Đọc hiểu Một bữa no có đáp án

Một bữa no là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao. Thông qua tác phẩm, Nam Cao đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những sự khổ cực của người nông dân trước cách mạng tháng 8. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến bạn đọc tổng hợp bộ đề đọc hiểu Một bữa no của Nam Cao giúp các em học sinh hiểu rõ hơn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Mời các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa? để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu nhé.

Nam Cao là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Các đề tài khai thác chính của ông là về tầng lớp người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo. Một trong số các tác phẩm về đề tài người nông dân chính là Một bữa no. Tác phẩm Một bữa no chính là một bức tranh chân thực phản ánh rõ nhất nỗi khổ cùng cực của người nông dân lúc bấy giờ. Dưới đây là tổng hợp các mẫu đề đọc hiểu truyện ngắn Một bữa no của nhà văn Nam Cao sẽ giúp các em hiểu rõ hơn nội dung chính của tác phẩm.

Trắc nghiệm Một bữa no

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Trắc nghiệm)

… Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:

- Mời bà phó…

Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:

- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!

Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:

- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!

Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, làm gì hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy? Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:

- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.

Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:

- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!

À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:

- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?

- Không, mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?

Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…

Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:

- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!… (Trích “Một bữa no” -1943 - Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao).

Nam Cao (1917 - 1951) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?

A. Tự sự

B. Miêu tả

C. Nghị luận

D.Thuyết minh

Câu 2: Xác định thể loại của văn bản trên.

A. Tiểu thuyết

B. Kịch

C. Truyện ngắn

D. Truyền kì.

Câu 3: Xác định nhân vật chính trong văn bản.

A. Cái đĩ

B. Bà phó Thụ

C. Bà lão

D. Lũ con ở

Câu 4: Câu văn “Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái.”có sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?

A. Ẩn dụ

B.Hoán dụ

C.Điệp từ

D.So sánh

Câu 5: Qua đoạn trích, ta thấy hoàn cảnh sống của người nông dân lúc bấy giờ:

A. Sung sướng

B. Đói khổ, khốn cùng.

C. Nhàn nhã

D. Đủ ăn

Câu 6: Nó không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì? Nó ở đây là chỉ nhận vật nào?

A. Cái đĩ

B. Bà phó Thụ

C. Bà lão

D. Lũ con ở

Câu 7: Câu nói của sau của bà phó có hàm ý gì?

Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!

A. Khuyên lũ con ở nên ăn nhiều

B. Cảnh báo lũ con ở nếu ăn nhiều sẽ bị chết như bà lão

C.Thể hiện lòng thương xót bà lão

D.Vui mừng vì cái chết của bà lão.

Câu 8: Xác định ngôi kể trong đoạn trích?

Ngôi kể thứ 3.

Câu 9: Qua các lời thoại sau, hãy nhận xét tính cách của bà phó Thụ?

- Không, mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?

- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…

Qua lời thoại trên ta thấy được bà phó Thụ là một con người lạnh lùng, keo kiệt, hách dịch. Thông qua đó, tác giả cũng phản ánh sự tàn nhẫn, độc ác của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam.

Câu 10: Từ cái chết của bà lão, tác giả Nam Cao muốn nhắn gửi thông điệp gì?

Từ cái chết của nhân vật bà lão trong tác phẩm Một bữa no, tác giả thể hiện sự đồng cảm, xót thương đối với số phận người nông dân Việt Nam trước CMT8. Qua đó, lên án, tố cáo giai cấp thống trị đã dồn người nông dân vào bước đường cùng.

Đọc hiểu văn bản Một bữa no

Học sinh đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

MỘT BỮA NO

Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, ti tỉ giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi.

[...]

Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.

[…] Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.

Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghỉ. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.

[...] Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hằm hằm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:

- Mời bà phó...

Nhưng bà vừa mới hả mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:

- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!

Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quả. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:

- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!

Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy.

[…] Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì.

Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:

- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?

- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?

Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm.

Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!

Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.

Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:

- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào! ...

(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)

*Chú thích:

Nhà văn Nam Cao tên thật là Nguyễn Hữu Tri sinh ngày 20/10/1915, quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay.

Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất bản thời đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây là thời điểm trước cách mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, không ngừng chịu sự hoành hành của giặc ngoại xâm ta còn phải chịu nạn giặc đói và giặc dốt.

Câu 1: Chỉ ra nhân vật trung tâm trong truyện?

A. Bà cụ.

B. Cái đĩ.

C. Bà phó Thụ.

D. Bà cụ, bà phó Thụ, cái đĩ.

Câu 2: Tình cảnh nào khiến bà cụ phải đi ăn chực?

A. Bà cụ sống một mình không ai giúp đỡ.

B. Bà cụ già yếu không có sức để đi làm kiếm tiền.

C. Bà cụ nghèo khổ không có tiền để mua cái ăn.

D. Bà cụ đã nhịn đói nhiều ngày.

Câu 3: Có mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”?

A. 1 từ láy.

B. 2 từ láy.

C. 3 từ láy.

D. 4 từ láy.

Câu 4: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

A. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão.

B. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão.

C. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

D. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

Câu 5: Hai câu văn “Rồi bà thổ. Rồi bà tả” thuộc kiểu câu gì về cấu tạo ngữ pháp?

A. Câu ghép.

B. Câu đơn.

C. Câu đơn đặc biệt.

D. Điệp câu.

Câu 6 : Thái độ của bà phó Thụ trong tác phẩm với bà cụ thể hiện rõ nhất điều gì?

A. Sự khó chịu, khinh thường bà cụ

B. Sự ích kỷ, vô tình của người giàu

C. Tình trạng thê thảm của người nông dân nghèo

D. Sự tiếc của, thù hằn của bà phó Thụ

Câu 7: Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều gì ở người nông dân?

A. Điều quan trọng nhất đối với người nông dân là được ăn no.

B. Người nông dân nghèo nên không cần sĩ diện.

C. Người nông dân bị tha hóa, đánh mất sĩ diện do hoàn cảnh đói khổ.

D. Cuộc sống bế tắc của người nông dân, đói cũng chết, no cũng chết.

Câu 8: Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của bà phó Thụ ở cuối truyện?

Câu 9: Tác giả thể hiện tình cảm gì dành cho nhân vật bà cụ trong tác phẩm?

Câu 10: Theo em nhân vật bà lão trong truyện đáng thương hay đáng trách? Vì sao?

Đáp án

Phần

Câu

Nội dung

I

ĐỌC HIỂU

1

A

2

D

3

C

4

C

5

C

6

C

7

C

8

- Câu nói của bà mỉa mai, đay đả và coi thường người nghèo.

- Qua đó cho thấy suy nghĩ của NC: xót thương, đau đớn cho người nghèo khổ.

Hướng dẫn chấm:

- Học sinh trả lời tương đương như đáp án: 0.5 điểm.

- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm

- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm.

* Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được.

9

- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho bà cụ vì đói khát mà trở nên khốn khổ.

- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho nỗi khổ của người lao động trong xã hội cũ.

Hướng dẫn chấm:

- Học sinh trả lời tương đương như đáp án: 0.5 điểm.

- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm

- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm.

* Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được.

10

HS có thể trả lời

- Đáng trách:

Vì miếng ăn mà đánh mất đi tự trọng, sĩ diện.

- Đáng thương:

Cuộc đời khốn khổ, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng; chết đau đớn vì miếng ăn.

- Vừa đáng thương vừa đáng trách: kết hợp cả 2 cách lí giải trên.

Hướng dẫn chấm:

- Học sinh trả lời 1 trong 3 hướng như đáp án, có lý giải: 0.5 điểm.

- Học sinh chỉ nêu tình cảm, thái độ không lí giải: 0,25 điểm.

- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm.

* Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được.

Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 1

Đọc hiểu Một bữa no

Đọc đoạn trích:

Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ đưọc một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi. Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu!

Chồng chết vừa mới xong tang, nó đã vội vàng đi lấy chồng ngay, nó đem đứa con gái lên năm giả lại bà. Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu, mà nào được trông mong gì?

Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.

(Trích Một bữa no, Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại,1943)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích? Ngôi kể của văn bản?

Câu 2: Nhân vật chính trong văn bản là ai?

Câu 3. Trong đoạn trích, hoàn cảnh của bà lão được miêu tả qua những chi tiết nào?

Câu 4. Nêu tâm trạng của bà lão khi mà ông trời “còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh” trong đoạn trích.

Câu 5. Anh/chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam Cao.

Câu 6: Cảm nhận của em về bà lão trng văn bản.

Gợi ý

Câu 1:

Các phương thức biểu đạt sử dụng trong đoạn trích: tự sự, miêu tả & biểu cảm.

Ngôi kể thứ 3

Câu 2:

Nhân vật chính trong văn bản là bà lão

Câu 3: Hoàn cảnh của bà lão được miêu tả qua những chi tiết:

  • Chồng chết khi con bà lọt lòng, thắt lưng buộc bụng nuôi con nhưng con chết trước mình.
  • Phải nuôi đứa cháu của con trai mình với người vợ vô ơn một mình.
  • Không trông cậy được gì con cháu, một thân một mình già nua nuôi cháu gái.

Câu 4: Tâm trạng của bà lão khi ông trời “còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh” trong đoạn trích:

"Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ". Nỗi lo lắng, sợ hãi cứ bủa vây trong tâm trí bà

Câu 5:

Có thể nói rằng nhà Văn Nam cao là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nam Cao có những phát hiện tinh tế, những miêu tả và nhận xét xác đáng mặc dù chỉ qua những chi tiết rất nhỏ. Ngòi bút của Nam Cao đã đi sâu vào những ngõ ngách sâu kín của tâm hồn, của những diễn biến tâm lí phức tạp.

Câu 6:

Có thể thấy rằng trong tác phẩm "Một Bữa No", Nam Cao đã xây dựng nhân vật người bà luôn gặp những vận rủi trong cuộc sống. Đó là kiếp sống khốn khổ, đắm chìm trong sự tăm tối. Bà sớm góa bụa, một mình gà mái nuôi con nhưng niềm ni vọng duy nhất ấy cũng sớm vụt tắt. Đứa con mà bấy lâu bà chăm lo cũng vội vàng bỏ lại bà mà ra đi. Tưởng như sự đau khổ chỉ dừng tới thế nhưng dường như định mệnh vẫn không buông tha cho bà. Cuộc sống của người đàn bà ấy khốn khổ vô cùng. Qua đó ta thấy được sự xót xa, thương cảm của nhà văn Nam Cao và chính độc giả về kiếp người ấy.

Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 2

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi:

“Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi...”

(Trích Một bữa no, Nam Cao, “Tuyển tập Nam Cao tập I”, NXB Văn học 1993)

Câu 1: (0.5 điểm) Phương thức biểu đạt chính của trích đoạn nêu trên là gì?

Câu 2: (0.5 điểm) Nêu nội dung chính của đoạn trích?

Câu 3: (1.0 điểm) Em hãy tìm một trường từ vựng có trong đoạn trích nêu trên. Hãy đặt tên cho trường từ vựng mà em đã tìm được?

Câu 4: (1.0 điểm) Kể tên một văn bản em đã học trong chương trình Ngữ văn 8 nói về số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8; cho biết tên tác giả, năm sáng tác và thể loại của văn bản em vừa kể tên?

Câu 5: (2.0 điểm) Từ nội dung đoạn trích trên kết hợp với sự hiểu biết của em về một số văn bản đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 8, em hãy nêu suy nghĩ của mình về số phận người nông dân trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 (trình bày thành một đoạn văn từ 5 đến 7 câu).

Gợi ý:

Câu 1

Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là tự sự

Câu 2

Đoạn trích miêu tả sự đói khổ đến không còn miếng ăn của nhân vật bà lão, từ hết tiền đến phải đi ăn xin, phải đem con ra hờ, phải khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Qua đó thể hiện nỗi xót xa trước tình cảnh khốn cùng, quẫn bách của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 3

Trường từ vựng về thời gian: ba tháng, mỗi sáng, mấy hôm nay, suốt đêm, gần sáng

Câu 4

Đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" trích trong tác phẩm"Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, sáng tác năm 1937 thuộc thể loại truyện ngắn.

Câu 5

Người nông dân trong xã hội xưa là thành phần đông đảo và chiếm số lượng lớn của dân số nước nhà. Tuy vậy họ lại không được coi trọng và bị đối xử rất bất công. . Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng, những ghẻ mạt của bọn quan lại. Họ không có ruộng đất, tài sản, phải nương tựa vào quan lại. Nhưng lại bị đối xử bất công. Vì vậy cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy nhiên, sống trong xã hội thối nát thì họ vẫn có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Xã hội có thể tha hóa họ về con người nhưng phẩm chất thì không. Họ luôn tồn tại sức sống tiềm tàng, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 3

Câu 1: Truyện ngắn “Một bữa no” viết về đề tài gì?

A. Người nông dân.

B. Người trí thức.

C. Người phụ nữ.

D. Cái đói.

=> Câu trả lời: D

Câu 2: Nhân vật bà cụ trong truyện rơi vào tình cảnh như thế nào?

A. Chồng con chết, sống một mình cô đơn.

B. Nghèo, cô đơn sống một mình.

C. Nghèo, chồng chết, đứa con duy nhất cũng chết, phải một mình nuôi đứa cháu gái, cuối cùng cũng bán đứa cháu duy nhất cho bà phó Thụ mà vẫn không hết nghèo, số phận khổ đau khiến bà gạt đi cả lòng tự trọng để chết bằng “một bữa no”

D. Cái chết đau đớn, vật vã – chết no

=> Câu trả lời: C

Câu 3: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

A. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão

B. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão

C. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão

D. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

=> Câu trả lời: C

Câu 4: Từ “hờ” trong câu Bà lão ấy hờ con suốt một đêm nghĩa là gì?

A. Giả vờ với con

B. Nhớ thương con

C. Oán giận con

D. Khóc và kể lể bằng giọng thảm thiết (thường là khóc người chết)

=> Câu trả lời: D

Câu 5: No dồn đói góp được nhắc tới trong câu chuyện là

A. Tục ngữ

B. Thành ngữ

C. Ca dao

D. Danh ngôn

=> Câu trả lời: B

Câu 6: No dồn đói góp nghĩa là gì?

A. Tình trạng ăn uống, tiêu pha không có chừng mực hoặc thất thường, lúc thì quá đầy đủ, thừa thãi, lúc lại thiếu thốn mọi thứ

B. Dồn những bữa no, bữa đói lại

C. Thiếu thốn nhiều

D. Ham ăn, ham uống

=> Câu trả lời: A

Câu 7: Qua nhân vật bà lão trong câu chuyện, Nam Cao muốn phản ánh điều gì về người nông dân?

A. Người nông dân vốn là những người nghèo nhưng hay sĩ diện

B. Đời sống khổ sở của người nông dân, phải nhịn đói cho qua ngày rồi chết trong một bữa no

C. Người nông dân vốn là những người lương thiện, nhưng sự hà khắc của chế độ phong kiến cùng với sự bóc lột của bọn thực dân đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện

D. Người nông dân sống cuộc đời nghèo khổ cuối cùng được sung sướng cho dù chết vì no.

=> Câu trả lời: C

Câu 8: Giọng văn của Nam Cao được thể hiện trong câu chuyện:

A. Chua xót, mỉa mai

B. Hả hê, sung sướng

C. Giễu cợt, trào phúng

D. Ngậm ngùi, xót thương

=> Câu trả lời: A

Câu 9 (1.0đ): Văn Nam Cao có một đặc điểm nổi bật về mặt nghệ thuật đó là ông thường sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp (sự kết hợp giữa ngôn ngữ tác giả, người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật) nhằm bộc lộ thế giới nội tâm, ý thức của nhân vật, cho phép người đọc thâm nhập sâu vào ý nghĩ thầm kín của nhân vật. Em hãy tìm những câu văn theo hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp trong tác phẩm “Một bữa no” và cho biết tác dụng của hình thức ngôn ngữ ấy.

Gợi ý:

Câu văn theo hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp là lời của người kể chuyện với lời lẽ ý nghĩ, ngữ điệu của nhân vật nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật.

Trong câu chuyện "Một bữa no", nhà văn Nam Cao cũng sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp như thế, bao gồm:

- Theo lệ, mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm, mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, sẽ không hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy. Bà đoán họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật…

- Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt thật! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thỏa thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!...

* Tác dụng

  • Diễn tả được đời sống nội tâm của nhân vật bà lão
  • Thể hiện quan niệm, cách nhìn nhận đánh giá của nhà văn Nam Cao

Câu 10 (1.0đ): Đặt địa vị em là cái Đĩ – đứa cháu gái duy nhất của bà lão trong câu chuyện, em nghĩ như thế nào về người bà của mình? Viết đoạn văn (khoảng 2/3 trang giấy) bày tỏ suy nghĩ đó của em.

Gợi ý:

- Phương pháp: Dựa vào sự tưởng tượng và kĩ năng viết đoạn văn của bản thân

Lời giải chi tiết

- Đồng tình, thương hại vì dù sao bà cũng là bà nội, là người bà duy nhất đang khốn khổ lâm vào bước đường cùng,…

- Không đồng tình vì bà làm mất thể diện, làm bà phó Thụ sẽ ghét mình hơn…

Hoatieu.vn sẽ biên soạn một đoạn văn ngắn trả lời câu hỏi này như sau:

Bà tôi mất rồi, bà mất vì một bữa no. Người bà tần tảo, nuôi tôi suốt bao năm trời đã qua đời sau một bữa no ở nhà bà phó Thụ. Bà phó Thụ còn dùng cái chết của bà tôi để răn dạy cho đám tôi tớ, con nuôi trong nhà rằng: "Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…". Nghe thật cám cảnh làm sao!

Lúc thấy bà đến thăm tôi, tôi vui lắm, nhưng bà phó Thụ dữ quá, tôi không dám lộ rõ cảm xúc. Một mình bà ở nhà già yếu, không còn tiền đi buôn, tay chân run rẩy cũng không làm thuê làm mướn cho người ta được thì lấy gì mà ăn. Tôi vội vàng nhét 2 hào vào tay bà, muốn bà về ngay vì sợ bà phó Thụ làm khó. Nhưng bà ở lại ăn cơm, mặc kệ bà phó Thụ chê bai, khinh miệt, mặc kệ mọi người đã gác đũa đứng hết lên trước dự giận dữ của bà phó Thụ, bà nội tôi vẫn ở lại vét cạn nồi. Nhìn cảnh ấy tôi vừa thương bà vừa khó xử, cũng có chút giận. Bà làm tôi mất mặt quá, chưa kể bà phó Thụ sẽ ghét tôi hơn, có khi còn tìm lý do hạch sách, trừ lương của tôi.

Nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ, dù phải ở đợ nhưng vẫn còn được bữa cơm, tôi sao hiểu được bà tôi đã đến bước đường cùng như thế nào, miếng ăn, cơn đói đã đè nén lòng tự trọng của bà. Tôi gần như không thể nhận ra người bà tần tảo ngày nào nữa. Sau bữa ăn huy hoàng, bà tôi về nhà với cái bụng no căng. Có lẽ vì bà ăn quá nhiều, lại ăn mắm mặn nên bà uống rất nhiều nước vẫn còn khát. Bà uống đến khi đau bụng, rồi bà thổ, bà tả... Kéo dài nửa tháng thì bà đi. Cái chết vì một bữa no mang đầy sự tủi nhục của người nghèo, ra đi trong sự cô đơn không có người thân duy nhất là tôi bên cạnh. Tôi chỉ hy vọng rằng, khi qua thế giới bên kia, bà gặp được người bố đã mất sớm của tôi, bà sẽ không còn phải khổ đau nữa. Còn tôi thì vẫn ở đây, vẫn ở đợ, vẫn phải sống và làm việc, chỉ không biết cái đói, cái nghèo có khiến tôi biến chất hay không. Ở trong xã hội này, kẻ giàu thì mãi giàu, những người nông dân thì vẫn mãi đói khổ. Thật hy vọng có một ngày xã hội sẽ khác, chúng tôi được sống trong no đủ, không còn bị khinh miệt nữa.

II. VIẾT (4đ) Viết nào văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của truyện ngắn Một bữa no (Nam Cao)

- Phương pháp giải: Sử dụng những kiến thức đã học và kinh nghiệm của bản thân để hoàn thành yêu cầu

Lời giải chi tiết:

Mở bài:

- Giới thiệu tác phẩm “Một bữa no” (Nam Cao)

- Nêu nội dung khái quát cần phân tích và đánh giá: những đặc sắc về hình thức nghệ thuật của truyện và những đánh giá về nội dung, chủ đề của tác phẩm

Thân bài:

- Xác định đề tài, chủ đề của truyện: đề tài người nông dân, chủ đề người nông dân vốn là những người lương thiện, nhưng sự hà khắc của chế độ phong kiến cùng với sự bóc lột của bọn thực dân đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện

- Phân tích đánh giá chủ đề của truyện được thể hiện trong những sự kiện và tình tiết nào đáng chú ý?

- Đánh giá những đặc sắc về hình thức nghệ thuật của truyện: sử dụng tình huống truyện nào? (hoàn cảnh éo le của bà lão, bà lão đến xin ăn nhà chủ cái Đĩ – đứa cháu nội), hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp, ngôn ngữ giản dị, ngòi bút đi sâu vào thế giới nội tâm, ngôi kể thứ ba đặt điểm nhìn vào bà lão…

Kết bài:

- Khẳng định những giá trị của truyện trong đề tài về người nông dân của Nam Cao nói riêng và trong văn học Việt Nam nói chung.

- Bài học nhận thức: bài học về ứng xử, bài học về lòng nhân ái…

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
71 213.930
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm