợp với phụ huynh hướng dẫn về biện pháp để giúp con em học tập để có kết quả cao.

6. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Việt lớp 4

Nguồn: Cô Dương Thị Mỹ

Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc cho học sinh lớp 4

PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ

Làm thế nào để học sinh có khả năng đọc diễn cảm tốt trong giờ tập đọc để từ đó phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, các em thấy được cái hay cái đẹp của văn học, của cuộc sống xung quanh... Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn đề xuất Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc cho học sinh lớp 4”.

Mục đích khi thực hiện biện pháp để rèn kĩ năng đọc diễn cảm trong phân môn Tập đọc lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Tôi đã áp dụng biện pháp tại lớp 4B - Trường Tiểu học Tiên Sơn. Từ tháng 9 năm 20... đến tháng 4 năm 20...

Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết, điều tra, so sánh, thực nghiệm giáo dục, nghiên cứu tài liệu và sản phẩm hoạt động sư phạm.

PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN SƠN

1. Ưu điểm

- Nhà trường trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị thuận lợi cho việc dạy và học. Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn 4+5 có năng lực, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ những khó khăn trong công tác chuyên môn

- Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, giáo viên xác định được yêu cầu cần đạt khi dạy từng dạng bài, được trang bị về phương pháp giảng dạy bộ môn, vận dụng những ưu điểm của phương pháp dạy học cũ với những mặt tích cực của phương pháp dạy học mới để giảng dạy đạt hiệu quả.

- Trong giờ dạy tập đọc, phần tổ chức cho học sinh luyện đọc diễn cảm giáo viên đều đã làm theo một quy trình như sau:

+Đưa đoạn văn (thơ)

+ Học sinh phát hiện cách đọc

+ Học sinh khác bổ sung

+ Giáo viên chia sẻ cách đọc đúng

+ Một học sinh đọc lại

+ Học sinh luyện đọc theo cặp

+ Thi đọc

+ Giáo viên cùng học sinh khác nhận xét đánh giá

- Bản thân là một giáo viên trẻ, có tinh thần học hỏi, khả năng tiếp cận nhanh với những đổi mới trong phương pháp dạy học. Thường xuyên được tham gia các buổi tập huấn về phương pháp dạy học, chương trình GDPT mới. Trong khi dạy tôi đã chú trọng tới việc rèn đọc, khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học cho các em, chú ý đến khâu làm mẫu.

- Học sinh: Có ý thức tham gia tích cực trong học tập. Yêu thích môn học. Ham đọc sách, truyện.

- Phụ huynh: Đa phần phụ huynh trẻ, quan tâm, thường xuyên trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em mình.

2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế

2.1. Giáo viên

- Giáo viên cũng đã quan tâm đến việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục tư tưởng tình cảm nhưng chưa sâu sắc thường rất chung chung, gò ép theo một mô tuýp nhất định. Việc khai thác các từ ngữ và các yêu tố nghệ thuật đặc sắc, việc phân loại, chỉnh sửa bài đọc cho đối tượng học sinh (do trình độ đọc của các em không đồng đều) còn hạn chế.

- Nguyên nhân dẫn đến từ nhiều phía, trong đó việc giáo viên chưa thực sự chú trọng đến việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh, trong một tiết tập đọc, thời gian dành cho luyện đọc vỡ, tìm hiểu nội dung văn bản thường quá nhiều, do vậy sang phần đọc diễn cảm chỉ đọc lướt qua.

2.2. Học sinh

Kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm của học sinh không đồng đều (Có học sinh đọc hay, diễn cảm; có học sinh còn đọc chưa đúng tốc độ). Thực tế nhiều học sinh không có kĩ năng đọc diễn cảm nhưng cứ cố đọc nên xảy ra tình trạng các em đọc nâng cao, hạ thấp hay nhấn giọng một cách tùy tiện

Phần lớn các em chưa có ý thức rèn đọc diễn cảm. Khả năng cảm thụ văn thơ chưa được phát huy qua đó vốn từ ngữ, vốn hiểu biết của các em còn nhiều hạn chế.

Số lượng học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng cho một bài đọc không cao, nhiều em chuẩn bị qua loa, sơ sài, chỉ đọc trước một đến hai lượt, có em còn không đọc.

Ngay từ đầu năm học 2023-2024 khi nhận lớp 4B, học sinh của lớp tôi chưa có kĩ năng đọc, đặc biệt là kĩ năng đọc hay, đọc diễn cảm. Tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng đọc lưu loát, diễn cảm sau 3 tuần học đầu năm học ở bài đọc:

Cánh diều tuổi thơ

Tuổi thơ của tôi được nâng lên từ những cánh diều.

Chiều chiều, trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tôi hò hét nhau thả diều thi. Cánh diều mềm mại như cánh bướm. Chúng tôi vui sướng đến phát dại nhìn lên trời. Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng. Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,... như gọi thấp xuống những vì sao sớm.

Ban đêm, trên bãi thả diều thật không còn gì huyền ảo hơn. Có cảm giác diều đang trôi trên dải Ngân Hà. Bầu trời tự do đẹp như một thảm nhung khổng lồ. Có cái gì cứ cháy lên, cháy mãi trong tâm hồn chúng tôi. Sau này, tôi mới hiểu đấy là khát vọng. Tôi đã ngửa cổ suốt một thời mới lớn để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời và bao giờ cũng hy vọng khi tha thiết cầu xin: "Bay đi diều ơi! Bay đi!" Cánh diều tuổi ngọc ngà bay đi, mang theo nỗi khát khao của tôi.

Theo Tạ Duy Anh

Sau khi khảo sát tôi tổng hợp được kết quả như sau:

Tổng số học sinh

Đọc diễn cảm

Đọc lưu loát,

chưa diễn cảm

Đọc chưa lưu loát

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

37

6

16,2

24

64,9

7

18,9

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, mặc dù là học sinh cuối cấp nhưng số học sinh đạt yêu cầu ở mức độ đọc diễm cảm là quá thấp.

- Tôi đã tìm hiểu và nhận thấy là do những nguyên nhân sau:

+ Một số học sinh chưa biết cách đọc với từng dạng bài. Chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết nhấn giọng, lên giọng xuống giọng những từ cần thiết.

+ Phát âm theo phương ngữ lẫn lộn l/n; s/x, lỗi về dấu thanh.

+ Học sinh chưa hứng thú trong rèn đọc diễn cảm, đọc diễn cảm tuỳ ý. Các em chưa thực sự chú ý nghe giảng nên chưa phát huy được khả năng đọc của mình.

................

Tải file về máy để xem đầy đủ nội dung

7. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán lớp 2

Nguồn: Cô Phạm Lệ Huyền

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

....................., ngày 28 tháng 11 năm 20...

BÁO CÁO:

BIỆN PHÁP “TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH LỚP 2B TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ ..................... THÔNG QUA

MỘT SỐ TRÒ CHƠI TOÁN HỌC”

- Tên biện pháp: Tạo hứng thú cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học xã ..................... thông qua một số trò chơi toán học.

- Họ và tên: …………..

- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học xã .....................

- Thời gian triển khai thực hiện: Từ 9/20... đến 28/11/20...

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

1. Tên biện pháp: Tạo hứng thú cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học xã ..................... thông qua một số trò chơi toán học.

2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện biện pháp:

Trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Toán cùng với các môn học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần hết sức quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện.

Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ khoa học khác.

Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.

Để đáp ứng được nhu cầu của giáo dục theo sự đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018 đòi hỏi người giáo viên phải tích cực phải đổi mới phương pháp, hình thức dạy học hướng tới “ Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Môn Toán ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy "học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo". Đổi mới phương pháp dạy học là: "Phát huy tích tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai thác triệt để các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học". Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học luôn luôn hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Đối với trẻ trò chơi là một phát hiện mới, kích thích tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Do vậy quan điểm "Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập " là phù hợp với trường Tiểu học.

Trò chơi toán học nhằm mục đích là thông qua trò chơi để củng cố kiến thức của bài học, luyện tập lại kiến thức của bài mới, phát hiện ra kiến thức mới của bài học. Thông qua trò chơi học sinh nắm được kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng.

Các trò chơi có nội dung Toán học lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội tri thức toán học một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi Toán học một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học môn Toán sẽ ngày càng nâng cao. Từ đó tôi đã thiết kế các trò chơi trong giờ học toán lớp 2 và áp dụng vào giờ toán ngay từ đầu năm và thấy kết quả học tập của các em tiến bộ hẳn lên. Đến giờ học toán các em không còn cảm thấy căng thẳng nên kết quả học tập cao hơn. Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã vận dụng biện pháp "Tạo hứng thú học Toán cho học sinh lớp 2 qua một số trò chơi Toán học" nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.

B. NỘI DUNG BIỆN PHÁP:

1. Biện pháp thứ nhất: Chuẩn bị trò chơi

1.1. Nghiên cứu tài liệu:

Điều đầu tiên để thực hiện đạt hiệu quả về việc tổ chức trò chơi Toán cho học sinh lớp 2, tôi đã đọc tài liệu, sách báo, tạp chí giáo dục… có liên quan đến nội dung của sáng kiến. Chính sự nghiên cứu, tìm tòi ở tài liệu giúp cho các tiết học Toán có sử dụng trò chơi đạt kết quả tốt.

1.2. Nghiên cứu thực tế:

Thông qua các tiết dự giờ tôi đã trao đổi thêm, tư vấn với các bạn đồng nghiệp về nội dung các trò chơi phục vụ cho môn Toán 2 để áp dụng cùng nhau tổng kết, đúc rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.

Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của sáng kiến. Thông qua các tiết dạy thực tế trên lớp, bản thân tôi đã phân loại các đối tượng học sinh, tìm hiểu xem học sinh thường yếu ở mạch kiến thức nào, để lựa chọn trò chơi cho phù hợp, giúp các em củng cố kiến thức để hiểu bài một cách chắc chắn.

2. Biện pháp thứ hai: Lựa chọn các trò chơi.

- Việc lựa chọn các trò chơi học tập trong môn Toán lớp 2 phải đáp ứng những yêu cầu của mục đích dạy học. Các trò chơi phải đặt ra cho học sinh các nhiệm vụ học tập tương ứng với nội dung dạy học. Mỗi trò chơi cần có một vị trí đóng góp cụ thể trong tiến trình thực hiện mục đích dạy học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học bộ môn Toán lớp 2, hệ thống các trò chơi phải được lựa chọn sao cho đa dạng về chủ đề, phong phú về cách chơi. Dựa vào hình thức, cách chơi và luật chơi của trò chơi có thể thay thế các trò chơi một cách linh hoạt (thay số bằng chữ, câu cá, mèo bắt chuột, tìm hoa hái quả, cánh hoa tìm nhụy, …) từ sự thay thế linh hoạt tạo cho giáo viên có cơ hội tổ chức trò chơi phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Để từ đó các em cảm thấy: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.

....................

Tải file về máy để xem đầy đủ nội dung

8. Biện pháp thi giáo viên giỏi môn Toán: Ứng dụng CNTT trong dạy học

THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP

1. Tên giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 2 gây hứng thú học tập cho học sinh.

2. Ngày giải phápđược áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 10/20...

3. Mô tả các giải pháp cũ thường làm

3.1. Những giải pháp đang sử dụng

Trước kia, trong quá trình dạy học Toán 2, tôi sử dụng một số phương pháp truyền thống như: bảng đen, phấn trắng hoặc kết hợp trực quan bằng tranh ảnh, sử dụng bảng phụ, phiếu bài tập lớn chưa gây hứng thú học tập cho HS.

3.2. Hạn chế của những giải pháp đó

Qua những giải pháp ấy, bên cạnh ưu điểm, tôi nhận thấy còn tồn tại những hạn chế như sau:

* Đối với học sinh:

- Học sinh chưa hứng thú và tích cực trong giờ học.

- Học sinh ít có cơ hội bộc lộ suy nghĩ của mình, học sinh hoạt động chưa hiệu quả khi hoạt động nhóm...

- Học sinh chưa có nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ thông tin trong học tập.

* Đối với giáo viên:

- Phần lớn GV thường tập trung truyền tải kiến thức với các thao tác nghe, làm mẫu khiến cho không khí lớp học trở nên nặng nề và các em dễ mất tập trung, không có hứng thú với môn học, dẫn đến hiệu quả giờ học không cao, HS mệt mỏi, uể oải sau mỗi tiết học.

- Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng khiến giáo viên mất nhiều công sức, thời gian, tốn kém về tiền bạc.

- Giáo viên viết bảng truyền thống cũng gây mất nhiều thời gian trong giờ học, không có thời gian để bao quát học sinh.

4. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp

Mục tiêu của chương trình GDPT 2018 là giúp học sinh phát triển toàn diện về kiến thức, năng lực và phẩm chất. Mục tiêu trong kế hoạch dạy học của giáo viên cũng luôn hướng tới điều đó. Tuy nhiên, mục tiêu đặt ra có đạt được hay không còn phụ thuộc vào yếu tố học sinh có thích thú, hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập hay không. Trong các môn học thì môn Toán ít được học sinh có sự quan tâm, thích thú vì giờ học toán thường khô khan. Các em sẽ nhanh chán nản, không chú ý dẫn đến kết quả giờ học không cao. Vậy làm thế nào để các em yêu thích và có hứng thú học tập môn Toán là nỗi trăn trở của bản thân tôi mỗi khi giảng dạy. Chính vì điều đó mà tôi đã mạnh dạn lựa chọn giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 2 gây hứng thú học tập cho học sinh.

....................

Tải file về máy để xem đầy đủ nội dung

9. Báo cáo biện pháp thi giáo viên giỏi cấp THCS môn Tiếng Anh

DẠY HỌC PHÂN HÓA - NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG ANH

I. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết

Bản chất của giáo dục là gì? Phải chăng là hướng đến sự phát triển của mỗi cá nhân? Giúp con người tìm thấy giá trị của bản thân mình? Giáo dục giúp con người tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc…? Tưởng chừng như đó là những điều căn cốt nhất mà mỗi trường học, mỗi lớp học và mỗi giáo viên luôn hướng đến. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan và chủ quan, chúng ta vô hình chung đã biến giáo dục thành một mô hình khô cứng theo kiểu “một cỡ vừa cho tất cả”. Chúng ta dạy cùng một nội dung, theo một cách, kiểm tra theo cùng một kiểu và phân loại đánh giá theo cùng một thang. Điều này khiến cho công việc dạy học biến thành một ngành sản xuất theo những tiêu chuẩn nhất định.

Nhưng nếu chịu khó quan sát kĩ hơn một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rằng trong một lớp học có bao nhiêu học sinh thì sẽ có bấy nhiêu khuôn mặt, bấy nhiêu sở thích, tính cách, năng lực, trình độ và phong cách học tập. Thật không công bằng khi những học sinh có thiên hướng về nghệ thuật bị đánh giá là “không đạt” khi bài kiểm tra chỉ hướng đến đánh giá các môn Toán và tiếng Việt. Nhiều học sinh bị coi là hư, láo, ngỗ nghịch, bất trị khi chúng có cách học khác với cách mà giáo viên và người lớn mong muốn. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại về mục đích của giáo dục, cần xem lại về các phương pháp giảng dạy và chương trình học mà chúng ta đang áp dụng để có thể tạo nên sự công bằng giữa các học sinh. “Nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây thì cả đời nó phải sống với niềm tin rằng, nó là kẻ ngu ngốc” (Albert Einstein).

Dạy học phân hóa (DHPH) là xu thế của quá trình giáo dục nói chung và dạy học nói riêng. Nhiều nghiên cứu của các nhà giáo dục học đã chứng minh rằng mỗi cá nhân HS có một năng lực nhận thức, phong cách học khác nhau (Armstrong, 2009; DellaVedova, 2002). Hơn nữa, DHPH là một trong những quan điểm dạy học cho phép “tối đa hóa” yếu tố cá nhân cho người học (Bravmann S., 2004; Dana T.J., 2000). Theo tôi, phân hóa cũng là một trong những quan điểm để xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông nói chung và Chương trình môn tiếng Anh 2018 nói riêng ở Việt Nam. Do đó, việc thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy học tiếng Anh theo định hướng phân hóa là một trong những yếu tố nhằm đảm bảo việc thực hiện được quan điểm xây dựng và thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới. Bài viết này tóm lược trình bày quan niệm về DHPH, đề xuất quy trình và nêu ví dụ minh họa cho việc DHPH trong dạy học môn Tiếng Anh cho HS THCS. Từ đó, GV có một số kĩ thuật, biện pháp thiết thực, có thể sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn tiếng Anh cho HS THCS thông qua cách thức tiếp cận phân hóa trong dạy học.

2. Mục tiêu

- DHPH nhằm huy động mọi năng lực, sở trường, hứng thú của từng học sinh để tự HS tìm tòi, khám phá ra nội dung mới của bài học.

- Phân bố học sinh theo từng trình độ nhận thức, giao nhiệm vụ phù hợp với từng nhóm học sinh tạo điểu kiện cho HS phát hiện ra các tình huống có vấn đề, tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm lập kế hoạch để giải quyết hay tiếp nhận vấn đề một cách thuận lợi nhất.

- DHPH để phát huy năng lực, sở trường của HS tạo cho họ niềm tin và niềm vui khi học tập.

- DHPH nhằm khuyến khích cho GV chủ động và sáng tạo trong dạy học, đồng thời yêu cầu GV trân trọng mọi cố gắng dù là nhỏ nhất của người học.

3. Đối tượng và phương pháp thực hiện

3.1. Đối tượng

- Học sinh khối lớp 6D4 trường THCS Thị trấn Tiên Lãng- Hải Phòng.

3.2. Phương pháp thực hiện

Để thực hiện đề tài này, tôi đã ấp ủ nghiên cứu cả năm dòng bằng một số phương pháp sau:

+ Đọc và xem tài liệu về những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

+ Sử dụng phương pháp tổng hợp thu thập.

+ Hỏi giúp đỡ từ các thầy, cô đồng nghiệp ở trường.

+ Điều tra lấy ý kiến từ các em học sinh.

+ Áp dụng vào các tiết dạy để phân tích nghiên cứu.

II. NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận

Dựa trên những khía cạnh quan tâm nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra nhiều quan niệm về DHPH (Differentiated instruction). DHPH là cách tiếp cận dạy và học đáp ứng những đối tượng HS khác nhau trong cùng một lớp nhằm mục đích “tối đa hóa” năng lực của mỗi cá nhân bằng cách tạo ra cho người học quá trình dạy học phù hợp nhất với họ (Bravmann, 2004). Nói chung, DHPH được xem như là một cách tiếp cận, nguyên tắc hay là một phương pháp dạy học mà ở đó, quá trình điều chỉnh nội dung dạy học, kế hoạch dạy học và môi trường học nhằm đáp ứng được nhu cầu học tập đa dạng của tất cả HS (Đặng Thành Hưng, 2005; Lê Thị Thu Hương, 2012); và để DHPH, GV chia HS thành các nhóm đối tượng khác nhau theo trình độ học vấn, năng lực nhận thức, ngôn ngữ, khả năng tư duy, sở thích, nhu cầu… Dựa trên các quan điểm này, chúng tôi cho rằng: “DHPH một quan điểm dạy học đó GV điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp với từng nhân hoặc nhóm HS nhằm phát triển tối đa năng lực học tập của mỗi HS”.

....................

Tải file về máy để xem đầy đủ nội dung

Trên đây là các Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dự thi giáo viên dạy giỏi 2024 mới nhất và cách viết bài dự thi giáo viên dạy giỏi chi tiết. Do nội dung các biện pháp rất dài, HoaTieu.vn không thể trình bày hết trong bài viết, vậy mời thầy cô tải file về máy để trọn bộ.

Ngoài ra, thầy cô có thể tham khảo thêm các bài viết dưới đây khi ôn thi giáo viên dạy giỏi. Chúc thầy cô đạt kết quả cao!

Mời các bạn cùng tham khảo thêm các bài viết liên quan khác trong mục Tài liệu: Dành cho giáo viên nhé.

Xem thêm:

Đánh giá bài viết
37 157.478
0 Bình luận
Sắp xếp theo