Soạn Phân tích một tác phẩm thơ lớp 9 Cánh Diều
Soạn Văn 9 Cánh Diều bài Phân tích một tác phẩm thơ
Phân tích một tác phẩm thơ là nội dung bài học trang 25 sách giáo khoa Ngữ văn 9 Cánh Diều tập 1. Thông qua bài học này các em sẽ nắm được cách viết bài văn phân tích đặc sắc một tác phẩm thơ về nội dung, nghệ thuật, chủ đề... Cảm nhận được cái đặc sắc nghệ thuật, nội dung, chủ đề...yêu cái đẹp...qua tác phẩm thơ. Sau đây là gợi ý soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ lớp 9 Cánh Diều, mời các em cùng tham khảo.
I. Định hướng
1.1. Phân tích một tác phẩm thơ
- Phân tích tác phẩm thơ thuộc kiểu bài nghị luận văn học, trong đó người viết dùng lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ chủ đề, những đặc sắc nghệ thuật và hiệu quả của nó.
1.2. Yêu cầu
- Đọc kĩ bài thơ, chú ý các đặc điểm của thể loại, tác giả, hoàn cảnh sáng tác (nếu giúp ích cho việc đọc hiểu bài thơ).
- Phân tích nội dung và các yếu tố hình thức nghệ thuật nổi bật của bài thơ, chỉ ra mối quan hệ giữa hình thức và nội dung; từ đó, làm rõ giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung chủ đề của tác phẩm.
- Thực hiện các bước viết bài nghị luận theo quy trình 4 bước: chuẩn bị, tìm ý và lập dàn ý, viết, kiểm tra và chỉnh sửa.
- Suy nghĩ, nhận xét về ý nghĩa, giá trị và sự tác động của bài thơ đối với người đọc cũng như cá nhân học sinh.
II. Thực hành viết trang 26 Văn 9 Cánh Diều tập 1
Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến
Bước 1: Tìm hiểu tác giả Nguyễn Khuyến
- Thông tin về tác giả:
+ Tác giả Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, ông đỗ đầu 3 kì thi Hương, thi Hội, thi Đình nên được gọi là “Tam Nguyên Yên Đổ”. Ông làm quan dưới thời nhà Nguyễn, là người tài năng, có tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc nhưng do bất mãn với triều chính nhiễu nhương đương thời nên đã cáo quan về quê ở ẩn và dạy học.
+ Tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê gặp nhau trong khoa thi Hương, cùng thi đỗ và trở thành bạn bè gắn bó với nhau từ đây.
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ: Nguyễn Khuyến nhận được tin Dương Khuê qua đời. Ông đã viết bài thơ “Khóc Dương Khuê” để giãi bày sự mong nhớ những tháng ngày cũ và tình cảm với người bạn tri kỉ của mình.
- Chủ đề: Tình cảm sâu nặng, chân thành của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người bạn tri kỉ của mình.
- Những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ:
+ Thể thơ thất ngôn bát cú với âm hưởng buồn bã, da diết, nhớ thương.
+ Ngôn ngữ giản dị, bình dân mà tinh tế, uyên bác.
+ Sử dụng các điển cố, điển tích một cách khéo léo, diễn tả sâu sắc nỗi niềm, cảm xúc của bản thân.
+ ………
- Những nét đặc sắc về nội dung:
+ Nỗi đau xót của tác giả khi nghe tin bạn mất.
+ Nỗi nhớ về những tháng ngày đã gắn bó, đồng hành cùng nhau.
+ Nỗi niềm, tâm sự của tác giả về tình bạn tri kỉ của mình.
- Một số tác phẩm viết về tình bạn:
+ Bạn đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến
+ Nước lụt hỏi thăm bạn – Nguyễn Khuyến
+ Quê hương và tình bạn – Dương Lâm
+ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Lí Bạch
Bước 2. Tìm ý và lập dàn ý
Yêu cầu | Nội dung | |||
| Dẫn chứng | Phân tích | Liên hệ, mở rộng | |
Mở bài
| - Dẫn dắt | - Đề tài tình bạn trong cuộc sống và trong văn chương. | ||
| - Giới thiệu tên tác giả, tên tác phẩm. | - Tên tác giả: Nguyễn Khuyến - Tên bài thơ: Khóc Dương Khuê | ||
| - Cảm nhận chung về của bài thơ. | Bài thơ đã phát huy thế mạnh của thể thơ song thất lục bát, kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự với trữ tình, biểu cảm đã diễn tả tình cảm sâu nặng, chân thành của tác giả với người bạn tri kỉ của mình. | ||
Thân bài
| - Bối cảnh và sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc cho tác giả viết bài thơ | - Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn là những người bạn thân thiết, gắn bó với nhau từ thuở mới bước vào trường thi Hương. - Sau khi Nguyễn Khuyến cáo quan lui về quê ở ẩn, còn Dương Khuê tiếp tục ở lại làm quan. Nỗi đau của sự chia li chưa kịp thấu hết thì Nguyễn Khuyến nhận được tin dữ, Dương Khuê qua đời. Ông đã viết bài thơ “Khóc Dương Khuê” để giãi bày sự mong nhớ những tháng ngày cũ và tình cảm với người bạn tri kỉ của mình. | ||
| - Nêu chủ đề của bài thơ | Qua bài thơ, tác giả đã giãi bày nỗi đau đớn, xót xa, mất mát vô cùng khi nghe tin bạn mất, đồng thời là nỗi niềm mong nhớ những tháng ngày gắn bó xưa cũ và tình cảm chân thành, sâu nặng với người bạn tri kỉ của mình. | ||
| - Phân tích những đặc sắc về hình thức nghệ thuật để làm nổi bật chủ đề bài thơ: | |||
| + Phần 1 (2 câu đầu): Phân tích cách sử dụng từ ngữ, từ láy, nhịp thơ trong hai câu thơ đầu để thấy được nỗi đau xót của tác giả khi nghe tin bạn mất | Câu 1,2 | - Xưng hô, gọi tên: Bác Dương - tôi - Từ “thôi” - Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh - Nhịp thơ ngắt đột ngột trong câu 1 2/1/3 - Nhịp thơ 4/4 với các từ láy man mác, ngậm ngùi và âm tiết mở | |
| + Phần 2 (20 câu tiếp): Phân tích biện pháp tu từ điệp ngữ, liệt kê, sử dụng kết hợp ngôn bình dân với ngôn ngữ bác học để nhớ lại những kỉ niệm tình bạn suốt những năm tháng gắn bó cùng nhau | Câu 3 – câu 22 | - Giọng thơ tự sự, thủ thỉ, tâm tình nói với người bạn phương xa mà như ở gần, như tự nói với chính mình - Nỗi nhớ chia làm 3 giai đoạn: thuở hàn vi, đọc sách à khi đỗ đạt làm quan à cuộc gặp gỡ 3 năm trước - Biện pháp tu từ điệp ngữ: cũng có lúc, có khi, điệp cấu trúc,… - Biện pháp tu từ liệt kê: chơi nơi dặm khách, từng gác cheo leo, thú vui con hát, rượu ngon cùng nhắp, chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân, bàn soạn câu văn, buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,… trước ba năm gặp một lần,… - Câu cảm thán, phép lặp “thôi” trong câu: “Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!” | - So sánh với 2 bài thơ của Nguyễn Khuyến - So sánh với bài thơ của Dương Lâm |
| + Phần 3 (16 câu cuối): Phân tích giọng thơ, từ ngữ, hình ảnh, cách nói phủ định, điển cố, điển tích,… để làm rõ tình cảm sâu nặng, chân thành của tác giả dành cho người bạn của mình | Câu 23 – câu 38 | - Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh: về, lên tiên, chẳng ở - Hình ảnh cụ thể hóa nỗi đau xót khi nghe tin bạn mất “Chân tay rụng rời” - Câu phủ định trong cặp câu lục bát “Rượu ngon không có… không mua” - Phép lặp trong câu thơ: “Viết đưa ai, ai biết mà đưa” - Điển cố, điển tích: Trần Phồn – Tử Trĩ, Bá Nha – Chung Tử Kì - Từ ngữ “van”, “thương – lấy nhớ làm thương” - Hình ảnh trong câu cảm thán cuối bài: + Tuổi già – lệ như sương + Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan. à Nỗi buồn đau, thương nhớ thầm kín, sâu thẳm trong lòng. | |
| - Đánh giá chung những nét đặc sắc về giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ và con người tác giả. | - Bài thơ thất ngôn bát cú với giọng điệu buồn bã, nhớ thương, sử dụng ngôn từ giản dị, dân dã kết hợp với sự uyên bác, tinh tế trong các điển cố, điển tích - Diễn tả tình cảm sâu nặng, chân thành của tác giả với người bạn tri kỉ của mình. Đồng thời, ca ngợi tình bạn chân thành, sâu sắc của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê. - Tác giả là một người đặc biệt coi trọng tình bạn và thể hiện tình cảm chân thành, sâu sắc một cách tự nhiên, khéo léo, cảm động. | ||
| So sánh với các bài thơ viết cùng đề tài (nếu có) để làm rõ sự độc đáo của bài thơ | - So sánh với bài thơ “Bạn đến chơi nhà”, “Nước lụt hỏi thăm bạn” để thấy được sự thống nhất trong tư tưởng về tình bạn và nét khác biệt trong giọng điệu, cảm xúc, của tác giả ở bài thơ. | ||
Kết bài | - Khái quát, khẳng định lại giá trị của bài thơ. - Tác động của bài thơ với cá nhân. | - Là bài thơ thất ngôn bát cú viết về tình bạn cảm động và sâu sắc nhất. - Nhận ra được tình bạn chân thành trong cuộc sống; hiểu và trân trọng giá trị của tình bạn… |
Bài văn mẫu
Tình bạn là một trong những thứ tình cảm cao quý nhất của loài người. Trong kho tàng văn học nhân loại, có rất nhiều tác phẩm giá trị viết về đề tài này. Trong đó, “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến xứng đáng là một áng văn bất hủ. Tác phẩm là tiếng khóc ỉ ôi, là nỗi đau chua xót của Nguyễn Khuyến khi đứng trước cái chết của người bạn tâm giao của mình.
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) sinh ra tại quê ngoại ở tỉnh Nam Định, nhưng lớn lên và sống chủ yếu tại tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một nhà Nho nghèo, đến năm 1864 ông mới đỗ đầu kì thi Hương, năm 1871 đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình. Dù đỗ đạt cao nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan trong vòng mười năm sau đó lại về quê dạy học sống thanh bạch chốn quê nhà. Nguyễn Khuyến là một người rất có tài, có cốt cách thanh cao và một tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết. Những sáng tác của ông thành công trên cả chữ Hán và chữ Nôm với những giá trị hết sức to lớn.
Dương Khuê là một trong những người bạn thân thiết nhất của Nguyễn Khuyến. Họ kết giao từ thuở mới bước vào trường thi, cùng chia sẻ với nhau hết những ngọt bùi của chốn quan trường. Sau này, khi kinh thành thất thủ, Nguyễn Khuyến cáo quan về quê ở ấn, còn Dương Khuê vẫn còn nấn ná lại với triều đình để gắng làm tròn chữ nghĩa theo cách của mình. Đến năm 1902, khi nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ này để khóc bạn.
“Khóc Dương Khuê” là một áng thơ vô cùng giản dị, với lối câu từ giản dị, chất phác tiếng khóc của Nguyễn Khuyến cứ thế mà được trải dài trong những vần thơ. Những kỉ niệm năm xưa ngọt ngào, một thực tế đau đến phũ phàng đều được tác giả thể hiện một cách rất chân thực và sâu sắc.
Mở đầu bài thơ là tiếng khóc đầy nghẹn ngào của tác giả:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta,”
Nguyễn Khuyến đã thể hiện sự gần gũi cùng tấm lòng tôn kính của mình với người bạn đã mất qua cách xưng hô “Bác Dương”. Biện pháp nói giảm nói tránh “thôi đã thôi rồi” cùng với điệp từ thôi vừa làm giảm đi cảm giác đau buồn nhưng cũng đã xoáy sâu vào trong sự mất mát, trống rỗng từ sâu trong cõi lòng của thi sĩ. Nỗi buồn ấy lan tỏa vào hết trong không gian, một màn mây nhuốm màu tang thương “man mác” khiến cho Nguyễn Khuyến cảm thấy đau đớn đến tột cùng như bị xé đi từng khúc ruột. Hai câu thơ mở đầu chính là một tiếng nấc nghẹn ngào được tác giả cất lên khi hay tin người bạn chí cốt của mình đã ra đi mãi mãi.
Nguyễn Khuyến ngậm ngùi nhớ về những kỉ niệm thời xuân xanh của hai người với nhau:
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang,
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau,”
Sau những phút giây hốt hoảng vì sự ra đi đột ngột của người bạn tôn quý, Nguyễn Khuyết bình tĩnh trở về với lòng mình, tác giả nhớ lại những kỉ niệm trước đây hai người cùng nhau trải qua, cả một quãng thanh xuân tươi đẹp hiện ra trước mắt tác giả. Đó là những kỉ ức, những kỉ niệm không bao giờ có thể quên được của cả hai người. Từ những lần gặp nhau đầu tiên “thuở đăng khoa”, cho đến những ngày tháng cùng nhau rong ruổi tận hưởng những thú vui ở đời, cũng có khi say xưa bên chén rượu, hay những khi ngâm đàn hát xướng ca. Nhưng giờ đây, tất cả cũng chỉ còn là kỉ niệm mà thôi.
Với việc sử dụng các từ ngữ như: “sớm hôm”, “cùng nhau”, “kính yêu”, “duyên trời”, “có khi”, “cũng có lúc”... cùng với biện pháp liệt kê và thủ pháp điệp cấu trúc đan chéo “cũng có lúc”, “cũng có khi”, khổ thơ đã thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, vừa gợi nhớ và tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha, thể hiện tình bạn vô cùng đẹp đẽ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Khổ thơ chính là những kỉ niệm vô cùng sâu sắc và đẹp đẽ về tình bạn, là những kí ức không bao giờ quên được đối với tác giả.
Tạm gác lại những kỉ niệm buồn vui, những năm tháng gắn bó cùng nhau, Nguyễn Khuyến bỗng nhớ lại về ngày gặp cuối cùng của mình và bác Dương Khuê:
“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời,
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,”
Đứng trước những biến động của xã hội, Nguyễn Khuyến đã chọn cho mình con đường cáo quan ở ẩn, còn Dương Khuê vẫn chọn ở lại làm quan. Chính vì vậy mà họ đã xa cách từ đó. Sau những năm tháng xa cách mỗi người một phương trời, gặp lại tri kỷ nói hết những chuyện gần xa, tâm sự hết những vấn đề của cuộc sống. Thật vui sướng và hạnh phúc vì người bạn của mình vẫn còn rất khỏe mạnh và vẫn giữ được chí hướng ban đầu.
Bằng giọng điệu chua xót, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng với cụ Dương Khuê. Đó là vào ba năm trước, hạnh phúc và vui sương vì bác vẫn giữ nguyên được cốt cách của mình, cũng như vẫn còn khỏe mạnh so với tuổi. Nhưng thật không ngờ lần gặp đó lại là lần gặp cuối, chia tay lần ấy lại là lời vĩnh biệt.
Trở lại với thực tế phũ phàng, dường như Nguyễn Khuyến vẫn chưa thể tin rằng đây là một sự thật:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày,
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”
Nhìn vào thực tế, tác giả cho rằng xét về tuổi tác mình già hơn Dương Khuê, xét về sức khỏe, tác giả còn đau ốm cả trước người bạn già của mình. Tác giả giãi bày nỗi đau tê tái, bủn rủn của mình. Tin bạn mất đã khiến cho ông không còn tin vào thực tại, chỉ thấy chân tay mình trở nên rụng rời. Nhưng trớ trêu thay, đó lại là một sự thật nghiệt ngã.
Ý thơ bỗng có chút trách cứ nhẹ nhàng:
“Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên”
Dẫu biết rằng cuộc đời này đáng chán, nhưng tại sao lại bỏ ông mà về bên kia trước. Sao lại để tác giả phải một mình giữa cái thời thế chán kinh người này.
Thẩn thơ một mình nhìn vào thực tại chán chường, giờ đây trước mắt tác giả là một sự trống vắng đến ghê người:
“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua,
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa,
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn,
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương”
Nhớ trước kia tôi với bạn cùng nhau uống rượu ngâm thơ, cùng nhau say sưa đàn ca dưới ánh trăng. Ấy thế mà giờ đây, rượu ngon đã có nhưng bác ở đâu, thơ viết ra cũng chẳng còn ai tâm đầu ý hợp mà luận mà ca, giường kia cũng trở nên lạnh lẽo khó gần, đàn kia gẩy lên cũng chẳng còn thấy hay ho tí nào. Sự trống vắng cứ thế mà dâng trào trong trái tim của thi sĩ, đọng lại một niềm đau đáu nhớ bạn đến khôn nguôi.
Và dường như, mọi cảm xúc dồn nén trong lòng của thi sĩ đã được thể hiện qua hai dòng thơ cuối cùng:
“Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan."
Đó là một nỗi đau triền miên đến bất tận, đó là tiếng khóc không nước mắt, là những hàng lệ chảy ngược vào trong. Hai câu thơ đã cực tả nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.
Trong mười sáu câu thơ cuối cùng vẫn là lối sử dụng các từ ngữ giản dị chất phác như “lên tiên”, “không viết”, “hững hờ”, “đưa ai”, “ngẩn ngơ”, “hạt lệ”, “chứa chan”... Cùng với đó là biện pháp tu từ liệt kê những thực tế phũ phàng khi không còn có bạn đồng hành cạnh bên. Qua đó nhấn mạnh thêm nỗi đau và sự trống vắng trong lòng của tác giả. Như vậy, với mạch cảm xúc ấy, nỗi đau khi mất đi ngừi bạn thân thiết của mình đã được Nguyễn Khuyến đặc tả dưới những cung bậc khác nhau: có khi thì bộc phát, khi lại trở nên ngậm ngùi nuối tiếc, lúc lại lắng đọng vào sâu trong tâm hồn của tác giả.
Và để có thể chuyển tải một cách sâu sắc tâm trạng cũng như tình cảm mà tác giả dành cho người bạn của mình, Nguyễn Khuyến đã rất thành công khi xây dựng hệ thống nghệ thuật trong bài thơ của mình. Đầu tiên là việc sử dụng thể thơ song thất lục bát mang đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu, lời thơ chân thành, thấm thía, mạch cảm xúc dạt dào cũng đã góp phần không nhỏ trong việc làm nên sự thành công cho tác phẩm. Cùng với đó, các biện pháp tu từ như nói giảm nói tránh, điệp cấu trúc, so sánh, câu hỏi tu từ... cũng là một trong những sự sáng tạo và tài tình của Nguyễn Khuyến.
Chính nhờ sự kết hợp tài tình của các thủ pháp nghệ thuật, mà các giá trị về mặt nội dung của thi phẩm đã được chuyển tải một cách sâu sắc. Bài thơ mang một nỗi niềm tiếc nuối sâu sắc về sự ra đi của người bạn thân thiết của mình, từ đó góp phần khẳng định những giá trị tốt đẹp về tình cảm giữa con người với con người. Bài thơ đã để lại cái nhìn cao đẹp về tình bạn cũng như nhân cách cao đẹp của Nguyễn Khuyến.
Nếu Việt Nam có tình bạn đẹp của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, thì Trung Hoa có đôi bạn Lý Bạch và Đỗ Phủ. Dù tính cách của hai người này có nét trái ngược nhau, Lý Bạch có tâm hồn phóng khoáng, phiêu liêu, thích tự do, bồ bã. Đỗ Phủ lại là một nặng tình, nhiều tâm tư, lắm nguyên tắc, kính thánh tôn hiền. Nhưng họ đã gặp nhau và trở thành những người bạn bè thân thiết của nhau. Viết về chuyện tình này, Đỗ Phủ đã từng thổ lộ rằng:
“Dư diệc Đông Mông khách
Liên quân như đệ huynh
Tuý miên thu cộng bị
Huề thủ nhật đồng hành.”
Nghĩa là:
“Tôi cũng là khách như ông ở Đông Mông.
Ta thương nhau như anh em ruột.
Trời thu lạnh, say ngủ đắp chung chăn
Ban ngày nắm tay cùng đi đây đó.”
Họ gặp nhau khi cả hai cùng làm khách ở Đông Mông. Như một mối lương duyên trời định, cả hai thi thánh đã kết duyên bạn bè với nhau. Có biết bao kỉ niệm buồn vui, cùng gắn bó với nhau trên những chặng đường lớn nhỏ, lang thang cùng với nhau khắp chốn đó đây. Như vậy, có thể thấy, tình bạn là một chủ đề rất quen thuộc trong thơ ca, mỗi người đều sẽ có những câu chuyện khác nhau. Và nghiễm nhiên rằng, mỗi tác giả đều cũng sẽ có những cách thức khác nhau để chuyển tải câu chuyện của mình.
“Khóc Dương Khuê” xứng đáng là một trong những bài thơ đặc sắc nhất viết về tình bạn của thơ ca nhân loại. Chính nhờ những cảm xúc chân thành được cất lên từ chính trái tim mình, mà Nguyễn Khuyến đã tạo nên cho tác phẩm một dấu ấn khó phai trong lòng độc giả đến muôn đời.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.
- Chia sẻ:Trần Thu Trang
- Ngày:
Tham khảo thêm
Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ Than nỗi oan - Cao Bá Nhạ
Phân tích bài thơ Tổ quốc là tiếng mẹ của Nguyễn Việt Chiến
Viết bài văn nghị luận phân tích 1 tác phẩm thơ song thất lục bát lớp 9
(Không chép mạng) Phân tích bài thơ song thất lục bát Bà má Hậu Giang
(Dàn ý) Phân tích Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du
Top 9 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay
(Cực hay) Phân tích bài thơ Đôi mắt của Lưu Trọng Lư
(Ngắn gọn) Phân tích bài thơ Hành quân giữa rừng xuân của Lê Anh Xuân
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Phân tích khổ 4 bài Tràng giangHướng dẫn khai Phiếu đảng viên (mẫu 2-HSĐV)
Cách viết Phiếu đảng viênMẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Bài thu hoạch học tập nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của ĐảngBiên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viên
Mẫu biên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viênTop 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Cảm nhận về bài thơ Sóng - Xuân QuỳnhThực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Đáp án bài tập cuối khóa module 9 môn ToánBài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2024 mới cập nhật
Module rèn luyện phong cách làm việc khoa học của người GVMNBộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2024
Lịch thi vẽ tranh Thiếu nhi Việt Nam mừng đại hội Đoàn 2024Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2024
Cách hủy tờ khai thuế giá trị gia tăngMẫu tờ trình xin kinh phí hoạt động 2024 mới nhất
Cách viết tờ trình xin kinh phí hoạt độngSuy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ NươngTờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2024
Áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công
- (Hay nhất) Soạn bài Mở đầu Ngữ văn 9 Cánh Diều tập 1
- (Mới nhất) Soạn bài Sông núi nước Nam lớp 9 Cánh Diều
- (Chi tiết) Soạn bài Khóc Dương Khuê lớp 9 Cánh Diều
- Thực hành tiếng Việt Một số hiểu biết về chữ Nôm và chữ quốc ngữ lớp 9
- (Ngắn gọn) Soạn bài Phò giá về kinh lớp 9
- Soạn bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ lớp 9 Cánh Diều
- Soạn Phân tích một tác phẩm thơ lớp 9 Cánh Diều
- Nói và nghe Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến lớp 9 trang 29
- Soạn bài Cảnh vui của nhà nghèo
- Soạn bài Cảnh ngày xuân lớp 9 Cánh Diều
- Soạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Cánh Diều
- Thực hành tiếng Việt 9 Điển cố điển tích Cánh diều
- Thực hành đọc hiểu Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học
- Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến trang 51 lớp 9 Cánh Diều
- Tự đánh giá Lục Vân Tiên gặp nạn Cánh Diều
- Soạn bài Vịnh Hạ Long: một kì quan độc đáo và tuyệt mĩ
- Soạn bài Khám phá kì quan thế giới: Thác I- goa-du
- Thực hành Tiếng Việt Nghĩa và cách dùng tên viết tắt của các tổ chức quốc tế
- Soạn bài Vườn quốc gia Tràm Chim - Tam Nông ngắn nhất
Bài viết hay Ngữ văn 9 Cánh Diều
(Hay nhất) Soạn bài Mở đầu Ngữ văn 9 Cánh Diều tập 1
Phân tích một đoạn thơ trích từ Truyện Kiều hoặc Truyện Lục Vân Tiên
Đọc hiểu Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
(Ngắn gọn) Soạn bài Phò giá về kinh lớp 9
Phân tích bài thơ Lời ru của mẹ Xuân Quỳnh
Bài thơ Khóc Dương Khuê giúp em có thêm nhận thức gì về tình bạn trong cuộc sống