Phân tích một đoạn thơ trích từ Truyện Kiều hoặc Truyện Lục Vân Tiên

Hãy phân tích một đoạn thơ trích từ Truyện Kiều (Nguyễn Du) hoặc Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) mà em yêu thích. Đây là nội dung bài tập trang 50 sách giáo khoa Ngữ  văn 9 Cánh Diều bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ một số bài văn mẫu phân tích một đoạn thơ trích từ Truyện Kiều hoặc Truyện Lục Vân Tiên. Mời các em cùng tham khảo.

Phân tích một đoạn thơ trích từ Truyện Kiều

Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.

Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì.

Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

Đòi phen nét vẽ câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.

Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.

Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một kiệt tác lớn được bạn bè quốc tế yêu thích đó chính là tác phẩm Truyện Kiều. Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo truyện Kiều của Nguyễn Du thành công về mặt nghệ thuật với bút pháp tả cảnh ngụ tình và miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc. Nguyễn Du đã đạt đến tình cao trong lịch sử với đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, miêu tả thành công nỗi cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc. Đoạn thơ dài 22 câu không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự việc tả cảnh ngụ tình với những ngôn từ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Thúy Kiều

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Với nét bút tả cảnh ngụ tình Nguyễn Du đã miêu tả thành công tâm trạng của Thúy Kiều với những các từ khóa xuân đã cho thấy tình cảnh của Kiều lâm vào cảnh chim lồng cá chậu bị giam lỏng và khóa kín tuổi xuân của mình. Từ khóa xuân không phải nói tới những cô gái bị cấm cung mà chính là sự mỉa mai chua xót cho thân phận nàng Kiều. Kiều trơ trọi giữa thời gian mênh mông với không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương đôi đất khách quê người, cô đơn bị đày vào chốn lầu xanh.

Lầu Ngưng Bích vốn là một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữu tình thơ mộng được thể hiện qua các từ ngữ non xa, trăng gần, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm kia. Tuy nhiên từ xưa đến nay Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong tình cảnh bị giam cầm và tha hương cô đơn như thế, Kiều nhìn khung cảnh với con mắt buồn thảm vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn đất thì chỉ thấy cồn cát nhấp nhô phía bên là bụi hồng.

Ta có thể thấy lầu Ngưng Bích chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh mây sớm Đèn Khuya chính là một vòng tuần hoàn khép kín của thời gian tất cả như kìm hãm Tuổi Thanh Xuân của Kiều sự sống của Kiều đã bị những thế lực tàn ác của xã hội phong kiến bóc chết từ đó khắc sâu thêm nỗi buồn nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy bẽ bàng buồn tủi bởi không ai chia sẻ và nàng chỉ biết làm bạn với mây với đèn với cảnh vật hoang vu. Trong nỗi cô đơn tuyệt vọng ấy kiều cảm thấy xa cách hoang vắng, bị giam cầm cách biệt với nơi đất khách quê người.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Khi ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng. Đây là một nét bút đặc sắc độc đáo và phù hợp với tâm lý thể hiện lòng chung thủy của Thúy Kiều. Các từ ngữ tưởng, trông chờ trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm nổi bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng Kiều. Càng nhớ về lời thề đôi lứa lời hẹn ước năm nào lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề còn ở đây mà nay mỗi người một ngả khiến Thúy Kiều ân hận, xót xa giống như mình là một kẻ phụ tình chàng.

Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, lo âu cho dù mỗi người một phương nhưng tình cảm của nàng dành cho kim trọng là mãi mãi và không thể phai mờ. Càng nghĩ kều càng thấy lo lắng phải bật lên câu hỏi tu từ. Phải biết đến bao giờ nàng mới có thể rửa sạch được những ô uế của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng. Không chỉ nhớ người yêu, ở nơi lầu cao ấy nàng cũng nhớ về cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Ngôn ngữ độc thoại kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng buồn của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ hôm mai, cách mấy nắng mưa diễn tả nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng. Kiều thương cho cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, ngày trông ngóng, nàng lo cho cha mẹ già yếu ở nhà không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh cùng với điển tích Sơn Lai, gốc tử đã nói lên tâm trạng nhớ thương và thể hiện Kiều là một người con hiếu thảo.

Nàng lo sợ ở nơi quê hương mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại càng ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của một người con. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích. Phải lưu lạc tới nơi đất khách quê người chính bản thân Kiều mới là người đáng thương nhất, thế nhưng với tâm hồn và với những nét tính cách đẹp cao thượng của mình nàng luôn hy sinh bản thân mình, quên đi cảnh ngộ hiện tại của bản thân để lo lắng nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ, những người thân của Kiều. Nỗi nhớ đó của Kiều rất chân thực và có chiều sâu để từ đó ta có thể thấy đây là một người con hiếu thảo, một người tình chung thủy và một con người giàu lòng vị tha.

Tâm trạng buồn tủi của Kiều không chỉ còn ở trong lòng nữa mà đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng và diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Khung cảnh mở ra cho chúng ta thấy được đây là một cảnh hoàng hôn cửa bể chiều hôm gợi cho chúng ta hình ảnh những tia nắng cuối ngày, phản chiếu trên mặt biển xanh khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm. Có cái gì đó tha thiết và nỗi nhớ mong, Kiều dường như tiếc nuối những ngày tháng trước kia. Các từ ngữ thấp thoáng, xa xa diễn tả sự lẻ loi, đơn độc giống như tình cảnh của Kiều bây giờ.

Một mình nơi xứ người bơ vơ nơi lầu ngưng Bích, Kiều chỉ biết nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, mong chờ một con thuyền để có thể cứu nàng. Nhưng chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở phía xa xa, lúc mờ lúc hiện Thuyền ai lênh đênh mất hút phía chân trời xa giống như cuộc đời Kiều lênh đênh chẳng biết chơi về đâu. Chẳng biết bao giờ mới có thể trở về nhà báo hiếu cho cha mẹ

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Cánh hoa mỏng manh dập dìu trong dòng nước bé nhỏ không chống chọi được với sức của mọi nước giống như chính thân phận Kiều trong xã hội cũ. Tuy là một người có đức có tài, có nét đẹp nhưng chính cường quyền áp bức đã vùi dập nàng, vùi dập tài năng của nàng. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi trôi theo dòng đời vô định, chẳng biết đi về đâu. Nhìn cánh hoa vùi dập nàng Kiều lại nhớ tới Kim Trọng, càng buồn tủi và xót xa cho thân phận của mình:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Trái ngược với cái tên của lầu màu xanh qua con mắt của Kiều trở nên thật sầu thảm với từ láy rầu rầu gợi lên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa xơ xác. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều với một tài sắc vẹn toàn đáng lẽ nàng phải có một cuộc sống đầy đủ, phải có một cuộc đời hạnh phúc thế nhưng Tuổi Thanh Xuân ấy sẽ phai tàn và vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hy vọng nhưng nay đã tàn úa giống như niềm tin của Thúy Kiều đang dần cạn với nỗi xót xa ngày càng dâng cao trong Thúy Kiều.

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm, trong cảnh gió cuốn mặt dềnh giống như bão tố phong ba đang chờ đợi Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến, giống như tiếng sóng ở ngoài xa, tiếng sóng ầm ầm chính là báo hiệu một tương lai đầy sóng gió khiến Kiều sợ hãi.

Với điệp ngữ Buồn trông đặt ở bốn câu đầu trong bài thơ giống như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ trầm trầm và những thanh bằng đã nhấn mạnh một nỗi buồn đang ngày càng dâng lên trong tâm trạng của Thúy Kiều, cùng với cảnh vật đang càng lúc càng mênh mang những từ láy xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm như những con sóng đang trào dâng trong tâm hồn của Kiều.

Đoạn trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều cũng như trong văn học trung đại Việt Nam. Qua đoạn thơ chúng ta có thể hiểu biết thêm về tính cách của Kiều. Đó là một người chung thủy, một người con hiếu thảo và là một con người của tấm lòng vị tha. Đồng thời ta cảm nhận được sự khắc nghiệt của xã hội phong kiến, đã đẩy những con người đáng thương như thế kia và hoàn cảnh éo le.

Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Thúy Kiều và chứng tỏ được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du. Chính sự bao dung, đồng cảm sẻ chia của Nguyễn Du đã đi vào tâm tưởng bằng thế hệ.

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga

Truyện thơ Nôm được coi là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhân dân ta. Nhắc đến truyện thơ Nôm - một thể loại gắn bó sâu sắc với những người dân lao đồng bình dị - thì thật thiếu xót khi không kể đến tác phẩm Lục Vân Tiên của thi nhân Nguyễn Đình Chiểu. Đặc biệt, đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, người đọc vô cùng ấn tượng, cảm phúc trước đức tính, tài năng của Lục Vân Tiên qua ngòi bút tài hoa của nhà thơ:

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xô vô.

Kêu rằng: “Bớ đàng hung đồ,

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.

Nay đà rõ đặng nguồn cơn,

Nào ai tính thiệt hơn so làm gì.

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Lục Vân Tiên là tác phẩm truyện thơ Nôm được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ 19. Đây được coi là áng thơ đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển của thể loại truyện thơ Nôm. Tác phẩm viết về cuộc đời nhiều bất trắc của người anh hùng Lục Vân Tiên, từ đó làm nổi bật những tấm gương tốt, khuyên con người nên học hỏi những phẩm chất, đức tính của những người như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga. Đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga thuộc phần đầu của tác phẩm, từ câu 123 đến câu 180, kể lại sự việc Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi bọn cướp và thể hiện sự dũng cảm, không màng dang lợi của chàng.

Mở đầu đoạn trích, nhà thơ đã kể lại cuộc đụng độ giữa Lục Vân Tiên và toán cướp.

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.

Phong Lai chẳng kịp trở tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Đây là trận đấu không cân bằng về số lượng, bởi một bên chỉ có Lục Vân Tiên, bên còn lại là mấy mươi tên cướp hung hãn; cũng không cân bằng về vũ khí, bởi chàng chỉ có trên tay cánh cây nhỏ “Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô”, còn bọn cướp lại gươm giáo đầy đủ. Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hoàn cảnh đặc biệt, vừa để Lục Vân Tiên rơi vào thế khó, nhưng cũng để chàng tự bộc lộ sự gan dạ của mình.

Bằng bút pháp xây dựng hình tượng nhân vật điêu luyện, thi nhân đã xây dựng hai hình tượng vô cùng đối lập: Lục Vân Tiên và tướng cướp Phong Lai. Phong Lai được miêu tả có ngoại hình “mặt đỏ phừng phừng”, lời nói thì hàm hồ, hống hách, thách thức, như muốn “ăn tươi nuốt sống” Lục Vân Tiên: “Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây”. Trong khi đó, Lục Vân Tiên lại rất bình tĩnh bẻ cành cây làm gậy, khuyên bọn cướp không nên làm điều ác “Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Chàng thật sự không muốn gây chiến với bọn cướp, nhưng nếu gặp điều không hay, chàng sẵn sàng diệt trừ cái ác.

Điều làm nên sự thu hút trong đoạn thơ này là trận chiến ác liệt, không cân sức giữa Lục Vân Tiên và bọn cướp. Nguyễn Đình Chiểu tập trung miêu tả những cú đánh tài nghệ, sự dũng mãnh của Lục Vân Tiên. Chàng “tả đột hữu xông”, “khác nào Triệt Tử phá vòng Đương Dang”. Chàng tấn công mạnh mẽ, tung hoành bốn phương, như một người anh hùng đang phá vòng vây của ngàn kẻ địch. Những đòn tấn công nhanh, mạnh của chàng khiến cho Phong Lai và thuộc hạ của hắn chịu đau đớn, mất mát, thất bại thảm hại “Lâ la bốn phía vỡ tan”, “quăng gươm giáp”, “tìm đàng chạy ngay”. “Phong Lai chẳng kịp trở tay”, “Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”. Phong Lai ban đầu hùng hổ, huênh hoang thế, nhưng cuối cùng, chỉ bị duy nhất một đòn của của Lục Vân Tiên, mà cũng chết không kịp nhắm mắt. Bọn cướp còn lại như rắn mất đầu, sợ hãi bỏ chạy tứ phía, tìm đường thoát thân. Lục Vân Tiên quả thật quá tài giỏi, binh pháp hơn người! Chỉ với một cành cây bẻ vội bên đường mà chàng đã dọn được ngay bọn cướp hung hãn, mà trong mắt chàng lại chỉ là “lũ kiến chòm ong”.

Sau trận chiến ác liệt, Lục Vân Tiên gặp người mình đã cứu - Kiều Nguyệt Nga. Khi này, Kiều Nguyệt Nga bày tỏ sự cảm kích và mong muốn được báo ơn chàng:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi:”Ai than khóc ở trong xe nầy?”

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

Trước hết, Kiều Nguyệt Nga xưng danh, nêu lên những lí do khiến mình bị đẩy vào tình thế nguy cấp, gặp bọn tàn ác này

Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Chẳng qua là sự bất bình,

Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.

Qua lời giới thiệu, ta có thể thấy Kiều Nguyệt Nga là cô tiểu thư danh giá, có bố làm chức quan tri phủ. Lần này nàng gặp nạn, cũng bởi do không muốn làm sai lời cha, sang miền Hà Tây để “định bề nghi gia”. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng một Kiều Nguyệt Nga vô cùng ngoan ngoãn, hiếu thảo, lại ăn nói tế nhị, lịch sự, dịu dàng, âu cũng để khuyên dạy con người cũng nên có những phẩm chất đó.

Gặp được ân nhân, Kiều Nguyệt Nga nóng lòng muốn đèn báo ơn, bởi với nàng, đây là điều theo lẽ tự nhiên.

Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin chi tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.

Nàng vốn là một cô tiểu thư, có địa vị cao trong xã hội, nhưng lại xưng “tiện thiếp”, gọi Lục Vân Tiên - một người dân bình thường- là “quân tử”. Nàng đã hạ thấp mình xuống, như một cách để cảm kích, trân trọng ân nhân của mình. Không những thế, Kiều Nguyệt Nga còn “lạy” và “thưa” với người anh hùng kia. Nhà thơ đã sử dụng từ ngữ rất khéo léo trong việc miêu tả cách xưng hô và hành động của Kiều Nguyệt Nga, như để bày tỏ đậm nét hơn sự mang ơn của nàng.

Kiều Nguyệt Nga mong muốn Lục Vân Tiên theo mình đến Hà Khê, để có thể lấy của cải, vật chất trả ơn cho chàng. Nàng cho rằng mình nên báo đáp ân nhân như thế, bởi thân nàng “liễu yếu đào tơ”, không giúp gì được chàng, mà đang trên đường đi, “của tiền chẳng có bạc vàng cũng không”. Không những chỉ muốn lấy vàng bạc để trả ơn, nàng lại thấy công ơn của Lục Vân Tiên quá to lớn, không có cái gì hơn để “phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Nàng đau đáu, sợ ân nhân sẽ thiệt, biết ơn sâu sắc đến người đã cứu giúp mình lúc hoạn nạn. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga như một biểu hiện của đạo lý “báo đức thù công” - một quan niệm mà Nguyễn Đình Chiểu tâm đắc và tuân theo đến cùng.

Đáp lại sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên lại không nhận, cho rằng cứu người là việc đương nhiên:

Vân Tiên nghe nói liền cười

Làm ơn há dễ trông người trả ơn

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Lục Vân Tiên quan niệm rằng, trách nhiệm của người anh hùng là trừng trị cái xấu, cái ác, không nên soi xét đến hơn thiệt. Đây là quan niệm rất đúng đắn và nhân văn, bởi khi đã cứu người thì tâm người đó phải sáng, không bao giờ màng đến danh lợi. Người nào mà giúp người với tâm thế muốn được trả ơn, thế là “phi anh hùng”. Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu đã phẩn nào có sự tiến bộ hơn so với các nhà Nho xưa, không chỉ dừng lại ở “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài” hay không cần có “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” như nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà còn cần có tấm lòng rộng mở, không đòi hỏi sự mang ơn của người khác, sẵn sàng xả thân vì cái tốt.

Như vậy, đoạn trích trở nên hấp dẫn không chỉ nhờ những đức tính tốt đẹp của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, mà nó còn thu hút người đọc bởi nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, sự kết hợp khéo léo giữa ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại, ngôn từ sắc bén, tinh tế. Ngoài ra, chính thể thơ lục bát cùng nhịp thơ nhẹ nhàng đã làm đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên nói riêng trở nên dễ nhớ, dễ thuộc và đi sâu vào tâm trí người đọc.

Tóm lại, đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga đã làm sáng rõ hơn những tấm gương tốt, với những phẩm chất như anh dũng mạnh mẽ, biết mâng ơn người ân nhân của mình. Tác phẩm như một cuốn sách đạo làm người của Nho giáo, hướng con người đến cái thiện, tránh xa cái ác. Và những quan niệm ấy vẫn thật cần thiết cho đến tận ngày nay.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 24
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi