Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn 2023

Tải về

Kì thi vào lớp 10 năm học 2023-2024 đã cận kề. Nhằm giúp các em học sinh ôn thi vào lớp môn ngữ văn sao cho tốt, trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến các em tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn 2023 bao gồm tổng hợp nội dung ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn phần thơ và truyện có bài mẫu chi tiết sẽ giúp các em ôn tập tốt hơn. Sau đây là nội dung tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn pdf, doc. Mời các em cùng tham khảo.

Tài liệu ôn thi vào 10 môn Văn

Tài liệu ôn thi vào 10 môn Văn

1. Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận)

ĐỀ SỐ 1

1. Không khí lao động khẩn trương, khỏe khoắn và tươi vui trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

2. Chép lại theo trí nhớ 4 câu thơ đầu và 4 câu thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá.

a) Phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh thơ Mặt trời xuống biển và Mặt trời đội biển. Bình luận tính chính xác của hai từ xuống và đội.

b) Trong hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm trạng gì?

1. BÀI VĂN (THAM KHẢO)

Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH.

Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Giới thiệu một ngày sắp kết thúc, sự vật bắt đầu nghỉ ngơi sau hành trình 12 giờ mệt mỏi. Thế nhưng với con người làm nghề đánh cá thì lại khác, dấu hiệu mặt trời xuống biển mở ra một sự bắt đầu với Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Đánh cá trên biển là công việc nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà những người đánh cá "lại" ra khơi với một tinh thần sảng khoái, tràn trề niềm vui, phấn chấn :

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Tiếng hát được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một điệp khúc và nó trở thành âm thanh chủ đạo trong bài thơ:

- Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng

- Ta hát bài ca gọi cá vào

Tác giả miêu tả những con cá, những đàn cá gợi nên bức tranh sinh động về biển cả. Hình ảnh đàn cá lóng lánh màu sắc như một bức tranh sơn mài.

Giữa khung cảnh mênh mông, rộng lớn, hình ảnh người lao động xuất hiện với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh thật khỏe khoắn, rắn chắc :

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tô đậm lên hình ảnh những người lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời nước bao la :

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Trên cái không gian bát ngát của trăng, gió, trời, biển ấy, hình ảnh con người mới xuất hiện với chiều kích của không gian. Đó chính là bởi niềm vui hăng say lao động, làm giàu cho Tổ quốc.

Công việc nặng nhọc của người lao động đánh cá đã trở thành bài ca lạc quan, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Tiếng hát bay bổng, chứa chan tình cảm. Bóng trăng xô sóng nước như gõ vào mạn thuyền. Cái hiện thực đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh cá của người lao động. Con người lao động hoà vào thiên nhiên, cất baìo ca giữa thiên nhiên. Bài thơ kết thúc với cảnh rạng đông khi đoàn thuyền quay trở về:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Cuối câu thơ đậm bức tranh sống động, hấp dẫn về thành quả của người lao động. Sau một đêm làm việc vất vả, mệt nhọc, khẩn trương nay họ đã về bến với hình ảnh mắt cá huy hoàng cá phơi dài muôn dặm.

Đoàn thuyền đánh cá là khung cảnh lao động đầy khí thế của những con người mới, của cuộc sống mới những tháng ngày hăng say xây dựng CNXH. Bài thơ là bài ca yêu nghề, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu sự nghiệp xây dựng đất nước của những người lao động. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng không gian quen thuộc, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một bài thơ hay của thơ ca hiện đại sau cách mạng Tháng Tám.

2. BÀI VĂN (THAM KHẢO)

Khổ thơ đầu :

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Khổ thơ kết :

Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

a) Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động đánh cá trên biển Hòn Gai vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Trong bài thơ này tác giả sử dụng rất nhiều hình ảnh đẹp, kì vĩ của thiên nhiên, vũ trụ, đặc biệt là hình ảnh "mặt trời xuống biển" và "mặt trời đội biển" ở khổ thơ đầu và khổ thơ kết. Đây là hai hình ảnh nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nên thành công của bài thơ.

"Mặt trời xuống biển" và "Mặt trời đội biển" là hai không gian, thời gian gắn liền với hoạt động của đoàn thuyền đánh cá. Đoàn thuyền xuất phát khi biển vào đêm, lúc vũ trụ nghỉ ngơi là lúc con người hoạt động. Đoàn thuyền trở về khi một ngày mới xuất hiện trên biển, con người lao động thật hăng say, nâng lên tầm vóc vũ trụ.

Từ "xuống" rất chính xác, diễn tả cảnh mặt trời lặn, nhưng là xuống biển, tức là đoàn thuyền xuất phát từ đảo xa bờ, không có bóng dáng đất liền, chỉ có bốn bề là biển mênh mông. Còn từ "đội" ở phần kết cũng rất chính xác vì diễn tả cảnh bình minh trên biển, mặt trời như được mọc lên từ biển, xuyên qua biển, tạo nên bình minh rực rỡ. Hai hình ảnh này có ý nghĩa diễn tả đoàn thuyền lênh đênh trên biển, như thách thức biển khơi.

b) Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tiếng hát lãng mạn, hăng say lao động trên biển. Cái tôi trữ tình của nhà thơ hòa vào cái ta chung để diễn tả tâm trạng của những con người lao động mới xây dựng miền Bắc XHCN. Đó là cái chất hào hùng không còn phải cúi mình trước biển khơi. Bài thơ đem đến một cảm hứng lạc quan, khắc tạc tư thế chiến thắng của con người. Họ lao mình vào biển và đêm trở về trong ánh hào quang. Họ là những con người làm chủ thiên nhiên, làm nên những kì tích.

ĐỀ SỐ 2

1. Hãy chọn một số câu thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận để viết một bài văn có tiêu đề: Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn

2. Viết lời bình cho khổ thơ sau đây :

Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)

1. Bài mẫu

Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con người lao động mới hăng say, khỏe khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Gam màu chủ yếu của bức tranh thơ này là màu sáng lóng lánh. Để rồi, khi đọc thi phẩm ta cảm tưởng lạc vào đêm hoa đăng chiến thắng trên biển - hào hùng, tráng lệ và lãng mạn.

Như bao bài thơ khác của Huy Cận, thiên nhiên xuất hiện trong Đoàn thuyền đánh cá thật quen thuộc : mặt trời, trăng, sao, gió, mây... Tuy nhiên, bằng cái nhìn của thi sĩ XHCN, đi giữa miền Bắc hòa bình với ngòi bút miêu tả theo phong cách ấn tượng đầy tài năng ở bài thơ này, thiên nhiên đã trở nên chân thực, sống động mà tráng lệ, rực rỡ kì vĩ, lớn lao mà tinh tế. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên ấy, con người hiện lên khoáng đạt, lãng mạn, tin yêu cuộc sống và tinh thần hăng hái lao động. Đặt mình vào tư cách con người lao động trên biển khơi mênh mông, Huy Cận đã lắng nghe được sự hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con người.

Bài thơ miêu tả hành trình ra khơi và trở về trong thắng lợi của đoàn thuyền đánh cá gắn với hình ảnh mặt trời tráng lệ : "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" - "Mặt trời đội biển nhô màu mới". Trong câu thơ đầu tác giả sử dụng hình ảnh ví von vô cùng biểu cảm, giàu sức gợi và chuẩn xác. Khi mặt trời xuống biển là lúc có hình dáng quả cầu đỏ sẫm. Những tia sáng phản chiếu dưới mặt nước, lung linh như hoa lửa. Vẫn mang nét tráng lệ, nhưng khác với hình ảnh mặt trời hoàng hôn ở phần đầu bài thơ, hình ảnh mặt trời ở cuối bài thơ lại là linh hồn của bình minh và đồng hiện cùng với sự cập bến đầy tốt lành của đoàn thuyền đánh cá.

Hình ảnh bao quát bài thơ cho ta cảm giác về vũ trụ bao la thơ mộng. Đó là mối quan hệ tương hợp giữa con người với thiên nhiên trong lao động, với mặt trời tráng lệ, với đêm trăng huyền ảo, với mây trời, sóng nước và với cá - sinh lực, tinh lực của biển.

Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn trong bài chủ yếu là những hình ảnh miêu tả trực tiếp thiên nhiên nhưng đã gián tiếp làm rõ vẻ đẹp khỏe khoắn, khoáng đạt, tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình của con người. Chúng ta hãy đọc những vần thơ :

... Câu hát căng buồm cung gió khơi

... Thuyền ta lái gió với buồm trăng

... Ta hát bài ca gọi cá vào

... Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long

Hàng loạt các hình ảnh thiên nhiên hiện ra cùng với hoạt động và tiếng hát của con người cùng đưa con thuyền lao động tiến vào trùng dương. Trăng, sao, điểm tô cho bức vẽ con người xông pha vào đại dương bao la thêm phơi phới hơn. Nhịp điệu lao động của con người đã mang nhịp thiên nhiên, vũ trụ một cách nhịp nhàng, hài hòa. Trong bài thơ : trời, mây, biển cả được tráng lệ hóa để mang hồn lao động, con người lao động được cao cả hóa để mang tầm vũ trụ.

Gấp trang thơ của Huy Cận lại, những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn vẫn còn mãi trong trí tưởng tượng của chúng ta. Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui và câu hát, một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người, vì đối với Huy Cận "Trời mỗi ngày lại sáng" và "biển đang hát" .

2. Bài mẫu

Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám, được in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng". Đây là bài thơ có kết cấu độc đáo : đoàn thuyền đánh cá xuất phát khi đêm xuống trên biển và trở về khi bình minh đón chào một ngày mới trên biển. Cả bài thơ là bức tranh lao động lung linh sáng đẹp trên biển, vừa là tiếng hát lạc quan của những chủ nhân biển khơi.

Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng âm hưởng của tiếng hát vui say lao động vẫn ngân nga trong lòng người :

Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Câu đầu tiên của khổ thơ này được lặp lại gần như nguyên vẹn câu thứ tư của khổ thơ đầu bài thơ, chỉ thay chữ "cùng" bằng chữ "với", nhưng đã tạo ra cảm giác tuần hoàn. Câu hát căng buồm đưa thuyền đi thì giờ đây vẫn câu hát căng buồm lại đưa thuyền về. Và bây giờ đoàn thuyền đã trở về trong một tư thế mới "chạy đua cùng mặt trời ". Màu nắng chan hòa làm thành quả lao động thêm rực rỡ. Hình ảnh mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi là sự kết hợp giữa màu sắc của mắt cá sống động, long lanh và ánh sáng chan hòa của mặt trời. Câu thơ kết là hay nhất bởi cách dùng chữ thật tài tình : Mặt trời đội biển nhô màu mới - Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Huy Cận miêu tả chính xác chuyển động của mặt trời, chuyển động từ từ, ban đầu là ánh sáng hừng lên, sau đó mặt trời nhô lên kết thúc một đêm. Khổ thơ này tạo tương xứng với mặt trời xuống biển - đoàn thuyền ra khơi ở đầu bài thơ. Và thành quả tốt đẹp (mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi) chính là cao trào của bài ca lao động.

Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca ngợi ca lao động, ngợi ca biển trời quê hương giàu đẹp cùng những chủ nhân của đất nước. Sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên, tấm lòng, tình cảm của nhà thơ trong một trí tưởng tượng phong phú đã giúp thơ gây được sức hấp dẫn, ấn tượng về cuộc sống mới và con người mới.

2. Bếp lửa của Bằng Việt

Đề 1

1. Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

2. Bằng một bài văn ngắn, hãy viết cảm nhận của em về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa.

1. Bài mẫu

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Đó là tâm trạng của những người xa quê. Những cái bình thường quen thuộc hàng ngày tưởng chừng như chẳng có gì đáng nhớ nhưng đến khi xa rồi mới biết chẳng thể nào quên. Nhưng nỗi nhớ quê ấy ở mỗi người có những sắc thái cảm xúc khác nhau. Có khi là hình ảnh dung dị một bát canh rau muống, một chén cà dầm tương,... Có khi lại là một ánh trăng quê... Còn riêng với Bằng Việt, trong những năm tháng du học ở Liên xô, nhà thơ nhớ da diết bếp lửa của bà :

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm...

Cảm xúc về bếp lửa của Bằng Việt bắt đầu từ đây. Chúng ta hãy cùng đọc và khẽ ngâm lên từng lời thơ để hòa nhập hồn mình bâng khuâng theo dòng cảm xúc đang trào dâng của tác giả.

Thật xúc động biết bao ! Từ một đất nước công nghiệp chỉ toàn bếp điện, bếp hơi, với những ống khói con tàu, tác giả nhớ về một bếp lửa đang chờn vờn trong sương sớm. Và từ bếp lửa, nhớ đến kỉ niệm ấu thơ : Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Cả một thiên hồi ức hiện về trong tâm trí nhà thơ, suốt một quãng đời vất vả bà cháu bên nhau : Mới lên bốn tuổi đã quen mùi khói. Làng đói kém, bố đi đánh xe thật vất vả - Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay. Hồi tưởng những năm tháng bà cháu cùng sớm hôm có nhau. Bà kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà dặn cháu viết thư cho bố ở chiến khu, bà sớm chiều nhen bếp lửa... Lời kể sao mà tha thiết thế ! Nó gợi trong lòng người bao niềm xúc động sâu xa. Làm sao quên được : Những năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi. Bà đã dặn cháu :

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kẻ này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Hình ảnh người bà hiện lên trong lời thơ ấy đẹp làm sao ! Bà lúc nào cũng sẵn sàng chịu đựng. Bà là thế đấy! Suốt một đời tận tụy vì con, vì cháu. Nhưng không chỉ có thế. Vượt lên trên tình thương ấy, bà còn là người làm việc âm thầm, lặng lẽ, biểu lộ ý thức trách nhiệm của mình với Tổ quốc. Bà đã cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ hi sinh cho cuộc kháng chiến này. Càng lớn khôn, tác giả càng nhận thức rõ tấm lòng cao quí của bà. Người đã lận đận biết mấy nắng mưa để nhen nhóm trong lòng đứa cháu yêu quí của mình ngay từ tuổi thơ một tình cảm rộng lớn hơn tình bà cháu thông thường, đó là một ngọn lửa chứa chan niềm tin dai dẳng đối với đất nước, con người :

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm thương yêu khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng bếp lửa

Hình ảnh bếp lửa được lặp lại nhiều trong bài thơ có giá trị tu từ độc đáo. Đây là hình ảnh tả thực trong cuộc sống đời thường. Song, đối với người đi xa quê hương lại là một dấu ấn khó phai mờ - Bởi vì chính bên cạnh bếp lửa hồng ấy, hình ảnh người bà, "chập chờn trong sương sớm" in đậm tâm trí tác giả từ tuổi nhỏ. Nhờ bếp lửa mà thời ấu thơ của tác giả êm đềm, ấm áp như những câu chuyện cổ tích mà bà thường hay kể. Bếp lửa và người bà chính là nguồn sáng tâm hồn, nuôi dưỡng tình cảm thương yêu cho người cháu.

Điều đáng nói nhất về bài thơ chính là ý nghĩa tượng trưng của hình tượng bếp lửa. Đó là ngọn lửa niềm tin, ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn dân tộc đã nhóm lên trong tâm hồn trẻ thơ những cảm xúc và suy nghĩ chân tình, đẹp đẽ. Hình ảnh bếp lửa trong quá khứ, trong hiện tại đan cài vào nhau, nâng cảm xúc và tư duy nhà thơ bay bổng dạt dào, hướng về gia đình, về nguồn cội, về quê hương đất nước. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở đó. Với giọng thơ ân tình tha thiết, nhà thơ hồi tưởng những năm tháng cùng bà "nhóm lửa". Hình ảnh chim tu hú kêu trên những cánh đồng xa gợi lên không khí của một buổi sớm tinh mơ, vắng vẻ, quạnh hiu... Cùng với hình ảnh chim tu hú, hình ảnh bà cũng hiện lên lụi cụi, vất vả. Các vần nối tiếp nhau để diễn tả cảm xúc ấy : Xa, nhà, Huế, thế, về... tạo âm hưởng kéo dài liên tục không dứt. Nhạc điệu buồn, tha thiết, trầm lặng thể hiện nỗi nhớ nhung bà :

Giờ cháu đi xa có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?

Chính tình bà cháu cao đẹp và thiêng liêng kì diệu đã nhen nhóm trong lòng nhà thơ niềm tin yêu cuộc sống, con người, tình yêu quê hương đất nước. Đây là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Tác giả đã khéo léo sử dụng cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài thơ. Ta cảm nhận được tấm lòng biết ơn, nỗi nhớ nhung của nhà thơ giành cho bà yêu dấu của mình. Bếp lửa đã khơi dậy trong ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước. Đặc biệt là lòng biết ơn sâu nặng đối với bà.

2. Bài mẫu

Bếp lửa tái hiện hình ảnh người bà quen thuộc, yêu thương mà trong thơ hiện đại không phải dễ gặp.

Bẳng Việt đã đem đến một biểu tượng tình bà yêu cháu vô cùng sâu nặng. Đó là những tháng năm xa chỉ còn trong kí ức, mẹ cha bận công tác, giữa thời bom đạn, bà chăm chút, yêu thương dạy bảo cháu nên người. Bà là nguồn sống gia đình, là những gì tảo tần, nhẫn nại, giàu niềm tin, hết lòng yêu thương, chăm lo, chi chút cho cháu và gia đình. Bà là ngọn lửa của tình thương hạnh phúc con cháu. Bà khơi dậy và làm bùng lên khát vọng. Hành động nhóm bếp không chỉ là hình ảnh đời thường ấm áp mà chính là ngọn lửa của sự sống. Khi viết những dòng thơ Bếp lửa, tác giả đang ở xa Tổ quốc và đã trưởng thành. Đây là một bài thơ thật sự sâu sắc về tình yêu đất nước, quê hương trong hình ảnh dung dị của bà. Bà ta cũng như mẹ ta không ra chiến trường, lập nên chiến công lừng lẫy nhưng là nơi giữ gìn cội nguồn bền chắc cho mỗi chúng ta khi bay cao, bay xa.

Hồi ức về những người thân yêu bao giờ cũng sinh động, ta càng rời xa tuổi thơ thì kỉ niệm càng thân thiết, gần gũi, cảm động. Bếp lửa là một hồi ức tuyệt đẹp về bà, nhắc nhở mỗi người về một tình yêu thân thiết trong tâm hồn và trái tim những người Việt Nam yêu nước.

3. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm

Đề 1

1. Phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm

2. Phân tích đoạn thơ :

Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

.................................................

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời

(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)

1. Bài mẫu

“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quí và đất nước thân thương nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lưng đưa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội :

“Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần

Mai sau con lớn vung chày lún sân...”

Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc đáo :

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.”

Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tươi tốt, như cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng - những người dân lao động nghèo đói :

“Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói

Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều

Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”.

Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lưng đưa con đi “để giành trận cuối”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nước : “Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do :

“Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ

Mai sau con lớn thành người tự do”.

Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. Như vậy, bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.

Theo lời ru (và cũng là tình yêu thương của mẹ), theo bước chân của người mẹ Tà Ôi, không gian cũng được mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Lưi (khi mẹ đi tỉa bắp) rồi đến những rừng những suối khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Và ước mơ, khát vọng của người mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng mỗi lúc một lớn dần : “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần” đến “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”... Từ mong muốn “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến “Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi” cuối cùng cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng “Mai sau con lớn làm người tự do”. Tinh thần, không khí sục sôi của đất nước trong những năm tháng đánh Mĩ đã đi vào lời hát ru của những bà mẹ. Cuộc chiến tranh nhân dân khiến cả đến những bà mẹ miền núi có con nhỏ vào cuộc chiến đấu hi sinh, gian khổ. Biết bao em bé đã “lớn trên lưng mẹ” đi “đến chiến trường” và trong số họ không ít những người đã thành những anh hùng dũng sĩ. Qua những khúc hát ru với những điệp khúc đã trở đi trở lại nhưng vẫn có sự biến hoá phát triển, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện thật sinh động, ám ảnh đầy sức mạnh nghệ thuật về tình mẹ con và khát vọng mãnh liệt độc lập tự do của toàn dân tộc

2. Bài mẫu

Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết :

Ta đi trọn kiếp con người

Vẫn chưa đi hết những lời mẹ ru

Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lượng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trưởng thành nên người. Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng xuất phát từ truyền thống này nhưng có sự sáng tạo rất mới với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.

Bài thơ được viết năm 1971 in trong tập "Đất và khát vọng". Cảm xúc bao trùm bài thơ là tình cảm chân thành của tác giả về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà Ôi với tình thương con, thương bộ đội, yêu đất nước.

Đoạn thơ mở đầu chính là lời hát ru của tác giả nói về hình ảnh mẹ giã gạo nuôi bộ đội và rất yêu thương con :

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

............................................

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời

Mở đầu là điệp khúc ngọt ngào tha thiết: Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.Tác giả vỗ về em Cu Tai ngủ bởi vì : mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội, nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng. Tiếng ru con ngủ "nghiêng" theo nhịp chày làm cho giấc ngủ của em cũng "nghiêng" theo. Con cũng đang chia sẻ theo công việc của người mẹ. Vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc kháng chiến chống Mĩ.

Đặc biệt hình ảnh mẹ được diễn tả chân thật và xúc động.

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời

Hàng loạt các hoán dụ : mồ hôi, vai, lưng, má, tim, được sử dụng rất đắt thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo. Đặc biệt là các hình ảnh "mẹ nôi đưa”. Vai mẹ là gối, lưng mẹ là nôi để con lớn lên, tim mẹ dạt dào tình mẫu tử hát thành lời. Đó là tiếng hát từ trái tim, từ cảm xúc yêu thương con và tình yêu đất nước của người mẹ.

Qua đoạn thơ thứ nhất, khúc hát ru của tác giả, ta thấy được tình cảm chân thành của người mẹ nghèo vất vả, lam lũ nhưng thương con, yêu nước. Người mẹ Tà Ôi đã trở thành biểu tượng của đất nước.

Đề 2

1. Viết về những kỉ niệm sâu sắc với bà kính yêu trong đó có sử dụng yếu tố nghị luận.

2. Từ hai câu thơ :

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng

Hãy viết một bài văn với nhan đề : Mặt trời của mẹ

1. Bài mẫu

Bố mẹ tôi đều làm ruộng nên ngày ấy nhà tôi nghèo lắm. Bấy giờ, bà nội tôi tuy tuổi đã cao, những vẫn còn khoẻ mạnh nên bà thường đỡ đần bố mẹ tôi công việc nội trợ, bếp núc. Bà tôi bảo : “Đối với con người, hạt gạo là quí giá nhất !”. Mỗi lần đong gạo từ thùng ra cái rá, bà tôi thường làm rất thong thả, cẩn thận : không bao giờ để vương vãi hạt nào ra ngoài. Một lần bà tôi bị mệt nên tôi phải lo chuyện cơm nước. Khi tôi bê cái rá gạo ra cửa, chẳng may trượt chân, nhưng vẫn gượng gạo đi, chỉ có vài ba hạt gạo văng ra ngoài. Tôi thản nhiên đi xuống bếp nấu cơm. Xong việc, tôi định bụng khoe với bà về cái sự giỏi giang của mình thì ... Tôi bỗng đứng sững... Bà tôi đang chống gậy dò đi từng bước để nhặt các hạt gạo vương vãi trên nền nhà... Tôi vội chạy lại đỡ bà, nói : “Bà ơi có mấy hạt gạo bõ bèn gì mà bà phải khổ sở thế ?”. Bà tôi thều thào : “Cháu ơi... thóc gạo là Đức Phật đấy... Không có nó thì cũng chẳng có ai hương khói nơi cửa Phật đâu...”. Lúc ấy, tôi chưa hiểu câu nói của bà lắm, nhưng bây giờ tôi đã hiểu... Suốt một đời tần tảo lam lũ, bà tôi không có gì cả đâu, ngoài những hạt thóc do chính bà làm ra bằng một nắng hai sương và cũng chính do bà xay, giã, giần, sàng.

2. Bài mẫu

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, là một tượng đài bằng thơ khắc hoạ hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng trong chống Mĩ cứu nước. Tình yêu nước thiết tha, tình mẹ con ruột thịt sâu nặng tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ và một trong những câu thơ trong đó đã làm rung động hàng triệu trái tim bạn đọc :

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”.

Điều lí thú ở đây là cách tư duy rất cụ thể của bà mẹ Tà Ôi. Trong suy nghĩ của mẹ, mặt trời là của bắp và con là mặt trời của mẹ. Những cây bắp đang lớn lên từng ngày trên nương rộng lớn kia là nhờ công sức của mẹ, nhờ có nguồn sáng, hơi ấm vô tận nhận được hàng ngày từ mặt trời tự nhiên. Còn em Cu Tai, đứa con bé bỏng, nhưng lại là nguồn sáng, nguồn năng lượng to lớn không thể thiếu được của đời mẹ. Nhờ có đứa con ngủ yên trên lưng này, mà với sức vóc dù nhỏ yếu, mẹ vẫn lao động hăng say, vẫn giã gạo, để nuôi bộ đội. Ta hiểu những hạt gạo nuôi quân trắng trong nhờ nhịp chày của mẹ đã góp phần không nhỏ vào chiến công của các chiến sĩ ngoài mặt trận. Rồi cũng nhờ có em Cu Tai ngủ ngoan không rời lưng mẹ, mà dù lưng núi thì to, lưng mẹ thì nhỏ, mẹ vẫn kiên trì gieo tỉa để những hạt bắp mọc xanh núi Ka Lưi.

Phép tu từ so sánh và tu từ ẩn dụ khiến cho hình ảnh thơ hiện lên thật giản dị mà cũng thật giàu ý nghĩa. Trên cái nền xanh của cây bắp mênh mông lưng núi ngút ngàn, lồng lộng một người mẹ lưng địu con đang lao động say sưa. Trên cao là mặt trời toả sáng, trên lưng mẹ là gương mặt đứa con cũng đang ngời sáng trong giấc ngủ say sưa.

Hình ảnh mặt trời của mẹ sẽ mãi đi vào thơ ca như biểu tượng nghệ thuật về tình mẫu tử, về người mẹ - chiến sĩ trong những tháng năm chống Mĩ cứu nước.

4. Ánh trăng của Nguyễn Duy

Đề 1

Từ bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy hãy viết về những suy tư của người lính sau chiến tranh.

Bài mẫu

Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày. Sự bận rộn hôm nay khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “Ánh trăng” cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ.

“Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ”.

Hình ảnh những đồng, sông, bể, rừng nguyên sơ, thuần hậu trong khổ thơ đầu này là nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng đường dài sống trong tình thương yêu, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê ấy, vầng trăng thành tri kỉ. Trăng như mái nhà, như người bạn thân thiết của tâm hồn. Ở đó tâm hồn tình cảm con người cũng đơn sơ thuần phác như chính thiên nhiên. Trăng và người đã tạo nên mối giao tiếp, giao hoà thủy chung tưởng như không bao giờ có thể quên được.

“Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường”.

Khi chiến tranh kết thúc. Người lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị, với ánh điện, cửa gương, những ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của trăng. Cuộc sống hiện đại với nhiều tiện nghi đã làm cho con người thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí chung một chiến hào mà trăng là biểu tượng.

“Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường”.

Từ hình ảnh vầng trăng “tri kỉ”, vầng trăng tình nghĩa trở thành người dưng qua đường, Nguyễn Duy đã diễn tả được cái đổi thay của lòng người, cái lãng quên, dửng dưng cùng thời gian “xa mặt cách lòng” đến phũ phàng. So sánh thật thấm thía: “như người dưng qua đường”.

Cũng như dòng sông có khúc phẳng lặng êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội. Cuộc đời vốn cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành của những con người từ rừng về thành phố, Nguyễn Duy đặt con người vào bối cảnh.

“Thình lình đèn điện tắt

Phòng buynh đinh tối om

Vội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn”.

Khi ánh trăng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm khắp không gian thì vầng trăng xuất hiện khiến con người ngỡ ngàng trước ánh trăng thân thương của tuổi thơ trên những nẻo đường ta sống và trong cuộc chiến gian khổ, ác liệt. Cuộc sống hiện đại làm cho lòng người thay đổi... Trước người bạn vô tình ấy, trăng chẳng nói, chẳng trách khiến người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. Ánh trăng soi chiếu khiến người ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”.

Ánh trăng trước sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn đầy một cách trong sáng, vô tư, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xưa ai đó quay lưng dù trong quá khứ vốn là tri kỉ. Nhưng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được diễn tả trong khổ thơ “vô ngôn” thể hiện sự thức tỉnh đáng quí này. Qua bài thơ, Nguyễn Duy đã khám phá ra vẻ đẹp không bao giờ kết thúc của lương tri. Dường như cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con người lãng quên ánh trăng. Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người không bao giờ ngơi nghỉ và việc hoàn thiện mình của chính mỗi con người cũng không phải một sớm một chiều.

Cuộc đấu tranh hướng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi lòng dũng cảm của con người. Người lính năm xưa đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu tranh loại bỏ sự vô tình vô nghĩa của bản thân, hướng tới sự cao cả, tốt đẹp.

“Ánh trăng” là bài thơ không quên về quá trình hướng thiện, quá trình hoàn thiện mình của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay.

Đề 2

1. Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để cảm nhận được bài học sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm.

2. Viết lời bình cho đoạn thơ sau :

Ngửa mặt lên nhìn mặt

......................................

Đủ cho ta giật mình

(Ánh trăng, Nguyễn Duy)

1. Bài mẫu

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, ... Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tư.

“Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ.

Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :

“Hồi nhỏ sống với đồng.

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ”.

Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới trở thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.

Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thương quí trọng của mình với trăng :

“Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa”.

Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên nhiên, hoà vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ.

Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” ấy :

“Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện, cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường”.

Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trường đã thay đổi. Từ hồi về thành phố đời sống cũng thay đổi theo :“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, tiện nghi, sang trọng ... dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ, cho tình bạn, tình đồng chí hình thành từ những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành “người dưng”... Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế đời vẫn thường nhắc nhau : “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương” quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đã không thèm để ý đến “Vầng trăng” - con người, mảnh đất từng là tri kỉ một thời.

Phải đến lúc toàn thành phố mất điện :

“Phòng buyn đinh tối om

Vội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn”

“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ. Khoảnh khắc ấy, phút giây ấy... người lính năm xưa mới bàng hoàng thức tỉnh. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm "Con người này" cứ “rưng rưng” nước mắt.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng..."

"... Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình...”.

Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao ! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí của nhân dân, tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm “không thể nào quên”. Tượng trưng cho "mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ”.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ ,“Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ chung khiến cho người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.

2. Bài mẫu

Hàng ngàn năm nay, vầng trăng đã hiện diện trong thơ. Trăng như một biểu tượng thơ mộng gắn với tâm hồn thi sĩ. Nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, không chỉ tìm thấy ở đấy cái thơ mộng, mà còn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Khác với những bài thơ thời chiến tranh mà con người chỉ có một lí tưởng là chiến đấu và sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc, con người không có điều kiện để sống cho những gì thuộc về riêng tư, hay chuyện đời thường. Đọc bài thơ này ta nhận ra cái điều mới lạ ấy. Bước từ chiến tranh sang thời bình, con người bắt đầu có những toan tính, những ham muốn được hưởng thụ. Nguyễn Duy mượn vầng trăng và người lính nói về một sự thay đổi trong lòng người.

Vầng trăng trong thời tuổi thơ và chiến tranh gắn bó đẹp là vậy thế mà do hoàn cảnh, con người đã lãng quên để rồi từ trong sâu thẳm tâm hồn, con người phải day dứt. Hai khổ kết bài thơ là một sự thức tỉnh, một bài học làm người.

Trăng cứ tròn vành vạnh

.....................................

Đủ cho ta giật mình

Vầng trăng vẫn đẹp và tròn đầy như biểu tượng bao dung, nghĩa tình của nhân dân không đòi hỏi được đền đáp. Nhưng trăng cũng "im phăng phắc" với ánh mắt nghiêm nghị, thái độ nghiêm khắc. Khiến tình cảm người lính trong giây lát đã lãng quên quá khứ, trong sa ngã đời sống đã tự vấn lương tâm mình, tự sám hối với lòng mình. Cái rưng rưng muốn bật khóc và cái giật mình tỉnh ngộ là tấm lòng chân thực của người lính vốn cao đẹp không thể khác.

Với ý nghĩa này, Ánh trăng mang tính chất triết lí sâu sắc, có tác dụng cảnh tỉnh những ai dễ lãng quên quá khứ tốt đẹp. Cần biết sống thủy chung, nghĩa tình.

Sau chiến tranh "Thời tôi sống biết bao câu hỏi lớn/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi". Ánh trăng của Nguyễn Duy giúp mỗi người tìm được câu trả lời thấm thía trong cái "giật mình", "rưng rưng" ấy.

5. Đồng chí của Chính Hữu

Đề 1

1. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

2. Phân tích đoạn thơ :

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)

1. Bài mẫu

Đồng chí ! Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết. Bởi đây biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật xúc động :

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá". Từ "xa lạ" gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là "đôi người xa lạ", vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. "Hai người" cụ thể quá. Đôi người là từng "đôi" một - nhiều người. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự thật. Những con người vốn xa lạ khi tham gia kháng chiến, đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là "đồng chí".

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí

Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại được tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí - một tiếng nói thiêng liêng. Đồng chí - một tiếng reo, một sự cảm kích chất chứa nhiều đổi thay trong quan hệ tình cảm.

Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày", "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay", cả chuyện "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"... Từ những tâm tình ấy, ta hiểu, các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi họ mang theo hình bóng quê hương. Các miền quê tuy khác nhau nhưng đều có những nét gần quí nhau. Các anh cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá... dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không là vật chất của cải, không là lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí "tay trong tay". Chính đôi bàn tay nắm chặt đã nói lên tất cả ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Đoạn thơ kết vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối giữa đèo núi cao. Vầng trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao. Bài thơ là niềm xúc động về tình cảm cách mạng của người lính trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống đời thường của người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Chính những nét thực đó tạo nên sự thành công của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp.

2. Bài mẫu

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca" bởi đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của thi sĩ đã để lại ấn tượng thật thú vị. Đó là những "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ trên đường ra trận thời chống Mĩ.

Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe này của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập "Vầng trăng - Quầng lửa". Hình tượng thơ hết sức độc đáo : những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối bài thơ, tác giả đưa ra một ý tưởng thật bất ngờ - đó là "trái tim cầm lái":

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : "Không có kính không phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Chiến tranh bom đạn tàn phá, xe không kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác giả một lần nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ :

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Đã không kính - gió, bụi, mưa tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại không có đèn, rồi không có mui xe thùng xe có xước. Một hình ảnh thực qua bao trận chiến. Người lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong hiểm nguy. Tất cả đều vượt qua bởi :

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ đầy giọng "ngang tàng", lạc quan chưa hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại : Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Cả nước lên đường đánh Mĩ vì Miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe... Trái tim rực lửa căm thù giặc và nóng bỏng yêu thương đồng bào Miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mĩ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc .

Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mĩ hi sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.

Chiến tranh đã lùi xa mãi mãi, nhưng những "dấu xe trên dãy Trường Sơn" của những chiếc xe độc đáo một thời góp phần làm nên kì tích trong thơ Phạm Tién Duật sẽ còn đánh thức tâm hồn chúng ta.

Đề 2

1. Phân tích tính biểu tượng của hình ảnh : "Đầu súng trăng treo" (Đồng chí - Chính Hữu) và hình ảnh "trăng" (Ánh trăng - Nguyễn Duy).

Bài mẫu

Hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.

Đầu súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng chí, cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng. Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh tưởng là đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hoà hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu, gian khổ, hi sinh là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ, thơ mộng, dịu dàng là lãng mạn. Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ, hi sinh nhưng xét về phương diện tinh thần, tình cảm thì đây chính là cuộc chiến mang vẻ đẹp của chính nghĩa, của lòng yêu nước. Súng và trăng : cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.

Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo - một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm. Tác giả đã từng nói : "Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật : Khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quện với nhau tạo ra hình ảnh đầu súng trăng treo"

Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam : Hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.

Hình ảnh trăng của Nguyễn Duy

Ánh trăng của Nguyễn Duy với hình ảnh trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng mà mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.

Hình ảnh trăng bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh. Đầy ắp những kỉ niệm về vầng trăng trải rộng trên một thiên nhiên bao la với sông, với đồng, với bể. Thời chiến tranh máu lửa vầng trăng đã thành tri kỉ với người lính. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng nghĩa tình ngỡ không bao giờ có thể quên.

Thật đáng sợ là sự thay đổi của lòng người. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sống tiện nghi : ở buyn đinh, quen ánh điện, cửa gương... Và vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay.

Bất ngờăngời gặpmột tình huống của nhịp sống thị thành : thình lình đèn điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với người. Nước mắt rưng rưng của ngưòi lính, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp. Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca, tự hào.

Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắc nhủ mình và muốn gửi gắm.

Đề 3

1. Vẻ đẹp của người lính trong khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

2. Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoan văn theo luận đề :

Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới.

1. Bài mẫu

Là người lính thuộc trung đoàn thủ đô rồi trở thành nhà thơ quân đội, Chính Hữu chủ yếu viết về người lính và hai cuộc kháng chiến. Đồng chí được sáng tác năm 1948, là bài thơ thành công nhất của ông. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những chiến sĩ quân đội nhân dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả giới thiệu về quê hương của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê - những vùng quê nghèo khó - song đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau

Cuộc sống người lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá... Lại nữa, những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng hành hạ... Vượt lên trên tất cả những khó khăn đó để "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : Người lính, khẩu súng, vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tượng trưng

Tác giả Chính Hữu đã từng nói : "Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn" Đó là hình ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ giặc tới.

Ngoài tả thực, hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân thực mà sâu sắc về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những người lính. Đó là sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ Đồng chí đặc biệt là ba câu kết như một lời nhắn nhủ với mọi người : Hãy biết nâng niu và gìn giữ những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những người lính

2. Bài mẫu

Vẻ đẹp của thời đại mới trong hình tượng thơ ở đây là tình đồng chí, đồng đội gắn với giai cấp của người lính. Cả bài thơ khai thác đời sống nội tâm, tình cảm của người lính. Vẻ đẹp của bài thơ Đồng chí là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính, nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là tình đồng chí đồng đội : "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chỉ cần thương nhau tay nắm lấy bàn tay là đủ hơi ấm để chống chọi với cái rét run người nơi đại ngàn. Những đêm rừng hoang sương muối... Trong cái cầm tay nhau ấy, hình ảnh đất nước và tinh thần đoàn kết giai cấp được diễn đạt thật cao đẹp, cô đọng và thuyết phục. Chính tình cảm cao đẹp và lí tưởng sáng ngời "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" đó mà những người lính được nâng lên tầm cao khái quát trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, trữ tình. Đầu súng trăng treo mang ý nghĩa sâu sắc cho tinh thần thời đại.

...............................

Mời các bạn xem đầy đủ nội dung Tài liệu ôn thi vào 10 môn Văn trong file tải về.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 157
Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn 2023
Chọn file tải về :
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm