Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Cảnh ngày xuân

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm trong phần I của tác phẩm “Truyện Kiều”, sau đoạn trích chị em Thúy Kiều, thuộc phần “Gặp gỡ và đính ước”. Nội dung đoạn trích: gợi tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân tuyệt đẹp và không khí lễ hội nhộn nhịp, náo nhiệt trong tiết thanh minh. Sau đây là dàn ý phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Cảnh ngày xuân cùng với bài văn mẫu chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích tả cảnh ngụ tình trong Cảnh ngày xuân

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

1. Đôi nét về tác giả, đoạn trích:

- Tác giả

- Đoạn trích: Sáu câu thơ trên là phần cuối đoạn trích “Cảnh ngày xuân” – Những câu thơ miêu tả bức tranh chiều xuân nhuốm buồn khi ngày tàn hội tan, chị em Kiều du xuân trở về.

2. Những vấn đề cơ bản:

- Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả cảnh, tả tình được người đời sau khen ngợi “như máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghìn đời”. Đặc sắc nhất là nghệ thuật tả cảnh ngụ tinh. Bởi thế nhận xét về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong “Truyện Kiều”, Lê Trí Viễn từng tâm đắc: “Riêng về tả cảnh thì Nguyễn Du cũng theo truyền thống có sẵn trong văn học Trung Quốc cũng như trong văn học Việt Nam: Cảnh xen vào tâm trạng con người là để làm nổi bật tâm trạng ấy.”

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là một thủ pháp truyền thống của văn học cổ Phương Đông. TK của ND đã ảnh hưởng sâu đậm phương pháp sáng tác đó, song Nguyễn Du đã vận dụng một cách tài tình đầy sáng tạo. Tài năng ấy đã trở thành sở trường, năng khiếu bậc thầy của thi nhân. Mỗi cảnh trong “Truyện Kiều” đều mang đến cho ta bao cung bậc cảm xúc bởi nhà thơ không chỉ đơn thuần tả cảnh mà thông qua cảnh đề tả tình, bức tranh thiên nhiên cũng là bức tranh tâm trạng, mượn cảnh vật để gửi gắm tâm trạng: “Cảnh xen vào tâm trạng con người là để làm nổi bật tâm trạng. Nhiều khi không trực tiếp tả tâm trạng nhân vật mà xuyên qua cảnh vật gợi lên tâm trạng ấy. Lúc này, cảnh chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích chính là miêu tả tâm trạng. Đó là sở trường của Nguyễn Du mà các tài bút văn học Trung đại khôn sánh”

- Trong “Truyện Kiều”, ta luôn bắt gặp thủ pháp xuyên qua cảnh vật để gợi tâm trạng. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của con người. Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

- Trong khi các thi sĩ khác chỉ đi một chiều, nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào, còn Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Cảnh đã nhuốm màu tâm trang, tâm trạng đã bao trùm cảnh. Và bức tranh chiều tà khi chị em Kiều du xuân trở về đã mang đến cho ta một bức tranh tâm cảnh. Chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về, tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mộ Đạm Tiên, thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà như mơ, như ảo.

- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.

- Bóng tịch dương đã chênh chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngả về đây”, dòng nước uốn quanh. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả. Cuộc du ngoạn xuân cảnh đã tàn, lễ hội tưng bừng, náo nhiệt đã chấm dứt, tâm hồn con người như cũng chuyển điệu cùng cảnh vật, bước chân người thơ thẩn. Cảnh như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn. Tóc gì? sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh không chỉ biểu đạt sức thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giá bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Đặc biệt hai chữ “nao nao” thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu.

“Nao nao dòng nước

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

“Nao nao” là sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu hay nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, xao động của lòng người ? Giữa cảnh và lòng người dường như không có ranh giới. Dòng nước nhỏ quanh co uốn khúc được nhìn qua tâm trạng nhạy cảm của nàng Kiều trước cảnh chiều tà vắng vẻ, cô tịch. chẳng biết có dự cảm gì phía trước mà lòng cử vấn vương, man mác, nao nao buồn. Cảm giác ấy linh nghiệm biết bao khi Kiều gặp mộ Đạm Tiên “Sè sè.......” - một nấm mộ cô độc, vô chủ với ngọn cỏ rầu rầu nửa vàng nửa xanh thấm sâu vào lòng Kiều một nỗi niềm xót xa thương cảm cho kiếp hồng nhan bạc phận.

- Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn v.v.v. Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ Truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.

- Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” (Khảo Luận về Kim Vân Kiều).

- Thật đúng như vậy, những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc “Truyện Kiều” hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận. Nhất là khi ta đọc những trang tả cảnh ngụ tình tuyệt bút đã mang đến những rung động tinh vi trong lòng người. Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian, từ thể hệ này qua thế hệ khác, lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích Cảnh ngày xuân

Trong Truyện Kiều, biết bao nhiêu lần Nguyễn Du đã dụng công nghệ thuật để miêu tả thiên nhiên có đủ bốn mùa đầy gợi cảm, trữ tình.

Thế nhưng, có lần Nguyễn Du vẽ nên bức tranh thơ bất tử về mùa xuân bằng màu xanh tươi tắn của cỏ non với nét thanh nhã của sắc trắng hoa lê. Để rồi trên cái nền xuân mênh mông, êm đềm ấy xuất hiện những trang giai nhân tuyệt sắc. Để rồi giai nhân - tài tử - mùa xuân và tình yêu đôi lứa chớm nở, đã mang cái đẹp đến cho đời và làm bùng vỡ cảm xúc thẩm mỹ của người yêu thơ Việt Nam qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.

Xuân đã vào tháng ba - tiết thanh minh, rộn ràng những cánh én trong nắng ấm. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân bằng sự kết hợp tuyệt vời giữa thảm cỏ xanh non trải dài tận đến chân trời. Điểm trên cái nền xanh mênh mông rợn ngợp ấy, là những cánh hoa lê màu trắng thanh nhã. Tác giả dùng từ “điểm” thật phù hợp, tạo nét thanh nhã, đúng với tình cảm trong sáng thanh lịch của “nam thanh nữ tú” đang du xuân.

Đó là màu sắc tinh khôi, trong trẻo, giàu sức sống và gợi cảm, là nét đặc trưng của mùa xuân. Bức tranh xuân đã làm say lòng người.

Tám dòng tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.

Nét văn hoá tảo mộ giàu tính truyền thống, trở thành nét đẹp trong tâm hồn con người.

Hội Đạp thanh gợi cái nét thanh tao mà gần gũi. Có gì thanh bình bằng dạo chơi trên cánh đồng quê lúc cỏ non vừa vươn dậy sau những cơn mưa xuân lất phất. Đâu đó thoang thoảng mùi hương trầm tỏa ra từ những ngôi mộ hòa quyện vào tâm hồn người du xuân thành niềm thiêng liêng khó tả.

Đoạn thơ giàu giá trị biểu cảm thể hiện qua các danh từ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân tất cả mọi người xa gần đều trong tâm trạng “nô nức” sắm sửa, dập dìu đến phó hội.

Ngoài các động từ, danh từ được đưa vào thật đắt, Nguyễn Du còn hào phóng thêm vào các tính từ nô nức, gần xa và hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần gợi tả, làm nổi bật không khí, khung cảnh nhộn nhịp ngày xuân và tâm trạng phơi phới của khách chơi xuân.

Điểm trên khung cảnh ấy là những thoi vàng với tro tiền giấy bay càng làm cho khung cảnh có phần sâu lắng. Điều ấy làm nổi bật nét đẹp văn hoá truyền thống giàu tính nhân văn trong tiết Thanh minh.

Sáu câu cuối tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh hiện lên lúc chiều tàn, không còn nhộn nhịp mà như lặng dần và nhuốm buồn.

Những từ láy “tà tà, thanh thanh, nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật và tâm trạng con người cũng “nao nao” như dòng nước. Phép nhân hoá độc đáo khiến cho cảnh vật như có tâm trạng.

Cảm giác vui xuân còn lâng lâng thì tác giả đã điểm vào lòng người một thoáng buồn qua hình ảnh “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” có màu thanh thanh lành lạnh như tiên cảm cho một điều chẳng lành, dự báo một thiên đoạn trường…

Đoạn thơ có kết cấu hợp lý và ngôn ngữ giàu tính tạo hình; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và những từ láy giàu tính biểu cảm.

Với mười tám dòng thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân thanh nhã với nét chấm phá tuyệt vời và nhuốm đầy tâm trạng con người với dự cảm ẩn chứa niềm đau.

Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân

Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một tác phẩm hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp bút pháp tả và gợi với những chi tiết mang tính ước lệ mà vẫn vô cùng chân thực, giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để miêu tả khung cảnh ngày xuân.

Trước hết là bốn câu thơ đầu , với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.

Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình", Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đây vừa là tả thực, lại vừa nhuốm màu tâm trạng nhân vật trữ tình trong thơ.

Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Cảnh vật như trở nên nhạt dần đều, cái khung cảnh rộn rã, náo nức, tưng bừng lúc sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh lặng, yên ả. Không gian xuân co gọn lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn chứ không mở ra rộng lớn, mênh mông, vô tận như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của người ra về. Phong cảnh thì "thanh thanh" nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê thì uốn quanh "nao nao" và chiếc cầu "nho nhỏ" thì "bắc ngang" cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, phảng phất một nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.

Nếu như ở bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào lúc sáng sớm hiện lên căng tràn, đầy nhựa sống, bao la, vô tận trong màu sắc xanh non, biếc rờn của cỏ cây thì đến sáu câu cuối, bức tranh xuân khép lại trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt ngã về phía tây, co gọn lại thật nhỏ bé và nhuốm màu sắc tâm trạng con người. Cảnh chuyển rất tự nhiên và hợp lý.

Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất độc đáo, giàu sức gợi của nhà thơ. Đó là một bức tranh mùa xuân giàu chất thơ, chất họa, rất sống động, nhịp nhàng.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 6
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm