Đọc hiểu Nghèo Nam Cao

Đọc hiểu văn bản Nghèo

Nghèo là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao. Nghèo kể về cuộc sống của gia đình anh đĩ Chuột – một gia đình nông dân Việt Nam giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Tác phẩm Nghèo của Nam Cao cho chúng ta thấy một bức tranh hiện thực về sự đói nghèo và số phận của người dân bị áp bức dưới chế độ phong kiến. Sau đây là mẫu đề đọc hiểu văn bản Nghèo  có đáp án, mời các bạn cùng tham khảo.

Đọc hiểu tác phẩm Nghèo trắc nghiệm

Đọc văn bản sau:

Thấy mẹ gắt, thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nhăn nhó bịu xịu như muốn khóc. Chị đĩ Chuột thương hại, dịu dàng bảo:

- Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về mà ăn... chóng ngoan rồi bu thương.

Nhưng nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi, còn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp...

- Sắp chín chưa, bu?

Quay ra vẫn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết lả, chị Chuột chép miệng:

- Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng mày ăn không có chúng mày làm tội cũng chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo...

Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt. Chị đĩ Chuột phải đưa tay cản nó lại, sợ nó sà vào mà bị bỏng. Chị bảo nó:

- Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không có phải tội chết, nó làm quần quật từ sáng tới giờ mà chưa được tí gì vào bụng.

Không đợi đến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về, lôi thôi lếch thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa đến bếp nó đã reo lên:

- Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ! Có ngọt không bu? Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế?

Chị Chuột mắng yêu con:

- Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê, chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.

Rồi chị bảo thằng cu Bé:

- Bé lại đây, bu cho ăn.

Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon quá”. Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã oẹ một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa.

- Sao thế?

Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng chè nữa ăn thử lại:

- Nhạt quá, bu ạ.

Chị Chuột mắng con:

- Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.

Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại oẹ ra, và khóc oà lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bùng như người ngã nước. Cái Gái lấy ngón tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:

- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo chè!

Nhưng mẹ nó đưa mắt nhìn nó, lấy ngón tay chỉ ra phía nhà ngoài nói khẽ, nhưng hơi gắt:

- Khe khẽ cái mồm một tí! Réo mãi lên, thằng bố mày nó nghe thì nó chết. Nó đã ốm nằm đấy, thuốc không có, mà còn bực mình thì nó chết.

Rồi hai mẹ con lẳng lặng ăn, cố nuốt những bát cám đặc khè cho đỡ đói. Thằng cu nhất định không chịu ăn, ngồi khóc ti tỉ đòi cơm. Chị đĩ Chuột đành dỗ nó:

- Thôi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn.

Chị bế con rón rén bước vào chỗ chõng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt. Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng mặt quay ra. Một làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại:

- Nó làm sao thế?

Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:

- Nó vòi đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ không chịu ăn, đòi ăn cơm trắng của thầy cơ.

- Thì lấy cho nó ăn, tôi ăn làm sao hết?

Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho con một ít. Nhưng anh bảo:

- Mang cả ra cho nó ăn, tôi không ăn nữa đâu. Còn bao nhiêu vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để nó thiu ra đấy.

Chị đĩ Chuột cười, bảo chồng:

- Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa?

Anh biết vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thôi, buồn rầu buông một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:

- Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông thầy lang lấy thuốc.

- Tiền đâu mà thuốc thang mãi?

- Tôi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn hào.

Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:

- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm”.

(Trích Nghèo – Tuyển tập Nam Cao, NXB Hội nhà văn, 1993)

Lựa chọn đáp án đúng:

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?

A. Sử thi

B. Truyện thần thoại

C. Truyện cổ tích

D. Truyện ngắn

Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là?

A. Tự sự

B. Biểu cảm

C. Miêu tả

D. Thuyết minh

Câu 3. Văn bản trên được kể theo ngôi kể nào?

A. Ngôi thứ nhất

B. Ngôi thứ hai

C. Ngôi thứ ba

D. Cả A và B

Câu 4. Ý nào đúng khi nói về điểm nhìn trong truyện?

A. Chủ yếu là điểm nhìn của người kể chuyện.

B. Chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật.

C. Chủ yếu chuyển từ điểm nhìn của người kể chuyện sang chị đĩ Chuột.

D. Chủ yếu chuyển từ điểm nhìn của người kể chuyện sang anh đĩ Chuột.

Câu 5. Nội dung chính của văn bản trên là gì?

A. Phản ánh nỗi khổ của gia đình chị đĩ Chuột.

B. Phản ánh sự nghèo khổ của gia đình chị đĩ Chuột và tình thương con của người mẹ nghèo.

C. Phản ánh hiện thực cuộc sống của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.

D. Hiện thực cuộc sống của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nam Cao.

Câu 6. Nhân vật chị đĩ Chuột hiện lên qua tác phẩm là một người như thế nào?

A. Một người mẹ không lo nổi bữa ăn cho các con.

B. Một người vợ không biết chăm sóc thuốc thang cho chồng.

C. Một người phụ nữ thấu hiểu hoàn cảnh và biết lo toan cho gia đình.

D. Một người mẹ vì con có thể đánh đổi mọi thứ.

Câu 7. Ý nào không đúng khi nói về ẩn ý câu nói của anh đĩ Chuột “- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm.”?

A. Muốn làm yên lòng vợ con.

B. Muốn vợ quan tâm hơn vì người ốm dễ nhạt miệng.

C. Nỗi khổ tâm của một người chồng khi không làm được gì cho vợ con.

D. Đưa câu chuyện bước sang một hướng khác.

Trả lời câu hỏi:

Câu 8: Chi tiết nào trong văn bản khiến em ấn tượng nhất? Vì sao?

- Chọn 1 chi tiết đặc sắc trong đoạn trích.

- Lí giải nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của chi tiết ấy.

Câu 9: Nếu em là cái Gái, trong hoàn cảnh gia đình như vậy, em sẽ làm gì?

- Động viên mẹ.

- Chăm chỉ học tập.

- Làm việc giúp đỡ mẹ.

...

Câu 10: Qua văn bản, hãy viết đoạn văn ngắn (7 – 10 dòng) trình bày suy nghĩ về hình ảnh người nông dân Việt Nam trước CM tháng 8 năm 1945.

Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:

* Hình thức: Đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, trôi chảy.

* Nội dung: Suy nghĩ về hình ảnh người nông dân Việt Nam trước CM tháng 8:

- Số phận: Nghèo khổ, cơ cực.

- Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn:

+ Chân thật.

+ Luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

+ Luôn khát khao cuộc sống no đủ và một tương lai tươi sáng hơn.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 4.350
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm