15 Đề thi học sinh giỏi Ngữ văn 9 chương trình mới

Tải về

Bộ đề HSG Văn 9 2024-2025

Đề thi học sinh giỏi Văn 9 năm 2024 - 2025 được Hoatieu chia sẻ trong bài viết sau đây là bộ đề thi HSG ngữ văn 9 cấu trúc mới vừa được các thầy cô giáo biên soạn theo nội dung chương trình giáo dục phổ thông 2018. Sau đây là nội dung chi tiết đề thi HSG Văn 9 theo cấu trúc mới sử dụng trong  thi học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện, mời các bạn cùng tham khảo và tải về sử dụng.

Lưu ý: Để xem toàn bộ chi tiết 15 mẫu đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn 9 có đáp án, mời các bạn sử dụng file tải về trong bài.

Đề tham khảo thi HSG Ngữ văn 9 theo cấu trúc mới

Đề 1

I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản:

CƠM MÙI KHÓI BẾP

Bốn năm từ ngày lấy vợ, Tết này anh mới đưa được cả vợ và con về quê. Từ Sài Gòn về miền Trung không hẳn quá xa, nhưng vì có đứa con nhỏ nên chuyện đi lại khó khăn. Mấy lần trước anh chỉ về một mình, dăm hôm lại trở vào. Lần này cả nhà mới được về quê, cho đứa con ăn Tết quê nội lần đầu.

[…]

Hôm sau bà lọ mọ dậy từ lúc trời chưa hửng sáng, nhóm lửa rơm, bắc nồi cơm. Thằng cháu nội ba tuổi chạy xuống thấy khói bếp bốc ngùn ngùn, khiếp quá hét toáng lên: “Cháy nhà”.

Anh chị đang ngủ giật mình vùng dậy. Anh bảo nhà đã có bếp gas, mẹ nấu gì thứ rơm đó nữa cho cực. Bà cười: “Tụi bây ăn cơm nồi cơm điện thành phố rồi, về quê mẹ nấu cơm lửa rơm cho thơm mùi đồng mùi rạ. Mà cơm nấu rơm mới có miếng cháy ăn giòn. Mấy hồi anh nhỏ, bữa ăn không có miếng cơm cháy là giãy nãy lên bướng bỉnh chẳng chịu ăn. Nhớ không.”

Trời rạng tưng tửng sáng, thấy khói bay lên lèn qua mái tranh, anh chợt bùi ngùi. Nhớ ngày xưa còn nhỏ, sáng sớm anh chạy xuống bếp nằm cuộn trong lòng mẹ ngủ nướng thêm một lúc. Thức giấc giở nắp nồi ngửi mùi cơm. Rồi lấy đũa xới hết cơm lên để lột miếng chảy ở đáy rồi ăn trước. Lớn lên vào Sài Gòn lập nghiệp, cưới vợ sinh con ở đấy, xa cái bếp quê dần thành quên. Với lại ở trong đó, đâu có mấy ai ăn sáng ở nhà. Cái bụng cũng “lười” và “yếu” đi, sáng phải bún hoặc cháo mới nuốt nổi. Giờ về thấy cơm, thèm thì thèm thật nhưng ăn chi vô.

Cô con dâu bảo: “Mẹ bày ra nấu bữa sáng làm gì cho cực. Chúng con ra quán ăn miếng là rồi việc”. “Bây nói chi lạ. Ăn uống phải đàng hoàng chớ. Bữa sáng là quan trọng lắm. Không ai thương bằng cơm thương đâu con. Ăn cơm chắc bụng no lâu. Mấy cái thứ bún cháo nước õng ệu, chỉ nhoáng là đói lại liền à.” – Bà vừa san cơm ra chén vừa nói.

Ba chén cơm trắng, đĩa cá đồng kho nghệ. Anh háy mắt qua vợ, ý bảo ăn đi, ăn lấy lòng mẹ một miếng. Chị lại háy mắt qua anh lắc đầu, có mà sức Thánh Gióng mới nuốt trôi. Thằng cu con nhìn chằm chằm chén cơm. Cuối cùng chỉ có anh trệu trạo làm được ba miếng, như là ăn tượng trưng cho mỗi người một miếng. Tranh thủ lúc mẹ đi ra giếng, anh lùa cả ba chén cơm trắng vào lại nồi.

Sáng hôm sau bà lại dậy sớm. Lại nhóm bếp rơm nấu cơm. Xong bữa nồi cơm không vơi được là mấy, vẫn đầy như lòng mẹ. Anh gắng ăn được nửa chén. Chén lòng san đôi cho mẹ cho vợ. Anh dối mẹ chở vợ con đi xem chợ Tết, đi thăm thú làng quê, thực chất là để ghé quán cho vợ con ăn bún ăn cháo.

Anh tự nhủ sáng mai phải thức sớm ngồi nấu bếp với mẹ như xưa. Tự nhủ sáng mai phải ăn chén cơm đầy với mẹ, nhai một miếng cơm cháy giòn thơm. Nhưng lâu ngày giờ về quê gặp lại bạn bè người thân, chỗ này mời chén rượu, chỗ kia mời bữa cơm. Cơm rượu quê hàn huyên câu chuyện ngày dài tới tận khuya. Hôm sau thức dậy đã sáng trọt sáng trời, cổ họng khô khốc không ăn nổi cơm dẻo, huống hồ là miếng cơm cháy.

Chưa hết Tết, mới ngày mùng bốn anh lại phải đưa vợ con vào Sài Gòn. Bà mẹ dậy sớm làm gà, nấu cơm. Vẫn một mình bà cặm cụi với cái bếp. Bà xúc đầy cơm vào chiếc ca mèn. Gà luộc cho vào hộp đựng. “Bây đem lên xe mà ăn. Cơm dọc đường dọc sá không ngon đâu”.

Con cháu lên taxi rồi bà còn dặn theo: “Vào trong nhớ ăn uống đàng hoàng nghe bây. Đừng bỏ bữa sáng. Không ai thương bằng cơm thương”.

Vào tới Sài Gòn ca mèn cơm vẫn còn một nửa. Vợ định đem đi đổ. Anh can, bảo để đấy, phơi khô cất giữ làm kỷ niệm.

*

Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường, gặp con, câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa. Mẹ không bắc cơm được. Thôi ra đầu chợ ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.

Nhưng mẹ không khỏe nữa, yếu dần, được thêm hai bữa thì nhắm mắt.

Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chén cơm trắng đặt trên bàn thờ, anh thấy nhói lòng. Ân hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu “Không ai thương bằng cơm thương”. Tiếc nuối. Thèm miếng cơm cháy mẹ nấu quá. Giòn và thơm, mùi hương đồng mùi nước quê, cả mùi khói bếp. Chỉ có mẹ mới nấu được miếng cơm cháy ngon như thế.

Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…

(Theo Hoàng Công Danh , Chuyến tàu vé ngắn, NXB Trẻ, trang 49 – 54 2016, TPHCM)

Câu 1. Xác định ngôi kể của người kể chuyện trong văn bản.

Câu 2. Món ăn gắn liền với tuổi thơ của anh vào mỗi buổi sáng là gì?

Câu 3. Vì sao sau khi mẹ mất, nhân vật anh thấy nhói lòng, ân hận?

Câu 4. Chi tiết cuối truyện: “ Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…” gợi cho em suy nghĩ?

Câu 5. Bài học em rút ra được sau khi đọc văn bản trên là gì?

II. PHẦN VIẾT (14,0 điểm)

Câu 1 (4,0 điểm)

Từ nội dung của phần đọc hiểu, Anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (Khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết phải trân quý những điều bình dị của cuộc sống.

Câu 2 (10,0 điểm)

Những ngọn gió đồng

Rời phố phường tôi gặp ngọn gió quê

Gió thổi một thổi đôi thổi như dắt tôi đi giữa những bầy gió chạy

Tôi đông cứng gió thổi tôi mềm lại

Để như sông dào dạt phía ruộng đồng

Tôi trở về gặp buổi chiều mẹ vục bóng vào sông

Gió thổi áo nâu mềm lại ngày muối mặn

Thổi buốt tháng năm thổi tràn ký ức

Thổi mát những đau buồn còn nằm khuất đâu đây

Những vạt cỏ vơi hương gió thổi lại đầy

Ôi mùi hương của cỏ gầy tinh khiết

Đời đất cát lên hương từ đất cát

Nên mới thơm chân thật đến ngọt ngào

Gió chẳng bao giờ thổi tới trăng sao

Nhưng gió biết thổi cho nhau biết tự mình mở lối

Ôi những ngọn gió quê muốn gim tôi vào đồng nội

Tôi bước ngược cánh đồng gió lại thổi ngược tôi.

(Trích Những ngọn gió đồng, Bình Nguyên, Tập thơ, 2016, NXB Hội nhà văn)

Bằng hiểu biết về bài thơ Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến của Chế Lan Viên trong Nghĩ về thơ : Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh

————————————

Bình Nguyên: Tên thật là Nguyễn Đăng Hào, sinh năm 1959. Quê: Phường Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình. Ông là hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Ninh Bình, chủ tịch hội Văn học nghệ thuật tỉnh Ninh Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Bài thơ Những ngọn gió đồng được viết vào thàng 8 năm 2012.

HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM (ĐỀ SỐ 1)

Câu

Nội dung cần đạt

Điểm

I

ĐỌC HIỂU

6,0

1

Ngôi kể của văn bản trên là ngôi thứ ba

0,75

2

Món ăn gắn liền với tuổi thơ của anh vào mỗi buổi sáng là cơm trắng với món cá đồng

0,75

3

Sau khi mẹ mất, nhân vật cảm thấy nhói lòng, ân hận vì không thể ăn cơm cùng với mẹ, những hành động của anh lúc mẹ còn sống có thể đã khiến mẹ tổn thương.

1,5

4

Chi tiết cuối truyện mang ý nghĩa: Mùi khói bếp gắn với kí ức về người mẹ, trước giờ nhân vật con chỉ ăn cơm mẹ nấu nhưng chưa bao giờ thực nấu, hôm nay vào bếp mới biết mẹ vất vả thế nào.

1,5

5

Học sinh trả lời theo cách suy nghĩ của mình, giáo viên linh động cho điểm.

– Làm con phải biết hiếu thảo, yêu thương cha mẹ.

– Phải trân trọng kí ức, quá khứ, đừng để mọi chuyện quá muộn.

1,5

II

PHẦN VIẾT

14,0

1

Từ nội dung của phần đọc hiểu, Anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (Khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết phải trân trọng những điều bình dị của cuộc sống.

4.0

Yêu cầu chung

- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ, chủ kiến của mình để làm bài.

- Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, được tự do bày tỏ quan điểm riêng của mình, nhưng phải có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.

Yêu cầu cụ thể

* Giải thích vấn đề:

0.5

- Trân trọng những điều bình dị quanh ta: là việc mỗi người yêu thương những điều xung quanh từ những thứ nhỏ nhặt nhất, từ đó thêm yêu cuộc sống của mình và sống yêu thương, có ích hơn để giúp cho xã hội phát triển bền đẹp hơn.

0,5

* Bàn luận:

3.0

- Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề:

+ Việc trân trọng những điều bình dị quanh ta vô cùng quan trọng và cần thiết trong cuộc sống mỗi người, nó giúp cho cuộc sống của ta thêm tốt đẹp hơn, con người sống hạnh phúc hơn, bình yên hơn.

+ Trân trọng những điều bình dị quanh ta là việc chúng ta yêu thương, nâng niu những điều nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống, đó có thể là con đường đến trường, là ánh nắng, đám mây, là bạn bè, người thân xung quanh, là quyển sách, cây bút chúng ta đang có,…

+ Người biết trân trọng những điều bình dị quanh ta là người có cuộc sống tràn đầy năng lượng tích cực, tràn đầy niềm vui, sống với nhiệt huyết và luôn cảm thấy cuộc đời tươi đẹp. Trân trọng những điều bình dị quanh ta giúp cho chúng ta nhìn cuộc đời bằng lăng kính, bằng góc nhìn tươi vui khiến ta có động lực để làm mọi việc dễ dàng hơn.

+ Việc trân trọng những điều bình dị quanh ta giúp ta biết sử dụng thời gian một cách hợp lí, tạo ra nhiều của cải vật chất có giá trị cho bản thân cũng như cống hiến cho xã hội và giúp ta biết cân bằng giữa làm việc và tận hưởng cuộc sống tối đa.

- Dẫn chứng

Học sinh tự lấy dẫn chứng về những con người biết trân trọng cuộc sống, sống trọn vẹn từng khoảnh khắc làm ví dụ minh họa cho bài làm văn của mình.

- Phản đề

Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn có những người chưa biết trân trọng cuộc sống bình dị quanh mình, sống với những ước mộng cao xa mà bỏ quên những giá trị tốt đẹp của hiện tại. Lại có những người sống bi quan, không coi trọng cuộc sống hiện tại, không hài lòng với những thứ bản thân mình đang có,… Những người này dễ đánh mất bản thân và vấp ngã trong cuộc sống.

- Mở rộng vấn đề:

Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt việc biết trân trọng những điều bình dị hoàn toàn khác với lối sống cẩu thả, lạc hậu, gò bó, khuôn mẫu.

2.0

0,5

0,25

0,25

* Bài học nhận thức và hành động

0.5

- Mỗi người học sinh chúng ta trân trọng những giá trị bình dị quanh mình bằng cách cố gắng học tập, rèn luyện bản thân để trở thành một công dân tốt.

- Sống yêu thương, chan hòa với những người xung quanh, sẵn sàng cho đi, san sẻ, giúp đỡ người khác.

2

Bằng hiểu biết về bài thơ Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên , anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến của Chế Lan Viên trong Nghĩ về thơ : Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh

Yêu cầu chung

- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài.

- Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.

Yêu cầu cụ thể

Giải thích ý kiến:

2.0

* Cắt nghĩa

- Thơ: là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh, có nhịp điệu, vần điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc.

- đưa ru: là nói đến sự vỗ về, vừa là nhịp, vừa là những lời êm ái, ru ngủ con người. Nói rộng ra là cảm xúc, tình cảm là nhịp điệu và nhạc điệu của thơ. Đó chính là đặc trưng cơ bản nhất, là cái gốc của thơ ca

- thức tỉnh: là làm cho con người ta “tỉnh ra, nhận ra lẽ phải và thoát khỏi tình trạng mê muội, sai lầm”, là “gợi ra, làm trỗi dậy cái tiềm tàng trong mỗi con người” là tác động vào nhận thức, trí tuệ, suy tưởng, triết lí, tính tư tưởng của thơ ca.

=> Về nội dung, thực chất ý kiến của Chế Lan Viên bàn về chức năng của thơ ca; sự gắn kết của cảm xúc và tư tưởng trong thơ: Thơ không chỉ lay động cảm xúc con người mà còn thức tỉnh lí trí, giúp con người nhận thức về cuộc sống, về con người và chính mình.

1.0

* Bàn luận

-Vì sao thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh?

+ Thơ là thể loại trữ tình nghiêng về biểu hiện tâm hồn, tình cảm của người nghệ sỹ bằng hệ thống ngôn từ có cảm xúc, gợi hình, biểu cảm và giàu tính nhạc. Thơ có khả năng lay động trái tim, rung động tâm hồ người đọc, thơ đưa ta vào không gian của những tâm tình tha thiết để ta đắm chìm trong cảm xúc của nhà thơ, để ta có cảm giác như được vỗ êm ái như lời ru ngọt ngào của mẹ. Không chỉ thế giá trị của thơ còn thể hiện ở giá trị tư tưởng,” nhà thơ đồng thời cũng là nhà tư tưởng” tư tưởng thơ còn có khả năng thức tỉnh trí tuệ, lay động nhận thức người đọc, đưa ta đến với chiều sâu tư tưởng, khám phá những quy luật sâu sắc, mới mẻ của cuộc sống con người., Vì vậy chức năng của thơ không chỉ “đưa ru”làm lay động cảm xúc mà còn “thức tỉnh”nhận thức, tư tưởng người đọc

+ Xuất phát từ quy luật tiếp nhận: thơ là sự đồng điệu của tâm hồn; xuất phát từ mong muốn của bạn đọc đến với thơ, không chỉ rung động trái tim mà còn tìm thấy những điều mới mẻ trong nhận thức mang đến những khoái cảm về trí tuệ.

- Mối quan hệ giữa chức năng “đưa ru” và chức năng “thức tỉnh”: Ở những bài thơ xuất sắc thường có sự thống nhất hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, cảm xúc gắn với suy tưởng triết lí. Nếu chỉ có cảm xúc, chỉ “đưa ru” thì thơ có thể rơi vào tình trạng hời hợt, nông cạn. Ngược lại, nếu chỉ có trí tuệ, chỉ “thức tỉnh” thì thơ có thể sẽ dễ trở nên khô khan. Vì vậy, dẫu có nhấn mạnh vai trò của nhận thức, của trí tuệ, thì cũng không thể xa rời đặc trưng cơ bản nhất của thơ ca là tình cảm, cảm xúc, là những rung động tâm hồn. Thơ tác động, thức tỉnh theo cách riêng: bằng cách khiến ta xúc động, thông qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc tính, giàu sức biểu cảm.

- Đây là một quan niệm thơ đúng đắn, sâu sắc của Chế Lan Viên. Đây cũng là khuynh hướng phát triển của mọi nền thơ hiện đại.

1.0

Làm rõ ý kiến qua bài thơ Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên

7.0

* Khái quát tác giả, tác phẩm

- Tác giả: Bình Nguyên là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại. - Tác phẩm: Bài thơ Kính gửi mẹ được viết vào tháng 8 năm 2012, in trong tập thơ cùng tên, NXB Hội nhà văn ấn hành, năm 2016.

* Phân tích bài thơ

- Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên là bài thơ “đưa ru” người đọc:

+ Gió đã dắt "tôi" đi dọc miền kí ức từng bị lãng quên. Nhân vật tôi gặp lại linh hồn của quê hương, thứ gió lồng lộng, miên man, hoang dại mà người ở phố phường không bao giờ thấy được. Trước gió đồng, nhân vật trữ tình thoắt biến thành trẻ nhỏ, để mặc gió dắt đi như cô bạn nhỏ thủa nào hồn nhiên kéo tay mình băng trên vạt cỏ, như lũ bạn tinh nghịch chơi đuổi bắt khắp cánh đồng. Gió đồng thức tỉnh “tôi” từ con người đang “đông cứng” bởi ngột ngạt những khói bụi, bởi những lo toan tẹp nhẹp đời thường, bởi những xô bồ phố thị bỗng trở nên “mềm lại”, thư thái, thảnh thơi với những thương yêu lắng đọng. Gió đồng cảm hóa “tôi” từ chai cứng trở nên dạt dào như dòng sông, như đồng ruộng. Hình ảnh nhân hóa sinh động, cùng những so sánh liên tưởng thú vị đã làm nổi bật những chuyển biến trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Ngọn gió vô tri đã kéo người đi xa trở về hoà mình cùng không gian của thiên nhiên hòa mình thành dòng sông quê hương dạt dào dâng hiến phù sa cho đồng ruộng (khổ 1).

+ Gió dắt "tôi" về bên mẹ. Không phải là gặp lại mẹ trong bóng chiều mà là gặp “buổi chiều mẹ vục bóng vào sông”. Không phải gặp hình ảnh mà gặp lại cả khoảng thời gian đã in hằn trong tâm trí người con xa quê. Hình ảnh người mẹ vục bóng vào sông cũng là khởi nguồn cho nỗi xúc động nghẹn ngào của nhân vật trữ tình khi chạm vào kí ức “ngày muối mặn”, “tháng năm buốt giá”, “những đau buồn”. Ngọn gió đồng trở thành ngọn gió mát lành an ủi, sẻ chia với những nhọc nhằn nơi thôn quê, thổi đi những buốt giá đời người. Ngọn gió ấy còn tràn vượt cả qua thời gian, không gian quá khứ, “thổi mát những đau buồn còn nằm khuất đâu đây”. Ngọn gió ấy có sức mạnh diệu kì, như một phương thuốc thần tiên chữa lành những vết thương đau, lấp đầy khoảng trống trong lòng người và thanh lọc tâm hồn con người…(khổ 2).

+ Gió không chỉ làm dịu những ưu phiền, những vết thương, những vị cay, vị đắng nơi mảnh đất mình sinh ra, mà còn giúp ta cảm nhận quy luật sinh tồn, cái sức sống bền bỉ âm thầm: "Những vạt cỏ vơi hương gió thổi lại đầy/Ôi mùi hương của cỏ gầy tinh khiết/Đời đất cát lên hương từ đất cát/Nên mới thơm chân thật đến ngọt ngào" (khổ 3).

+ Gió có thể làm mềm, làm dịu mát, làm đầy, làm sáng, làm ấm những yêu thương, đánh thức lòng trắc ẩn, gợi những rung cảm nơi sâu thẳm tâm hồn? Và nhà thơ đã lý giải: "Gió chẳng bao giờ thổi đến trăng sao/Nhưng gió biết thổi cho nhau biết tự mình mở lối". Gió vẫn chỉ là gió, nhưng khi đã biết thổi cho nhau, biết tự mình mở lối thì “gió” là hình ảnh của những con người biết hy sinh, sẻ chia, đồng cảm, biết sống, biết cho, biết yêu thương, biết tự mình vươn lên. Gió hay chính người quê đã đạt đến chân thiện đủ để làm mềm, làm tan chảy những tảng băng vô cảm vẫn tồn tại ngay trong mỗi con người. Sinh ra từ quê, rồi lại từ quê mà ra đi, những ngọn gió như muốn “ghim” muốn níu giữ "tôi" ở lại. "Ôi những ngọn gió quê muốn ghim tôi vào đồng nội/Tôi bước ngược cánh đồng gió lại thổi ngược tôi" (khổ 4).

- Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên là bài thơ “không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh” người đọc về đạo lí sống, về bài học nhân sinh trong cuộc sống:

+ Ngọn gió đồng đã thức tỉnh con người về tình cảm hướng về quê hương, nguồn cội (khổ 1).

+ Ngọn gió đồng đã thức tỉnh con người về tình cảm đối với mẹ (khổ 2).

+ Ngọn gió đồng đã thức tỉnh con người khi nhìn lại bản thân. Phải chăng, khoảnh khắc con người nhận ra không gian thân thuộc với hương cỏ dại vẫn đầy ăm ắp, vẫn tinh khiết, chân thật và ngọt ngào sau bao mùa mưa nắng ở thôn quê cũng là lúc con người có cơ hội nhìn lại chính mình trong những đổi thay. Liệu cái chân quê thật thà có còn nguyên vẹn trong ta? (khổ 3).

+ Ngọn gió đồng đã thức tỉnh con người về lối sống cao đẹp biết sẻ chia, biết yêu thương đùm bọc “biết thổi cho nhau” vơi bớt những nhọc nhằn, buồn khổ; không chịu khuất phục trước những thử thách chông gai, “biết tự mình mở lối; thuỷ chung, gắn bó với đồng quê dù vạn vật có đổi thay (khổ 4).

- Nghệ thuật cũng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên giá trị “đưa ru” và “thức tỉnh” trong bài thơ Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên

+ Thể thơ tự do

+ Ngôn ngữ thơ giản dị

+ Hình ảnh thơ gần gũi

+ Nhịp thơ chậm mà chuyển, gần gũi mà lắng sâu, như lời tự bạch của chính mình

+ Giọng thơ tự sự, bắt đầu từ sự trở về, rồi với những ký ức, đến sự tự nhận thức và cuối cùng là cách luận, Những ngọn gió đồng đã đưa người đọc đi từ cảm xúc này đến cảm xúc khác

0.5

4.0

2.0

0,5

Đánh giá, nhận xét:

1.0

- Bài thơ Những ngọn gió đồng của Bình Nguyên không chỉ đưa ru – đưa người đọc đắm mình vào không gian của hoài niệm, của những cảm xúc chân thành, thiết tha mà còn đánh thức, khơi dậy những lẽ sống cao đẹp, những triết lí nhân sinh sâu sắc. Bài thơ đã chạm vào nơi thẳm sâu của tâm hồn, lay động tâm thức của người đọc bởi sự quyện hòa giữa vẻ đẹp cảm xúc và trí tuệ, cùng những hình thức biểu đạt phù hợp, giàu tính nghệ thuật.

- Ý kiến của Chế Lan Viên ngắn gọn mà xác đáng, khẳng định được chức năng, ý nghĩa của thơ ca; sự gắn kết của cảm xúc và tư tưởng trong thơ. Cảm xúc không bắt vào trí tuệ sẽ hời hợt nông cạn, trí tuệ không dựa vào cảm xúc sẽ trở thành xa lạ, khô khan.

- Ý kiến là bài học cho người sáng tác thơ, đồng thời có tác dụng định hướng cho người đọc trong quá trình tiếp nhận.

+ Bài học cho người nghệ sĩ: trong quá trình sáng tạo, nhà văn phải lao động miệt mài bằng cả trí óc và con tim, bằng cả tâm lực lẫn trí lực để cho ra đời những tác phẩm không chỉ “đưa ru” mà còn “thức tỉnh”.

+ Đối với bạn đọc: khi đọc tác phẩm không nên thờ ơ, hững hờ, hãy đọc bằng cả trái tim và trí tuệ để lĩnh hội được những điều mà người nghệ sĩ gửi gắm, để từ đó hoàn thiện nhân cách, sống tốt hơn, đẹp hơn.

Lưu ý chung

1. Đây là đáp án mở, thang điểm có thể không quy định chi tiết đối với từng ý nhỏ, chỉ nêu mức điểm của phần nội dung lớn nhất thiết phải có.

2. Chỉ cho điểm tối đa theo thang điểm với những bài viết đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đã nêu mỗi câu, đồng thời phải được triển khai chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, có cảm xúc.

3. Khuyến khích những bài viết có sáng tạo. Chấp nhận bài viết không giống đáp án, có những ý ngoài đáp án nhưng phải có căn cứ xác đáng và lí lẽ thuyết phục.

4. Không cho điểm cao đối với những bài chỉ nêu chung chung, sáo rỗng.

5. Cần trừ điểm đối với những lỗi về hành văn, ngữ pháp và chính tả.

Đề 2

Câu 1 (8 điểm): Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp viết:

“Này bông hoa hồng

Giá trị của mày khoảng khắc

Ai biết mày khi đang kết nụ?

Ai để ý mày khi đang úa tàn?

Ôi hoa hồng, hoa hồng

Phút giây này thật tuyệt vời”

(Nguyễn Huy Thiệp, Mưa Nhã Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2001)

Từ ý thơ trên, Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ của mình về cách ứng xử đẹp đối với cái Đẹp.

Câu 2 (12 điểm): Bàn về cấu tứ, có ý kiến cho rằng:

Cấu tứ linh hồn của tác phẩm, cung cấp một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm” (Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán chủ biên, NXB Giáo dục, 1992, T36).

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích cấu tứ của “Ôi thích mình là một cái cây” (Thanh Thảo) để làm sáng tỏ.

ÔI THÍCH MÌNH MỘT CÁI CÂY

-Thanh Thảo-

“rồi trong ta hóa thành cây

cây nho nhỏ lá xanh cành gầy

đi lang thang trong thành phố hừng đông

khe khẽ rung như một chiếc chuông con”

một cái cây sống

nhỏ to không quan trọng

một cái cây

không bị ai bán đứng

dù cổ thụ hay tơ non

một cái cây trầm ngâm

nói chuyện không ai nghe

bạn bè quanh năm gió

cười một mình xanh chút nắng chút mây

tôi ước mình một cái cây

thi thoảng có chim tới hót

con chim sâu bỏng nhảy nhót

chẳng cần biết thế giới ra sao

một cái cây xanh đến từng chiếc

buổi sớm tỏa dưỡng khí

ban đêm hứng ánh trăng

một cái cây lang thang

dù đứng im một chỗ

những ngày rồi qua những người rồi xa

cái cây rung khẽ từng chiếc lá

chúng ta ai chúng ta về đâu

chờ mãi cơn mưa rào rất lạ

nắng gay gắt cứ như cáu gắt

cây nhỏ nép mình chật vật

chúng ta ai xanh được bao lâu

lặng im lá vàng rơi chạm đất

(Trích Chờ mãi cơn mưa rào Rất lạ, Thanh Thảo, NXB Hội nhà văn, 2019, tr.293, 294)

- Thanh Thảo tên khai sinh Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Thanh Thảo viết nhiều thể loại, nhưng sở trường vẫn là thơ, đặc biệt thành công với một số trường ca viết sau chiến tranh. Thơ Thanh Thảo tiếng nói của người tri thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Ông được công chúng chú ý qua những tập thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến.

- Chờ mãi cơn mưa rào - Rất lạ tuyển thơ mới nhất của Thanh Thảo, gồm các sáng tác ngắn, chủ yếu viết trong khoảng thời gian từ sau 1986 đến nay.

HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM (ĐỀ SỐ 2)

Câu

Ý

Nội dung

Điểm

1

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp viết:

“Này bông hoa hồng

Giá trị của mày khoảng khắc Ai biết mày khi đang kết nụ?

Ai để ý mày khi đang úa tàn? Ôi hoa hồng, hoa hồng

Phút giây này thật tuyệt vời”

(Nguyễn Huy Thiệp, Mưa Nhã Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2001)

Từ ý thơ trên, Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ về cách ứng xử đẹp đối với cái Đẹp.

8,0

a

Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận về một vấn đề xã

hội (con người với cuộc sống xung quanh)

0,5

b

Xác định đúng vấn đề nghị luận: Cách ứng xử đẹp với cái Đẹp

Hướng dẫn chấm:

- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tối đa 0,5 điểm.

- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: tối đa 0,25 điểm

0,5

Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm vấn đề nghị luận: HS

3,5

c

có thể triển khai ý theo nhiều cách khác nhau, miễn là hợp lý và đảm bảo được các ý cơ bản, HS có thể bày tỏ nhiều quan điểm nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

Sau đây là gợi ý:

* Giới thiệu vấn đề nghị luận nêu khái quát quan điểm của bản thân về vấn đề.

* Triển khai vấn đề nghị luận:

-Giải thích vấn đề nghị luận:

+ Cái đẹp là một phạm trù thẩm mĩ chỉ yếu tố đem lại một trải nghiệm nhận thức về niềm vui hoặc sự hài lòng. Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, cái Đẹp là “phạm trù bản của học, xác định và đánh giá những hiện tượng thẩm mĩ, đẹp, hoàn thiện, tồn tại khách quan trong xã hội, trong những hoạt động con người, trong nghệ thuật, biểu hiện dưới hình thức cảm tính” (https://vtudien.com/viet-viet/dictionary/nghia-cua-tu). Cái đẹp tồn tại, tỏa sáng trong mọi hoàn cảnh. Có cái đẹp trong cuộc đời, cái đẹp

được chưng cất trong nghệ thuật. Để có khoảnh khắc tỏa sáng của

0,5

0,5

 

cái đẹp phải có quá trình “kết nụ”. Sau khi hoàn thành sứ mệnh, cái đẹp úa tàn nhường chỗ cho sự tỏa sáng của vẻ đẹp khác.

+ Cách ứng xử đẹp là cách con người có thái độ, hành vi trong giao tiếp thể hiện sự tôn trọng, có văn hóa.

ð Cái Đẹp là tinh túy của cuộc đời này, tuy nhiên cái Đẹp lại tồn tại trong khoảng khắc, vì vậy cần thiết phải có cách ứng xử đúng chuẩn mực với cái Đẹp.

-Thể hiện quan điểm của người viết: Có thể theo một số gợi ý sau: Cách ứng xử đẹp với cái Đẹp thể hiện trên nhiều phương diện: Nhận diện được và biết thưởng thức, trân trọng và nâng niu cái Đẹp trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật; Không phá phách, cưỡng đoạt cái Đẹp cho riêng mình; Có hành động bảo vệ cái Đẹp để cái Đẹp có thể tồn tại và tỏa sáng trong cuộc đời; Biết chia sẻ để cái Đẹp đến được với tâm hồn những người yêu cái Đẹp…

-Mở rộng, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác để có cái nhìn toàn diện: Cái Đẹp mang tính chủ quan, tuy nhiên cái Đẹp không đi ngược lại cái Thiện, không được nhân danh cái Đẹp mà có những hành vi đi ngược chuẩn mực đạo đức, biến cái Đẹp trở thành cái không đẹp.

* Khẳng định lại quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học cho bản thân.

Hướng dẫn chấm:

- HS thể bày tỏ suy nghĩ quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

- Đề xuất được những ý bản để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận: tối đa 3,5 điểm.

- Đề xuất được hệ thống ý nhưng chưa thực sự làm sáng tỏ vấn đề nghị luận: tối đa cho 2,0 điểm.

- Chưa đề xuất được hệ thống ý làm sáng tỏ vấn đề nghị luận: tối đa 1,0 điểm

2,0

0,5

d

Viết bài văn, cần đảm bảo các yêu cầu sau:

2,0

- Triển khai được ít nhất hai luận điểm để làm rõ quan điểm cá nhân.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục; lí lẽ dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; có sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng.

Hướng dẫn chấm:

- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; kếthợp nhuần nhuyễn giữa lẽ và dẫn chứng: tối đa 2,0 điểm.

- Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng nhưng không dẫnchứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu: tối đa 1,0

điểm.

 

- Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp: tối đa 0,5 điểm.

- Khuyến khích những kiến giải riêng của thí sinh

e

Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp, liên kết câu

Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.

0,5

g

Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách

1,0

diễn đạt hiệu quả, mới mẻ, linh hoạt

Hướng dẫn chấm: Học sinh huy động được kiến thức và trải nghiệm của bản thân để bàn luận; có cách nhìn riêng, mới mẻ về vấn đề nghị luận; sáng tạo trong viết câu, dựng đoạn; lời văn có giọng điệu, hình ảnh.

- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: tối đa 1,0 điểm.

- Đáp ứng được 1 yêu cầu: tối đa 0,5 điểm.

2

Bàn về cấu tứ, có ý kiến cho rằng:

Cấu tứ là linh hồn của tác phẩm, cung cấp một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm” (Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán chủ biên, NXB Giáo dục, 1992, T36).

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích cấu tứ của “Ôi thích mình là một cái cây” (Thanh Thảo) để làm sáng tỏ.

12,0

a

Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.

0,5

b

Xác định đúng vấn đề nghị luận: Vai trò của cấu tứ với văn bản nghệ thuật và với quá trình tiếp nhận văn bản của người đọc.

Hướng dẫn chấm:

- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tối đa 0,5 điểm.

- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: tối đa 0,25 điểm

0,5

c

Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm vấn đề của bài viết

- Xác định được các ý chính của bài viết.

- Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận:

* Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của bản thân về vấn đề.

*Triển khai vấn đề nghị luận:

- Giải thích:

+Cấu tứ là một khâu then chốt, mang tính chất khởi đầu của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng. Trong lĩnh vực thơ, cấu tứ gắn với việc xác định, hình dung hướng phát triển của hình tượng thơ, cách triển khai bài thơ, sao cho toàn bộ nhận thức, cảm xúc, cảm giác của nhà thơ về một vấn đề, đối tượng,

sự việc nào đó có thể được bộc lộ chân thực, tự nhiên, sinh động và

5.5

1,0

 

trọn vẹn nhất.

+ “Cấu tứ linh hồn của tác phẩm” là bản chất cốt lõi làm nên sự sống của tác phẩm văn học. Từ cấu tứ người đọc được “cung cấp một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm” cấu tứ cho người đọc một vị trí, một cách thức để từ đó người đọc khám phá được chủ đề tư tưởng của bài thơ.

ð Ý kiến khẳng định vai trò của cấu tứ trong tác phẩm nghệ thuật. Cấu tứ quyết định sự sống của tác phẩm nghệ thuật, biến ngôn ngữ nghệ thuật không còn là xác chữ rời rạc mà trở thành một chỉnh thể nghệ thuật, cấu tứ cũng là điểm xuất phát, là chìa khóa để người đọc có thể giải mã văn bản nghệ thuật.

- giải vấn đề: Ý kiến trên khái quát sâu sắc vai trò của cấu tứ:

+ Văn học là loại hình nghệ thuật bằng ngôn từ, phản ánh cuộc sống thông qua hình tượng nghệ thuật. Nhưng để một văn bản ngôn từ trở thành tác phẩm nghệ thuật, ngôn từ đó phải được cấu trúc, tổ chức theo một dụng ý nghệ thuật của nhà văn mới thể hiện mạch cảm xúc và xây dựng hình tượng nghệ thuật. Vì vậy, cấu tứ là linh hồn của tác phẩm, biến kí tự ngôn ngữ không phải là xác chữ mà có sự sống, phản ánh đời sống, chuyển tải những vấn đề nhân sinh.

+ Nhà văn sáng tạo nghệ thuật là gửi gắm vào văn bản cảm xúc, suy tư, chiêm nghiệm của cá nhân mình qua ngôn từ nghệ thuật. Những cảm xúc, suy tư đó sẽ được hiện hình cụ thể qua cách triển khai cấu tứ của tác phẩm. Nếu không có cấu tứ, cảm xúc nghệ sĩ sẽ không được hữu hình hóa, hình tượng nghệ thuật sẽ không có hình hài, văn bản sẽ không trở thành tác phẩm nghệ thuật và đến với người đọc.

+ Người đọc muốn khám phá một văn bản nghệ thuật cần có một “thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận” mới bóc tách được các tầng lớp nghĩa của văn bản chạm đến tầng sâu tư tưởng. Cấu tứ đưa người đọc đến gần với thế giới nghệ thuật trong tác phẩm, khám phá được cảm xúc và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

- Phân tích cấu tứ bài Ôi thích mình một cái cây

*Nhận diện phân tích được các yếu tố của cấu tứ bài thơ:

+ Nhan đề: Tôi thích mình là một cái cây bộc lộ mong muốn của nhân vật trữ tình một cách trực tiếp, hồn nhiên, không màu mè…Đó là một mong muốn lạ kì, nhân vật trữ tình muốn được “cây hóa” sống một cuộc đời tự do, gắn bó với tự nhiên.

+ Đoạn thơ đề từ: Kể về một giấc mơ lạ kì của nhân vật trữ tình. Giấc mơ chứa đựng ao ước mãnh liệt, hóa cái cây bình dị để sống một cuộc đời tự do đầy mơ mộng.

+ Cách tổ chức hình thức các câu thơ, khổ thơ: Các câu thơ không viết hoa đầu dòng, câu thơ vắt dòng như mạch chảy cảm xúc thể

hiện những mong muốn của nhân vật trữ tình.

1,0

2,5

 

+ Cách triển khai mạch cảm xúc: Cảm xúc đi từ bộc lộ xúc cảm của chủ thể trữ tình trước Cái cây khách thể đời sống, tách biệt với chủ thể trữ tình. Nhưng càng nói, người càng nhập thân, nhập tâm. Càng nói, người càng cây hóa. Đó là quá trình chuyển hóa từ ngoài vào trong, từ khách thể thành chủ thể

+ Hình tượng cái cây ước của cái tôi trữ tình được “tạo hình” từ những hình dung đầu tiên khá sơ giản một cái cây sống/ không bị ai bán đứng… Dần dà, cái cây ấy chuyển thành cái cây của xúc cảm, ước mong nội tâm thầm kín: một cái cây trầm ngâm…/ bạn bè quanh năm gió…/ thi thoảng chim tới hót/ con chim sâu bỏng nhảy nhót/ một cái cây xanh đến từng chiếc lá… Càng ngày tính chất ám thị càng mạnh. Nhân vật trữ tình dần cảm như cây, nghĩ theo cách của cây, nghĩa là biết rung khẽ từng chiếc , biết chờ mãi cơn mưa rào rất lạ, thấm thía nỗi niềm chúng ta ai xanh được bao lâu/ Lặng im lá vàng rơi chạm đất….ð Mơ ước là cái cây là mơ ước được sống tự do về mặt tinh thần trong một sự ràng buộc, đó là mong ước sống nhẹ nhõm thanh thản, gắn bó với thiên nhiên.

*Đánh giá vai trò thể hiện tư tưởng, chủ đề bài thơ của cấu tứ: Từ một ý tưởng chừng như ngẫu hứng, Ôi thích mình mình là một cái cây thể hiện một triết lí đáng suy ngẫm về thái độ và cách sống cần có của con người. Con người sống luôn bị ràng buộc bởi một hoàn cảnh xã hội, một thể chế chính trị…nhưng khát vọng muôn thuở của con người là sự tự do về tinh thần, là được sống với những khát vọng sâu thẳm của tâm hồn mình.

- Bình luận, mở rộng:

+ Cấu tứ của bài thơ “Ôi thích mình một cái cây” độc đáo và đầy sáng tạo. Từ một ý tưởng ngẫu hứng tưởng như không có gì, tác giả đã tạo dựng một cấu tứ đầy đặc sắc, ý biến thành tứ, thành hình hài bài thơ. Cấu tứ đã tạo ra là linh hồn của tác phẩm. Từ cấu tứ người đọc có một xuất phát điểm để giải mã văn bản nghệ thuật, khám phá những giá trị nhân sinh gửi gắm.

+ Tuy nhiên cấu tứ không phải là yếu tố kĩ thuật được thể hiện qua các phương diện hình thức. Cấu tứ là sự hóa thân của cảm xúc, suy tư người nghệ sĩ trong ngôn từ nghệ thuật qua hình thức tổ chức đầy sáng tạo. Từ cấu tứ, ý biến thành tứ, tạo nên hình hài sống động cho văn bản ngôn từ, biến văn bản ngôn từ thành tác phẩm nghệ thuật.

+ Bài học sáng tạo và tiếp nhận: Để tác phẩm có hình hài, có sự sống nhà văn phải chú ý xây dựng cấu tứ sáng tạo, độc giả khi đọc thơ cần xuất phát từ cấu tứ để khám phá tầng sâu nghệ thuật của văn bản.

Hướng dẫn chấm:

- Phần giải thích: 1,0 điểm

+ Giải thích ràng, đầy đủ: tối đa 1,0 điểm

1,0

 

+ Giải thích chung chung, chưa ràng: tối đa 0,5 điểm

- giải vấn đề: 1,0 điểm

+ giải sâu sắc, cụ thể vấn đề: tối đa 1,0 điểm.

+ giải còn chung chung: tối đa 0,5 điểm

+ Chưa giải được vấn đề không cho điểm

-Phân tích, chứng minh: 2,5 điểm

+ Phân tích, chứng minh ràng, sâu sắc: tối đa 2,5 điểm.

+Phân tích chứng minh còn chung chung: tối đa 1,0 điểm.

- Phần bình luận mở rộng: 1,0 điểm

+ Đánh giá đầy đủ: tối đa 1,0 điểm

+ Đánh giá chung chung, chưa đầy đủ: tối đa 0,5 điểm

d

Viết bài văn, cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Triển khai được ít nhất hai luận điểm để làm rõ quan điểm cá nhân.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục; lí lẽ dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; có sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng.

Hướng dẫn chấm:

- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lẽ dẫn chứng: tối đa 2,0 điểm.

- Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng nhưng không có dẫnchứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu: tối đa 1,0 điểm.

- Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp: tối đa 0,5 điểm.

- Khuyến khích những kiến giải riêng của thí sinh

4,0

e

Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp, liên kết câu

Không cho điểm nếu bài làm quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.

0,5

g

Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt hiệu quả, mới mẻ, linh hoạt

Hướng dẫn chấm: Học sinh biết liên hệ với các tác phẩm khác để làm nổi bật vấn đề cần nghị luận; vận dụng kiến thức lý luận văn học để bàn sâu vấn đề; văn viết giàu hình ảnh, cảm xúc…

- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: tối đa 1.0 điểm.

- Đáp ứng được 1 yêu cầu: tối đa 0.5 điểm.

1,0

Tổng

20,0

(Thang điểm 20, điểm làm tròn đến 2 chữ số thập phân)

Đề 3

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (5.0 điểm)

CÂY XẤU HỔ

(Anh Ngọc)

Bờ đường 9 có lùm cây xấu hổ

Chiến sĩ đi qua ai cũng mỉm cười

Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Tất cả lộ nguyên hình trần trụi
Cây xấu hổ với màu xanh bối rối

Tự giấu mình trong lá khép lim dim

Chiến sĩ qua đây ai cũng bước rất êm

Khi bất chợt thoảng một bàn chân lạ
Cây vội vã nhắm nghìn con mắt

Nhựa dồn lên cành khẽ ngả như chào
Người ra rồi bóng dáng cứ theo sau
Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm

Cây đã hé những mắt tròn chúm chím Đang thập thò nghịch ngợm nhìn theo

Phút lạ lùng trời đất trong veo
Anh nghe có tiếng reo thầm gặp gỡ
Nhiều dáng điệu thoáng qua trong trí nhớ
Rất thân quen mà chẳng gọi nên lời
Giữa một vùng lửa cháy bom rơi

Cây hiện lên như một niềm ấp ủ
Anh lính trẻ hái một cành xấu hổ
Ướp vào trong trang sổ của mình

Và chuyện này chỉ cây biết với anh.

(Giải nhì trong cuộc thi thơ của

tuần báo Văn nghệ năm 1972-1973)

Câu 1 (1.5 điểm). Xác định thể thơ và cho biết những dấu hiệu hình thức của thể thơ đó biểu hiện trong bài “Cây xấu hổ”.

Câu 2 (2.0 điểm). Hãy cho biết mạch cảm xúc và cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

Câu 3 (1.5 điểm). Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật trong hai câu thơ:

Cây vội vã nhắm nghìn con mắt

Nhựa dồn lên cành khẽ ngả như chào.

PHẦN II. VIẾT (15.0 điểm)

Câu 1 (3.0 điểm). Giữa bom đạn, cây xấu hổ vẫn kiên cường bám trụ, cành lá vẫn xanh tươi. Hình ảnh đó gợi suy nghĩ về ý chí, bản lĩnh của con người trong hoàn cảnh gian khổ khó khăn. Hãy viết đoạn văn khoảng 20 dòng trình bày suy nghĩ của em về vấn đề đó.

Câu 2 (12.0 điểm). "Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Em hiểu ý kiến đó như thế nào? Hãy phân tích bài thơ “Cây xấu hổ” của Anh Ngọc để làm sáng tỏ ý kiến đó.

--HẾT--

(Người coi thi không giải thích gì thêm)

HƯỚNG DẪN CHẤM 

PHẦN ĐỌC (5.0 điểm)

Câu

Nội dung

Điểm

1

– Thể thơ tự do

– Dấu hiệu hình thức của thể thơ:

+ Số tiếng: 7, 8 tiếng; khổ thơ mở đầu có 2 dòng thơ, phổ biến là 4 dòng thơ/ khổ, khổ cuối chỉ có 1 dòng.

+ Vần được gieo linh hoạt, có vần cách, vần liền.

Ví dụ khổ 1.2 có vần liền: cười – rơi; vần cách: rơi – rối,…

+ Nhịp: căn cứ cách ngắt các vế trong dòng thơ và số tiếng từng dòng thì chủ yếu là nhịp 3/5, 4/4 đối với câu tám tiếng, nhịp 3/4 đối với câu bảy tiếng.

0.5

1.0

2

– Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ bắt đầu với hình ảnh cây xấu hổ, tiếp nối là câu chuyện giữa người lính và cây, cuối cùng khép lại trong một bí mật rất đáng yêu của người lính, để từ đó nhà thơ bộc lộ những suy ngẫm, cảm xúc của mình về thiên nhiên, về con người.

– Cảm hứng chủ đạo: Là cảm hứng ngợi ca, trân trọng, yêu mến một loài cây nhỏ bé mà kiên cường, sức sống mạnh mẽ giữa chiến trường và vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của người chiến sĩ thời kì chống Mĩ.

1.0

1.0

3

– Biện pháp nhân hóa

– Tác dụng:

+ Gợi ra vẻ đẹp bối rối, trong sáng, e thẹn, như mang hồn người của loài hoa.

+ Thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm trong tâm hồn của người lính.

0.5

1.0

PHẦN VIẾT (15.0 điểm)

1

1. Yêu cầu về kĩ năng, hình thức:

– Học sinh viết được đoạn văn nghị luận xã hội.

– Đảm bảo dung lượng (khoảng 20 dòng).

– Dùng từ, diễn đạt, viết câu chuẩn xác.

2. Yêu cầu về nội dung:

Học sinh có các cách triển khai nội dung khác nhau nhưng cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau:

– Giải thích làm rõ được vấn đề ý chí, bản lĩnh của con người (Đó là sự dũng cảm, sẵn sàng đối đầu với khó khăn, gian khổ, thách thức. Đó là sự kiên cường, bền bỉ, mạnh mẽ vượt lên hoàn cảnh,…).

– Bàn luận vấn đề:

+ Nêu được những lí lẽ cho thấy vai trò của ý chí, bản lĩnh trong cuộc sống (Dám theo đuổi mục tiêu, ước mơ, khát vọng; tạo nên sức mạnh cho con người; khẳng định giá trị bản thân;…).

+ Nêu được bằng chứng cho thấy sức mạnh của ý chí, bản lĩnh.

+ Phê phán những con người yếu đuối, không có bản lĩnh,...

– Khẳng định được ý nghĩa của VĐ và phương hướng hành động.

1.0

2.0

2

1. Yêu cầu về kĩ năng, hình thức:

– Học sinh viết được bài văn nghị luận văn học phân tích một tác phẩm thơ.

– Đảm bảo bố cục bài viết mạch lạc, rõ ràng.

– Dùng từ, diễn đạt, viết câu chuẩn xác.

2. Yêu cầu về nội dung: Học sinh có nhiều cách triển khai bài viết, tuy nhiên cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau:

2.1 Giải thích được ý kiến: "Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng).

+ Thơ ca cũng như những TPVH khác đều bắt nguồn từ cuộc sống, lấy chất liệu từ hiện thực, phản ánh con người và cuộc sống qua lăng kính chủ quan của nhà thơ, nhà văn.

+ Thơ ca đã đi cùng lịch sử phát triển của nhân loại và phản ánh con người, thời đại đó bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo.

+ Hiện thực cuộc sống, con người, thời đại được phản ánh trong thơ không phải là sao chép y nguyên mà được thể hiện với cảm hứng ngợi ca, tự hào, yêu mến, trân trọng,…

è Ý kiến của Sóng Hồng bàn về mối quan hệ giữa thơ ca và con người, thời đại, về sự gắn bó không tách rời giữa con người và thời đại trong hình tượng thơ.

2.2 Phân tích được bài thơ “Cây xấu hổ” để chứng minh ý kiến:

Hình ảnh con người cao đẹp à Hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn:

+ Dũng cảm, can trường, sẵn sàng dấn thân vào chiến trường khốc liệt, chiến đấu vì Tổ quốc.

+ Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm (bằng chứng)

+ Yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp (bằng chứng)

è Vẻ đẹp của lý tưởng và tâm hồn tạo nên tượng đài về người lính vừa gần gũi, thân thuộc vừa cao cả, lớn lao.

– Thời đại cao đẹp:

+ Cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.

+ “Bờ đường 9” – không gian chiến trường đầy lửa cháy bom rơi, nơi có những người lính trẻ đang hành quân, chiến đấu.

+ Thời đại đã sản sinh những con người anh hùng, dám dấn thân vào bom đạn chiến trường, chiến đấu, hi sinh vì độc lập dân tộc.

– Con người và thời đại trong bài thơ được thể hiện cao đẹp qua những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc:

+ Thể thơ tự do đan xen yếu tố miêu tả, tự sự thích hợp cho việc kể chuyện và bộc lộ cảm xúc.

+ Hình ảnh thơ đẹp

+ Ngôn ngữ thơ tự nhiên, giản dị

+ Giọng điệu biến hóa, khi tâm tình, khi tinh nghịch,…

+ Biện pháp nhân hóa sử dụng nhiều lần.

+ Bút pháp hiện thực và lãng mạn.

2.3 Khẳng định giá trị bài thơ và khẳng định ý kiến.

2.0

2.0

7.0

1.0

Lưu ý: GV linh hoạt trong quá trình chấm bài, tôn trọng ý kiến, sự sáng tạo, sự kiến giải hợp lí của HS.

......................

Xem thêm trong file tải về.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 9 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 346
15 Đề thi học sinh giỏi Ngữ văn 9 chương trình mới
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm