Nói và nghe Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến lớp 9 trang 29

Soạn Văn 9 Cánh Diều bài Nói và nghe trang 29

Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến là nội dung bài Nói và nghe lớp 9 trang 29 Văn 9 Cánh Diều tập 1. Thông qua bài học này các em sẽ nhận biết những yêu cầu về nội dung và hình thức của bài nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến cũng như nắm được yêu cầu cần có khi nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến. Sau đây là gợi ý soạn bài Nói và nghe Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến, mời các em cùng tham khảo.

Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến lớp 9 Cánh Diều

I. Định hướng

1. Khái niệm

Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến là yêu cầu cần thiết trong giao tiếp, nhất là khi nghe trình bày một ý kiến nghị luận. Bởi vì mục đích của văn nghị luận là thuyết phục. Kĩ năng nghe và nhận biết tính thuyết phục của ý kiến người nói thể hiện sự chủ động trong giao tiếp ở người nghe. Người nghe cần nắm được nội dung và cách thức trình bày của người nói, nhận biết được tính thuyết phục cũng như chỉ ra được những hạn chế (nếu có), chẳng hạn, lập luận thiếu logic, bằng chứng chưa đủ hoặc bằng chứng không liên quan đến vấn đề trình bày...

2. Yêu cầu về nội dung

Muốn nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến, các em cần lưu ý:

– Bối cảnh trình bày

+ Không gian, thời gian

– Xác định vấn đề trình bày

+ So sánh hai văn bản

– Đối tượng người nghe

+ Thầy cô, ban bè, người thân trong gia đình, ...

– Mục đích

+ Nêu ý kiến, thuyết phục người nghe

– Phương tiên hỗ trợ

+ Máy chiếu, màn hình, tranh, ảnh, video, sơ đồ, bảng biểu,

– Nội dung

+ Mở đầu: Nêu vấn đề và lí do chọn vấn đề

+ Nội dung chính:

- Trình tự các luận điểm

- Lí lẽ tương ứng với từng luận điểm

- Bằng chứng tương ứng với từng luận điểm

+ Kết thúc:

- Khái quát vấn đề đã trình bày

– Cách thức, thái độ khi nói

+ Hướng về người nghe, kết hợp lời nói và cử chỉ, động tác, ...; giọng điệu và âm lượng phù hợp

3. Kĩ năng nói và nghe

a) Những kĩ năng của người nói:

– Nội dung trình bày:

+ Vấn đề trình bàu được nêu rõ ràng, cụ thể

+ Mở đầu nêu lên vấn đề gì?

+ Ý kiến phong phú, có trong tâm, trình bày logic; lí lẽ và bằng chứng làm nổi bật được vấn đề.

– Hình thức trình bày:

+ Bài trình bày có bố cục rõ ràng.

+ Sử dụng công cụ, thiết bị hỗ trợ phù hợp.

+ Có sự sáng tạo trong trình bày.

– Tác phong, thái độ trình bày:

+ Phong thái tự tin, tôn trọng người nghe, sử dụng ngôn ngữ cơ thể sinh động, phù hợp.

+ Nói trôi chảy, mạch lạc, không bị ngắt quãng hoặc có những từ chêm xen (à, ờ, thì, mà, là,…)

+ Tốc độ nói vừa phải, có nhấn giọng ở những nội dung quan trọng.

+ Giải đáp thắc mắc cụ thể, ngắn gọn, thỏa đáng.

+ Đảm bảo yêu cầu về thời gian trình bày.

b) Những kĩ năng của người nghe

- Lắng nghe, xác định và ghi lại các thông tin chính của bài trình bày; những nội dung cần hỏi lại.

- Thể hiện thái độ chú ý lắng nghe; sử dụng các yếu tố cử chỉ, nét mặt, ánh mắt để khích lệ người nói.

- Hỏi lại những điểm chưa rõ (nếu cần); có thể trao đổi thêm quan điểm của cá nhân về nội dung bài trình bày.

II. Thực hành

Nghe và nhận biết tính thuyết phục của ý kiến trình bày về sự giống nhau và khác nhau giữa bài thơ “Sông núi nước Nam” và văn bản “Nước Đại Việt ta” (trích “Đại cáo bình Ngô” – Nguyễn Trãi).

Tìm ý và lập dàn ý

- Người nói: Tập trung vào vấn đề đã nêu ở bài tập, dựa vào gợi ý trong mục 1. Định hướng để tìm ý và lập dàn ý cho bài trình bày.

– Người nghe: chú ý các điểm cần tập trung khi nghe để nhận biết tính thuyết phục của ý kiến được trình bày và chỉ ra được những hạn chế (nếu có). Chẳng hạn, bài trình bày của người nói cần đáp ứng hệ thống ý sau đây:

Dàn ý

A. Mở đầu: nêu vấn đề, mục đích bài nói là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau của hai văn bản.

B. Nội dung chính:

* Giống nhau:

- Về đề tài: Khẳng định chủ quyền dân tộc; đều xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt.

- Bối cảnh ra đời: đều ra đời trong quá trình chiến đấu chống giặc ngoại xâm. “Nam quốc sơn hà” được Lí Thường Kiệt viết trong quá trình đánh giặc Tống xâm lược. “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết sau khi hoàn thành đại cuộc kháng Minh và thiết lập nên triều Hậu Lê.

* Khác nhau:

- Cơ sở khẳng định chủ quyền của Lí Thường Kiệt: là lãnh thổ và chủ quyền. lãnh thổ được phân định ở sách trời “thiên thư”; có đế vương như Trung Quốc. LTK đề cao tinh thần tự tôn của 1 dân tộc độc lập, muốn thoát ly khỏi nước lớn

- Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” khẳng định độc lập tự do của Tổ quốc là do nhân dân lựa chọn và chính nhân dân hi sinh để có được chứ ko phải nhờ trời ban. Nguyễn Trãi đặt ngang các vương triều Đại Việt sánh với các triều đại phong kiến Trung Quốc để chứng minh nước Việt có truyền thống văn hiến; núi sông bờ cõi, lãnh thổ rạch ròi; có truyền thống, có phong tục; có lịch sử; có anh hùng hào kiệt.

=> Có thể nói ở “Bình Ngô đại cáo”, quan niệm về quốc gia dân tộc hoàn thiện hơn so với “Nam quốc sơn hà”. Nguyễn Trãi đã kế thừa trọn vẹn “Nam quốc sơn hà” để từ đó tạo nên bản anh hùng ca bất hủ

C. Kết thúc: Khẳng định ý nghĩa và vị trí của hai văn bản đối với lịch sử dân tộc nói chung và văn học nói riêng.

Bài nói tham khảo:

Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm hiểu sự giống nhau và khác nhau giữa bài thơ “Sông núi nước Nam” và văn bản “Nước Đại Việt ta" (trích "Đại cáo bình Ngô” – Nguyễn Trãi). Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự kế thừa và phát triển hoàn thiện ý thức về độc lập chủ quyền, ý thức về quốc gia dân tộc. Nam quốc sơn hà là một trong những bài thơ sớm nhất đề cao tinh thần dân tộc. Lúc ấy khái niệm quốc gia, chủ quyền độc lập còn đơn giản chứ chưa được hiểu sâu sắc và toàn diện như sau này.

Nam quốc sơn Hà Nam đế cư

Người Trung Quốc tự cho rằng họ là tinh hoa của vũ trụ. Chỉ có vua của Trung Hoa mới được xếp vào hạng “đế”, hàng “Thiên tử” có thể thay trời hành đạo. Còn tất cả các nước khác xung quanh chỉ là hàng “man di, mọi rợ”. Thế nhưng câu thơ trong Nam quốc sơn hờ lại khẳng định vô cùng đanh thép. Nước Nam ta cũng có “hoàng đế” cũng xứng danh “Thiên tử” bởi:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

(Rành rành định phận ở sách trời)

Chúng ta có lãnh thổ riêng. Ranh giới Bắc – Nam phân định rõ ràng “tại thiên thư”. Và như vậy người Đại Việt có quyền tự hào và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc ngàn đời.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi lúc này không phải là tranh luận về hai chữ đế, vương, không phải là cái khái niệm mơ hồ về ranh giới lãnh thổ mà là ở truyền thống văn hiến lâu đời.

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, lý, Trần hao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Chủ quyền dân tộc với tác giả phải là có lãnh thổ rạch ròi, có truyền thống, có phong tục, có những thói quen thẩm mỹ. Những điều nổi bật nhất để khẳng định chủ quyền của quốc gia chính là lịch sử. Lịch sử sẽ là bằng chứng hùng hồn không thể nào chối cãi được. Ớ trong câu văn của Nguyễn Trãi, ta thấy tác giả một lần nữa nhắc đến sự khác biệt đế, vương. So với Nam quốc sơn hà thì ở điểm này, Bình Ngô đại cáo có sự kế thừa. Dân tộc trong quan niệm của nhà văn còn phải có “anh hùng hào kiệt”. Đó mới là những con người tạo ra lịch sử, vừa là những bằng chứng hùng hồn về truyền thống của nước ta.

Trên cơ sở những gì đã có, nhà văn Nguyễn Trãi đã kế thừa trọn vẹn Nam quốc sơn hà để rồi từ đó tạo ra bản anh hùng ca bất hủ, bản “tuyên ngôn độc lập thứ hai” trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của đồng bào ta.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 2.385
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi