Top 7 bài hoá thân Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay

Hoá thân Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Hoatieu xin chia sẻ đến bạn đọc tổng hợp bài văn mẫu hoá thân Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương, em hãy đóng vai vũ nương kể lại cuộc đời mình, hãy đóng vai Vũ Nương kể lại nỗi oan của mình... giúp người đọc nắm rõ được các nội dung chính của câu chuyện người con gái Nam Xương cũng như cuộc đời đầy oan trái và bất hạnh của nàng Vũ Nương.

Hoá thân Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

1. Dàn ý hóa thân Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

1. Mở bài:

Giới thiệu bản thân: Gia đình, ngoại hình, tính cách và hôn nhân với Trương Sinh.

2. Thân bài:

Lí do tôi kết hôn với Trương Sinh

Sự việc Trương Sinh đi lính khiến tôi buồn khổ, suy nghĩ

Buổi chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa tôi và chồng

Mẹ chồng ốm đau, bệnh tật và qua đời

Chồng tôi trở về trong nhung nhớ của cả gia đình

Sự việc khiến chồng tôi hiểu lầm tôi nhưng không cho tôi giải thích

Tôi nhảy xuống dòng Hoàng Giang sau những hiểu lầm từ chồng

Đến khi chồng tôi nhận ra mình hiểu lầm tôi thì mọi sự việc đều đã qua rồi

3. Kết bài

Cuộc đời tôi đã kết thúc nhưng có lẽ, cuộc đời ấy vẫn tiếp diễn dưới thủy cung.

2. Đóng vai Vũ Nương kể lại câu Chuyện người con gái Nam Xương

Tôi là Vũ Nương, con gái một gia đình nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ.

Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa hết mức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Sum vầy, êm đềm chẳng được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, chồng tôi tuy là còn nhà hào phú nhưng ít học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.

Ngày tiễn chồng nên đường, tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa, chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cầu áo gấm, công danh. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt.

Đương thời lúc bấy giờ tôi đang mang thai đầu, chàng đi chẳng được bao lâu tôi bèn sinh con và đặt tên con là Đản. Có con trai, tôi phần nào vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì tuổi già, lại nhớ mong con khiến bà sinh bệnh năng. Thay chồng tận hiếu tôi hết mực thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ để lại những trăn trối tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn mẹ con tôi quạnh quẽ trong căn nhà lớn.

Mừng rỡ thay, sau 3 năm thì giặc tan, chồng tôi bình yên trở về đúng như mong đợi. Khi biết tin mẹ mất, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng bái tổ tiên tạ ơn phù hộ để chồng bình an, vừa để báo cho mẹ biết để yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn viên gia đình.

Không ngờ giây phút đó chẳng có, buổi trưa khi hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời trách mắng tôi mất nết hư thân… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi cố gắng giải thích rằng thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết.

Thế nhưng, dù hết lời phân giải, làng xóm bênh vực nhưng chàng nhất mực không tin lại nặng lời đuổi tôi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực, không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.

Đứng trên bến Trường Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Ngờ đâu, Linh Phi - vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và để tôi lưu lại ở đó.

Một hôm tôi gặp Phan Lang - người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa cho chính mình, lại thương chồng con vì không ai chăm sóc. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, tôi lại mong muốn được giải oan nên tôi nhờ Phan Lang trở về với chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương lập đàn giải oan bên bờ Trường Giang.

Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Trường Giang thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi cũng có ý khuyên trở về gia đình. Đến ngày thứ ba, Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi biến mất.

Dù giải oan nhưng liệu rằng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất.

Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.

3. Hoá thân Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương, mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Tôi đã gặp và trở thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương, nhưng lại vốn tính đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi mặc dù con nhà hào phú nhưng lại ít học, vì vậy phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chàng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn.Tôi không mong chàng lập công lao cao cả để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng có thể bình an trở về. Giờ phút chia tay, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhòa lệ, lòng tái tê chua xót.

Đương thời lúc đó tôi đang mang thai, đến thời điểm, tôi sinh được một bé trai kháu khỉnh và đặt tên con là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau triền miên. Tôi đã hết lòng thuốc thang, khuyên lơn nhưng vì bệnh tình trầm trọng mẹ không qua khỏi. Tôi đã cố gắng lo ma chay chu tất cho mẹ, thay chồng làm tròn chữ hiếu.

Sau 3 năm chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh cũng bình an trở về. Tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận.

Lúc bấy giờ, bé Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con ra thăm mộ mẹ. Đến trưa trở về, chẳng hiểu vì cơ sự nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đã quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng hết lời can ngăn, giãi bày hộ tôi nhưng chẳng tiếng nào lọt tai chàng.

Tủi nhục cùng đau xót làm sao, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.

Nỗi oan chẳng thấu, lại mang tiếng thất tiết phụ chồng làm sao gột rửa đây? Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới chứng minh sự trong sạch của mình.

Tôi chạy ra bến Trường Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng mình bạc mệnh, duyên phận cũng hết, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con. Nói xong tôi liền gieo mình xuống sông.

Ngờ đâu, nỗi oan của tôi động lòng chư tiên cứu vớt, rẽ nước cho xuống thủy cung. Tuy cuộc sống giờ đây sung sướng, nhàn hạ chốn nhưng nỗi nhớ thương chồng con da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp.

Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân đã cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc thì tôi ngạc nhiên vì người đó chính là Phan Lang - người cùng làng với tôi. Ông nhận ra tôi và kể lại cho tôi biết cuộc sống hiện tại của gia đình tôi. Ông nói rằng chồng tôi đã biết rằng đã trách oan tôi, vô cùng ân hận, ông cũng khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng và dặn ông nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông thì tôi sẽ vẽ. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Trường Giang.

Khi thấy được chồng con tôi thật nghĩ rằng mình muốn trở lại trần gian nhưng liệu rằng cuộc sống vợ chồng có còn được lại như xưa, xã hội này có vì thế mà có thay đổi? Đứng ở giữa dòng trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: ”Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi đã không trở về trần gian được nữa! Tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.

4. Hãy đóng vai Vũ Nương kể lại nỗi oan của mình

Chàng Trương Sinh vốn là người cùng làng với tôi. Bởi cảm mến, chàng đã đem lòng thương yêu và cùng tôi kết tóc xe duyên, hứa hẹn sẽ cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Biết tính chàng hay ghen nên tôi cũng cố gắng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

Năm ấy, quân giặc quấy nhiễu biên cương, chàng tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào đầu. Trước khi ra đi mẹ chàng dặn dò cặn kẽ mọi việc. Vào thời binh đao loạn lạc này, mẹ chỉ mong chàng giữ gìn thân mình, phải toan tính kĩ rồi hãy làm, gặp khó nên lui. Tôi rót chén rượu đầy cho tiễn chồng mà trong lòng rối bời, não nề khi nghĩ đến sự khó nhọc, những gian nguy mà chàng sắp gặp phải. Tôi chẳng dám mong đem được ấn phong hầu, chẳng cần chàng” mặc áo gấm trở về quê cũ”. Tôi chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ. Lúc bấy giờ, tôi đang mang trong mình giọt máu của chàng. Sau khi xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản.

Thời gian cứ trôi đi, chẳng đợi chờ ai và chưa bao giờ cảm thương cho ai bao giờ. Khoảng nửa năm sau khi Trương lang tòng quân xa nhà, vì thương con quá mức, một phần vì tuổi già sức yếu, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng. Biết mẹ già không vững được bao lâu nữa, tôi vô cùng thương xót, ngày đêm lễ bái thần phật, chăm chút thuốc men, luôn an ủi và động viên mẹ. Nhưng vận trời khó tránh, sức cùng lực kiệt, bà đã giã từ cuộc sống. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà còn gửi lời tha thiết mong nhớ con và cảm ơn tôi trong những ngày qua đã làm tốt bổn phận của mình.

Tôi vô cùng đau đớn tột cùng, vừa thương, vừa xót. Sau đó, tôi hết sức lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Từ khi ấy, tôi đã hứa với lòng: phải cố gắng chăm sóc, nuôi dạy con thơ, luôn trọn dành tình yêu của mình cho chồng nơi xa xôi. Cho đến tận năm sau, bọn giặc đầu hàng rút quân khỏi bờ cõi đất nước, cuộc sống nhân dân lại được yên bình, chàng cũng được trở về quê cũ.

Lúc bấy giờ, Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con đến viếng mộ mẹ. Đến trưa, lúc về từ mộ mẹ trở về, chẳng hiểu vì cớ nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đến tôi mà la um lên, quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi thậm tệ. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng, vội đến can ngăn, giãi bày, chàng cũng không nghe.

Tôi hết sức buồn tủi cho chính mình. Chẳng biết phải làm thế nào, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.

Chàng càng lúc càng nóng, trút hết đòn roi lên thiếp, rồi đuổi tôi đi. Đất trời cao rộng nhưng tôi biết đi đâu. Lại mang tiếng thất tiết phụ chồng, nỗi oan tày trời này sao gột rửa được. Nước mắt chảy cạn mà lòng chàng vẫn còn cố chấp. Tình nghĩa bao năm giờ vơi cạn gần hết. Xót con còn bé bỏng, lại thêm thân mình phải chịu tiếng nhuốc nhơ, tôi quyết quyên sinh để chứng minh mình trong sạch.

Bất đắc dĩ, thiếp đành đoạn tuyệt tình nghĩa vợ chồng với chàng, tắm gội chay sạch, tiện thiếp chạy ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ.Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”. Nói xong, tôi gieo mình xuống sông sâu, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con.

Nào ngờ, Linh Phi động lòng đã cứu vớt tôi. Khi tỉnh lại, tôi đã thấy mình nằm trong “cung cấm đền dao” của Người rồi. Tuy sống sung sướng, nhàn hạ chốn “làng mây cung nước” nhưng nỗi nhớ thương gia đình da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp. Linh Phi cũng an ủi và cảm thông khiến lòng tôi phần nào bớt đau khổ.

Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc ở gác Triêu Dương, tôi ngạc nhiên vì người đàn ông chính là Phan Lang, người cùng làng với tôi ở Nam Xương. Khi mới gặp lại, có lẽ ông ấy không nhận ra tôi, nhưng sau khi nghe tôi giãi bày, ông Phan khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng cho chàng Trương Sinh và dặn Phan nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa với tôi thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang.

Đứng ở giữa dòng, tôi ngôi trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi sẽ dừng chân ở chốn làn mây cung nước này, mãi mãi chôn vùi cuộc đời ở nơi đây, không trở về trần gian nữa vì tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.

5. Vào vai Vũ Nương kể chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn

Tôi là Vũ Nương, quê gốc ở Nam Xương, nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam bây giờ. Dù hiện tại tôi sống trong vinh hoa phú quý dưới thủy cung, trường thọ cùng đất trời nhưng tôi không bao giờ quên nỗi đau đớn trong cuộc đời khi bị chính người chồng của mình vu oan. Dù đã được minh oan nhưng nỗi đau ấy vẫn bám lấy tôi dai dẳng. Câu chuyện ấy như sau:

Tôi và chàng Trương nên duyên vợ chồng vì anh ấy mang trăm lạng vàng hỏi cưới tôi về. Nên vợ nên chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Trước khi chàng đi, tôi dặn dò mong chàng trở về bình an là đủ, không cần phải mang về vinh hoa phú quý. Tôi tiễn biệt chàng đi mà lòng đau như cắt, lo lắng cho chàng nơi hòn tên mũi đạn xa xôi, cầu nguyện cho chàng bình an trở về. Tôi ở nhà, chăn đơn gối chiếc, chăm sóc cho mẹ chồng và sinh được một đứa con trai, đặt tên là Đản. Mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai lại thêm tuổi cao sức yếu nên ốm nặng, không qua khỏi. Tôi đã lo ma chay tươm tất cho bà như đối với cha mẹ ruột của mình. Nhà cửa chỉ còn hai mẹ con tôi. Vì con còn nhỏ mà đã phải chịu cảnh không có cha nên tôi vẫn thường hay chỉ bóng của mình trên vách bảo đó là cha con đấy. Năm tháng cứ bình yên trôi qua cho đến khi chồng tôi trở về. Nhận được tin mẹ mất, chàng vô cùng đau xót, muốn bế con trai đi thăm mộ mình nhưng thằng bé không chịu nghe. Sau này tôi mới biết là do nó không nhận cha nó, nó bảo là cha nó là người đàn ông đêm nào cũng đến, thấy tôi đi cũng đi, tôi ngồi cũng ngồi nhưng không bao giờ chịu bế Đản cả. Mọi chuyện sẽ dễ dàng nếu như Trương Sinh cho tôi cơ hội giải thích rằng đó là chiếc bóng của tôi. Đằng này, chàng nhất định không nghe tôi nói, nằng nặc nghi oan tôi không chung thủy, đánh và đuổi tôi đi. Lòng tôi lúc đó đau như cắt từng khúc ruột, cảm thấy như một vết nhơ trên cuộc đời mình mà không thể nào gột rửa được. Tôi hổ thẹn với đất trời, tôi đã không còn nơi nương thân. Sau cùng, tôi thề nguyền và gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, chết một cách oan khuất. Chứng kiến cho lời thề của tôi nên sau khi rơi xuống sông Hoàng Giang, tôi đã trở thành tiên nữ và được hậu đãi ân tình. Một thời gian sau, có người làng tôi là Phan Lang chết đuối được Linh Phi cứu giúp. Nhân dịp Phan về quê cũ, tôi đã đưa chiếc trâm làm tin, nhờ hắn chuyển cho Trương Sinh. Bấy giờ, chàng mới hiểu thấu được mọi chuyện, lập đàn giải oan bên sông cho tôi. Tôi chỉ hiện lên nói lời cảm tạ rồi biến mất. Nỗi đau oan khuất của tôi cũng được nguôi ngoai phần nào, dù sao tôi cũng chẳng thể trở về dương gian được nữa rồi.

Trên đây là câu chuyện của tôi, tôi thương xót cho chàng Trương giờ phải chịu cảnh nuôi con một mình, thương xót cho con tôi lớn lên không mẹ và cũng thương cho chính mình phải chịu cái chết đau đớn này.

6. Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương chi tiết

Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, được mọi người yêu quý mà gọi cho cái tên Vũ Nương. Sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy nhưng lại được cha mẹ dạy bảo ân cần từ nhỏ, hiểu được lễ nghĩa, bởi lẽ đó mà mọi người trong làng hay khen tôi có tính tình nết na và thùy mị. Lại được ơn trời cho thêm tư dung tốt đẹp. Nên đến tuổi mười tám, một độ tuổi mà người đời xem là độ tuổi rực rỡ nhất của người con gái, tôi được Trương Sinh, là một chàng trai trong làng mến mộ chắc có lẽ là vì dung hạnh nên đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng mà cưới tôi về. Ngày ấy, tôi vốn biết chồng mình có tính đa nghi, hay ghen, đối với tôi lại phòng ngừa quá sức, nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa từng để lần nào vợ chồng phải dẫn đến thất hòa.

Cuộc sống bình yên chẳng được bao lâu thì giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi đất nước, chồng tôi tuy là con nhà hào phú nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Chiến tranh chắc chắn sẽ có chia ly, có mất mát và cả đau thương, vì lẽ đó mà tôi và mẹ chồng đã buồn biết bao nhiêu, buổi tiễn đưa đến, mẹ dặn dò chàng phải biết tự chăm sóc bản thân, giữ gìn sức khỏe và cẩn thận, bởi trên chiến trường đao kiếm nào có mắt. Còn tôi thì không biết gì hơn, chỉ rót chén rượu đầy tiễn chồng, mong chồng sẽ trở về được bình yên, chẳng mong tước vị phải cao sang quyền quý. Một buổi đưa tiễn đầy xúc động, mắt ai cũng nhòe đi bởi giọt lệ, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san.

Sau khi chồng đi được khoản mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình nuôi dạy và chăm sóc con, cũng nhờ có bé Đản nên tôi cũng vơi đi được phần nào nỗi cô đơn nhớ mong chồng trong lòng. Ngày qua tháng lại, thoắt cái đã nửa năm trôi qua, nỗi buồn trong lòng vẫn chẳng thể nào vơi bớt đi. Mẹ chồng tôi lại vì quá nhớ thương con trai mà ngã bệnh, tôi cố hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mong mẹ ăn được miếng cơm, miếng cháo để mau chóng khỏe lại. Song vì tuổi già bệnh nặng mà mẹ đã không qua nổi, trước lúc mất bà còn trăn trối rằng:

“Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”

Tôi đau lòng thương xót, lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Kể từ đó chỉ còn có tôi cùng bé Đản, nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho đứa con bé nhỏ không có cha bên cạnh, tôi thường trỏ bóng mình trên tường vào mỗi tối rồi bảo với con là “cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản còn nhỏ nên ngây ngô tưởng thật, thường vui đùa cùng chiếc bóng.

Qua năm sau, giặc tan đất nước được yên bình, việc quân kết thúc. Chồng tôi may mắn trở về bình yên như mong đợi, hạnh phúc như vỡ òa trong một khoảnh khắc, tuy vậy khi biết được tin mẹ mất, chồng tôi đã rất buồn, chàng hỏi mộ mẹ rồi bế đứa con bé nhỏ đi thăm. Chẳng biết trên đường đã xảy ra chuyện gì nhưng khi về tâm trạng của chàng lại xấu vô cùng, sau đó chàng nặng lời với tôi, trách tôi sao hư thân mất nết, làm chuyện trái đạo lý... Tôi đến cùng không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc và tủi thân. Dùng hết lời để giải thích, hỏi chàng chuyện kia là ai nói nhưng chàng lại giấu mà không trả lời. Tôi vốn biết thân phận mình là con kẻ khó, nương tựa được nhà giàu, chưa từng có suy nghĩ trái đạo lý như vậy. Nhưng nay điều đâu bay buộc, tai họa ập đến. Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi đối với chàng lại chẳng có một lời đáng tin, tuy vậy họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Khiến tôi chẳng thể thanh minh thêm được một lời nào.

Chàng vì nhất thời ghen tuông mà nóng vội đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Danh dự của bản thân bị bôi nhọ, giấc mơ một gia đình hạnh phúc cũng từ đây tan vỡ, tuyệt vọng đến tột cùng tôi chỉ biết tìm đến con đường tự vẫn để chứng minh mình trong sạch. Tắm rửa chay sạch, tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho tấm lòng thủy chung của bản thân, xong gieo mình xuống dòng nước lạnh lẽo. Ắt có lẽ vì thấu được nỗi oan của tôi mà thương tôi vô tội, các nàng tiên trong cung nước đã rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá cả rồi. Nơi đây là chốn cung điện của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải, người vô cùng nhân hậu và tốt bụng. Một hôm Linh Phi có tổ chức một yến tiệc để thiết đãi ân nhân của mình thuở trước, lại càng không ngờ đến đó là Phan Lang – người cùng làng với tôi lúc tôi còn ở trần thế. Gặp lại được nhau, chúng tôi đã nhắc lại vài chuyện cũ, cũng nhờ vì vậy mà tôi biết được chồng mình đã thấu rõ được nỗi oan của bản thân, bởi vì lúc chàng bế đứa con bé bỏng ngồi bên ngọn đèn dầu, thì con trỏ bóng nhận cha. Cuộc đời vốn đã vô tình đến thế, có những chuyện xảy ra lại khiến ta không ngờ đến nhất.

Nghe Phan Lang kể, tôi cũng thấy xót xa vì cảnh nhà tiêu điều, chồng con không ai chăm sóc. Cảm thấy bản thân sao lại hồ đồ đến vậy, chưa gì đã vội vàng kết thúc sinh mệnh của mình. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi nghĩ bản thân nào còn mặt mũi để gặp lại người xưa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi cũng muốn quay về để nói lời từ biệt, vì vậy lúc Phan Lang trở về trần thế, tôi đã gửi nhờ một chiếc hoa vàng mà dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”

Mấy ngày hôm sau Trương Sinh quả thật có lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang, cảm nhận được sự chân thành và hối lỗi của chồng tôi, Linh Phi có ý muốn giúp đỡ tôi quay trở về. Cho nên đến ngày thứ ba, tôi lúc ẩn lúc hiện cùng năm mươi chiếc kiệu hoa, võng lọng mà Linh Phi ban cho. Tôi vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất mãi mãi. Bởi lẽ nơi chốn trần gian nào có chuyện người chết sống lại, cũng một phần vì tôi muốn ở lại để báo đáp ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Sau đó tôi liền trở về thủy cung, không một lần trở lại.

Câu chuyện của gia đình tôi là một câu chuyện buồn, chẳng có một hạnh phúc trọn vẹn. Cũng bởi xã hội xưa khiến phụ nữ phải chịu nhiều sự phán xét, không có tiếng nói trong cuộc đời đầy gian khổ của bản thân. Mong là từ câu chuyện của tôi, mọi người sẽ rút ra được kinh nghiệm đó là hạnh phúc của gia đình phải cần cả hai vợ chồng cùng vun đắp mới có thể dài lâu, đừng vì cảm xúc hay cái tôi của bản thân quá lớn mà ích kỷ làm trong tình cảnh của gia đình trở nên tan vỡ. Bởi vì hạnh phúc chính là được xây dựng trên cơ sở tin yêu và tôn trọng lẫn nhau.

7. Đóng vai Vũ Nương kể lại câu chuyện ngắn gọn

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi là Vũ Nương. Mọi người nhận xét nhan sắc tôi cũng thuộc hàng mỹ nhân. Tôi vốn được cha mẹ dạy dỗ đàng hoàng. Đến tuổi lấy chồng, tôi được Trương Sinh cưới về làm vợ. Cưới nhau chưa được bao lâu thì chồng tôi phải đi lính. Ngày tiễn chồng tôi dặn dò đủ thứ, tôi không mong chức quan hầu mà chỉ mong hai chữ bình yên.

Chồng đi tôi ở nhà chăm mẹ chồng và con thơ, quán xuyến gia đình. Tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép. Thời gian trôi qua mẹ tôi đã không qua nổi vì tuổi già cũng như thương nhớ con. Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỉ lên bóng của mình trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đảm lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Thời gian thấm thoát trôi qua chồng tôi an lành trở về. Biết tin mẹ mất chồng tôi rất buồn và bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng. Những tưởng được hạnh phúc nào ngờ tai họa ập đến xuống đầu tôi. Chàng nghi cho tôi thất tiết, không giữ gìn khuôn phép. Tôi đã cố gắng giải thích và phân giải nhưng chồng tôi nhất quyết không nghe và đuổi tôi ra khỏi nhà. Danh dự bị bôi nhọ tôi chỉ biết tìm đến cái chết dưới bến Trường Giang. Nhưng rồi chắc trời thương nên đã để Linh Phi cứu giúp tôi, đưa tôi ở lại thủy cung. Không ngờ thời gian sau tôi gặp Phan Lang – người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con chỉ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Tôi đã nhờ Phan Lang nhắn nhủ đến chồng tôi. Chàng làm theo lời tôi, lập đàn giải oan ở bến sông Trường Giang, tôi hiện về chỉ biết cảm tạ tình chàng và biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.

Tôi hy vọng đây sẽ là bài học lớn cho tất cả mọi người cần tin yêu tôn trọng lẫn nhau vì hạnh phúc gia đình.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
6 18.626
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo