Phân tích bài thơ Chiều sông Thương của Hữu Thỉnh

Chiều sông Thương được Hữu Thỉnh sáng tác vào tháng 10 năm 1973, in trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố. Sông Thương với vẻ đẹp dịu dàng đã níu chân người thi sĩ để chắp bút lên những vần thơ ngọt ngào, da diết trong bài thơ “Chiều sông Thương”. Sau đây là  một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Chiều sông Thương, cảm nhận bài thơ Chiều sông Thương  sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật của tác  phẩm.

Phân tích Chiều sông Thương

1. Phân tích tác phẩm Chiều sông Thương

Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa quan họ
nở tím bên sông Thương

nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên

đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bờ con gió xanh

nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang

cho sắc mặt mùa màng
đất quê mình thịnh vượng
những gì ta gửi gắm
sắp vàng hoe bốn bên

hạt phù sa rất quen
sao mà như cổ tích
mấy cô coi máy nước
mắt dài như dao cau

ôi con sông màu nâu
ôi con sông màu biếc
dâng cho mùa sắp gặt
bồi cho mùa phôi phai
nắng thu đang trải đầy
đã trăng non múi bưởi
bên cầu con nghé đợi
cả chiều thu sang sông.

Bài tham khảo

Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca.Trong kho tàng văn học dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu.Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, êm dịu, ngọt ngào trong “ Chiều sông Thương”…

Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong quân đội, ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn và về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Ông nổi tiếng với những bài thơ mang phong cách độc đáo, mới lạ. Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ “Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh là một bài thơ xinh xắn, đáng yêu. Những câu thơ, lời thơ ngọt ngào ấy cứ rạo rực trong lòng, làm căng mở các giác quan và thấm ngọt vào hồn bạn đọc.

Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật. Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều thu thường man mác buồn, nhưng “Chiều sông Thương” lại nhiều thiết tha, bâng khuâng, rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy “nở tím” cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ “dùng dằng” mãi:

“Đi suốt cả ngày thu

Vẫn chưa về tới ngõ

Dùng dằng hoa Quan họ

Nở tím bên sông Thương”.

Thương quê mẹ, quê em “nước vẫn nước đôi dòng” biết bao lưu luyến gợi nhớ, gợi thương đã bao đời: “dòng trong dòng đục, em trông ngọn nào”… Chiều quê, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình “Chiều uốn cong lưỡi hái”. Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về:

“Những gì sông muốn nói

Cánh buồm đang hát lên

Đám mây trên Việt Yên

Rủ bóng về Bố Hạ”.

Nhà thơ – đứa con đi xa trở về say sưa đứng ngắm nhìn cảnh vật, cánh đồng quê hương. Gió thu trở thành “con gió xanh”. Lúa uốn cong trĩu hạt, tưởng như đang “cúi mình giấu quả”. Một chữ “ngoan” tài tình gợi tả dòng nước “đỏ nặng phù sa” êm trôi trong lòng mương lòng máng:

“Nước màu đang chảy ngoan

Giữa lòng mương máng nổi”.

Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương “mạ đã thò lá mới – Trên lớp bùn sếnh sang”: Là những ruộng lúa “vàng hoe” trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm “Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích”. Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình. Không phải là “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu” Cũng không phải là “Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng ” (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm). Mà ở đây là những cô gái Quan họ xuất hiện trong dáng vẻ lao động “để thương, để nhớ, để sầu cho ai :

“Mấy cô coi máy nước

Mắt dài như dao cau”

Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu:

“Ôi con sông màu nâu

Ôi con sông màu biếc

Dâng cho mùa sắp gặt

Bồi cho mùa phôi thai”

Tiếng thơ mang nặng ân tình đối với đất mẹ quê cha, đối với cái nôi mà “em ” đã sinh thành, là nơi anh đã lớn khôn. Biện pháp điệp ngữ “ôi con sông” “ cho” tạo sự ngân nga, thiết tha, bồi hồi, say đắm, cảm xúc dâng trào khiến lòng người xúc động khẽ cất lên lời hát ngợi ca, tự hào về một vùng quê màu mỡ. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn.

“Nắng thu đang trải đầy

Đã trăng non múi bưởi

Bên cầu con nghé đợi

Cả chiều thu sang sông”.

Dòng sông quê hương là mạch nguồn dẫn truyền sự sống, nơi tích tụ dưỡng chất, bồi đắp và dâng cho đời những mùa vàng bội thu, dâng cho đời nhựa sống làm nên sự phồn thịnh của quê hương. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều buông. Vầng trăng non lấp ló như “múi bưởi”. Và con nghé đứng đợi mẹ bên cầu ... hình ảnh nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình khiến hồn người bâng khuâng, rạo rực, thiết tha một tình quê. Cảnh sắc quê hương thơ mộng, hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dào dạt trong hồn người.Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Con sông Thương trong ca dao tưởng như đã nhập lưu với “con sông màu nâu, con sông màu biếc” của Hữu Thỉnh. Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dạt dào như ru hồn ta vào ca dao, cổ tích.

Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang, nhiều biện pháp tu từ độc đáo, hình ảnh thơ đẹp…Chất liệu văn hoá dân tộc dân gian ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ, hơi thơ trong bài “ Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh khiến hồn người cũng đắm say, mơ mộng cùng cảnh vật nên thơ. Chất thơ, tình thơ là ở đấy.... cứ giăng mắc, vấn vương mãi hồn ta về một chiều thu nên thơ, hữu tình.

Nhà thơ Hữu Thỉnh đã bộc lộ nhiều cảm xúc sâu lắng về sông Thương và quê hương quan họ, tình yêu quê hương, yêu đất nước đã ngân nga, thấm chảy trong hồn nhà thơ để rồi cái mạch nguồn dạt dào ấy cứ thiết tha, lắng đọng ngân rung trong từng lời thơ, thơ thơ nhẹ nhàng êm ái trong trong khúc nhạc tâm hồn: “ Chiều sông Thương” – Một bài thơ xinh xắn, đáng yêu, đáng mến!

2. Cảm nhận bài Chiều sông Thương

Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta cảm nhận được sự sâu lắng, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, con người Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ "Chiều sông Thương" với hình ảnh gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết đã mang đến cho bạn đọc những rung động sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương cùng tình cảm chân thành ở nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, ta thấy được hoàn cảnh của nhân vật trữ tình:

"Đi suốt cả ngày thu

vẫn chưa về tới ngõ

dùng dằng hoa Quan họ

nở tím bên bờ sông"

Buổi chiều thu man mác buồn như bao trùm toàn bộ cảnh vật. Không khí lắng đọng của tiết trời ấy đã níu kéo bước chân người xa quê "vẫn chưa về tới ngõ". Trong giây phút bắt gặp hình ảnh thân quen "hoa Quan họ" bung nở sắc tím bên bờ sông, nhân vật trữ tình lại đưa mắt ngắm nhìn toàn bộ cảnh sắc:

"nước vẫn nước đôi dòng

chiều vẫn chiều lưỡi hái

những gì sông muốn nói

cánh buồm đang hát lên"

Với biện pháp điệp cấu trúc "nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái" đã nhấn mạnh cảnh vật quê hương vẫn như xưa, nguyên vẹn không thay đổi. Nổi bật trên nền không gian sông nước rộng lớn mênh mông là hình ảnh những con thuyền. Nhà thơ thật tinh tế khi miêu tả trạng thái tưởng chừng "tĩnh lặng" nhưng lại "động" của chúng. Từng cánh buồm được nhân hóa "đang hát lên" không chỉ khắc họa trạng thái "no căng gió" mà còn diễn tả được niềm vui ở con người qua lời ca, khúc hát. Bức tranh thiên nhiên càng thêm mở rộng nhờ những nét vẽ tài hoa:

"đám mây trên Việt Yên

rủ bóng về Bố Hạ

lúa cúi mình giấu quả

ruộng bời con gió xanh"

Việc lựa chọn và sử dụng từ đã cho ta thấy được sự liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà thơ. Bầu trời cao xa kia dần trở nên mềm mại, có thể "rủ bóng về Bố Hạ". Hạ tầm mắt xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện ra hình ảnh "lúa cúi mình", "ruộng bời". Những cây lúa nặng trĩu hạt đang rung rinh từng ré như báo hiệu một mùa màng bội thu. Cánh đồng bao la, bát ngát bên dòng sông Thương đang tắm mình trong làn gió, gợi từng đợt sóng "xanh". Khung cảnh thiên nhiên thật yên bình, hòa hợp làm sao! Theo dòng chảy của con sông quê, nhà thơ thấy được:

"nước màu đang chảy ngoan

giữa lòng mương máng nổi

mạ đã thò lá mới

trên lớp bùn sếnh sang"

Có thể thấy, mỗi sự vật đều vận hành theo một cách hết sức riêng biệt. "Nước màu" hay còn gọi là nước phù sa vẫn "chảy ngoan" vào "lòng mương", mang theo dưỡng chất cung cấp cho ruộng đồng. Xa xa kia, mấy đám mạ mới gieo đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh mướt non tơ. Lớp bùn đất cũng được cày xới cẩn thận, trở nên láng mướt, mịn màng. Tất cả đang tiếp tục sinh sôi, nảy nở sự sống từng ngày từng ngày như báo hiệu một mùa màng bội thu. Phải chăng, đó cũng là mong ước của nhà thơ và người dân xứ Kinh Bắc "cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng". Chứng kiến sự giàu có, trù phú nơi quê nhà, nhà thơ không khỏi hạnh phúc, say đắm. Thửa ruộng nào cũng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo "sắp vàng hoe bốn bên". Niềm vui sướng tràn ngập, lan tỏa khắp ngóc ngách chốn thôn quê. Lắng nghe dòng chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, nâng niu món quà quý giá mà con sông ban tặng tới người lao động "hạt phù sa tất quen/ sao mà như cổ tích". Hạt phù sa kì diệu như phép màu cổ tích, làm cho đồng ruộng tươi tốt, màu mỡ, mang đến sự thịnh vượng, êm ấm cho quê nhà.

Từ cảm xúc lâng lâng, bâng khuâng khi ngắm nhìn cảnh sắc bên bờ sông Thương, nhà thơ đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp bình yên ấy. Sự xúc động, say đắm được gói gọn trong hai câu thơ "ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc". Điệp từ "ôi" kết hợp với các từ "màu nâu", "xanh biếc" cũng cho thấy tình cảm da diết của tác giả. Dù con sông có màu nâu của phù sa hay trong veo "xanh biếc" thì nó vẫn mang đến sự sinh trưởng, nảy nở "dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi thai".

Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, lời thơ chất chứa cảm xúc kết hợp với các biện pháp tu từ như: nhân hóa "sông muốn nói", so sánh "mắt dài như dao cau" đã khắc họa sinh động bức tranh sông Thương trong buổi chiều thu. Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ cái đầu dòng từ câu thơ thứ hai làm bài thơ giống như một câu chuyện kể đầy tâm tình của người xa quê. Từ đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn in sâu trong tâm trí và trái tim nhà thơ.

Bài thơ "Chiều sông Thương" không chỉ là nét phác họa về bức tranh đồng quê yên ả nơi đồng bằng Bắc Bộ mà còn chan chứa tình cảm yêu mến, gắn bó của Hữu Thỉnh. Mong rằng, bài thơ sẽ sống mãi theo dòng chảy thời gian.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 89
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi