Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. HoaTieu.vn xin gửi tới bạn đọc mẫu bài tham luận, bài thu hoạch về công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay 2024.

Bài viết nêu rõ việc công tác bảo vệ ANQG phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của nhà nước: là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn đảng, toàn quân, toàn dân của các cấp, các ngành. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây để có thể lập được bài tham luận cho riêng cá nhân mình.

1. Tham luận Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn đảng, toàn quân, toàn dân
Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn đảng, toàn quân, toàn dân

Đại hội XIII xác định mục tiêu tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là: Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, điểm mới về mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia ở đây là: bảo vệ con người, an ninh con người và xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh bằng các biện pháp mới hơn, mạnh hơn đó là: Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại” để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia. Đại hội XIII đã bổ sung nội dung Kết hợp với sức mạnh thời đại để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp nhằm bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia.

Để thực hiện được mục tiêu và tầm nhìn đã được Đảng nêu ra, Đại hội XIII xác định 05 quan điểm chỉ đạo đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó có quan điểm: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi… xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Đây là sự kế thừa nội dung Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc đã được Đảng nêu ở các kỳ Đại hội trước. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh nhiều vấn đề khu vực, quốc tế diễn biến phức tạp, khó dự báo, lợi ích đan xen nhau, nên Đại hội XIII đã nhấn mạnh để thống nhất trong tư duy nhận thức và hành động của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

Trong nội dung phương hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Đại hội XIII xác định phương hướng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Điều này khẳng định tư duy và định hướng xa hơn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó cũng nhấn mạnh nội dung an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương cho phù hợp với bối cảnh hiện nay đó là: Coi việc giữ vững an ninh quốc gia vừa là mục tiêu, giải pháp để phát triển bền vững đất nước; đồng thời thể hiện tư tưởng chỉ đạo phát triển để giữ vững an ninh, an ninh để phát triển, an ninh trong phát triển./.

2. Tham luận Công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay

An ninh quốc gia (ANQG) và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội (TTATXH) là vấn đề hệ trọng của một quốc gia. Từ thực tiễn cho thấy, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, đất nước, Đảng ta đã luôn coi trọng nhiệm vụ an ninh, quốc phòng nói chung và bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH nói riêng. Căn cứ vào tình hình trong nước, khu vực và thế giới, Đảng đã đưa ra quan điểm, chủ trương về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn.

Các quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH luôn có sự kế thừa, vận dụng, phát triển từ các quan điểm, chủ trương đã có từ trước. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung phân tích, luận giải, làm rõ những vấn đề mới trong quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH giai đoạn hiện nay được thể hiện chủ yếu tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Trong các kỳ Đại hội của Đảng, định hướng xây dựng, phát triển đất nước được xác định trong nhiệm kỳ tiếp theo và tầm nhìn 10 năm. Tuy nhiên, đến Đại hội XIII, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra tầm nhìn chiến lược mới và xa hơn trong xây dựng, phát triển đất nước đến năm 2030: “Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”(1) và đến năm 2045: “Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(2). Đồng thời, Đại hội XIII cũng nêu rõ các quan điểm, chủ trương chỉ đạo quan trọng để hiện thực hóa tầm nhìn đó trên thực tiễn, trong đó, có quan điểm, chủ trương về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH.

Thứ nhất, về phương hướng bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Đại hội XII nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững an ninh chính trị, TTATXH”(3). Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định vấn đề này và bổ sung: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm TTATXH, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”(4). Trong đó, đã bổ sung cụm từ “bảo đảm” trước “trật tự an toàn xã hội” để thể hiện tính chủ động và nhấn mạnh hơn vấn đề này. Âm mưu của các thế lực thù địch, phản động không thay đổi với mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ, nhà nước XHCN ở nước ta. Do vậy, Đảng ta tiếp tục khẳng định “giữ vững an ninh chính trị”. So với Đại hội XII, Đại hội XIII đã bổ sung vấn đề bảo đảm “an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, thời gian tới, sự nghiệp bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH phải tiếp tục quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động thực tiễn các quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”(5); “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(6); “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(7).

Thứ hai, về phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Nghị quyết Chiến lược bảo vệ An ninh quốc gia năm 2019 đã khẳng định củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp bảo vệ ANQG. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định giá trị về bài học “phát huy sức mạnh tổng hợp” và làm sâu sắc hơn: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng XHCN”(8).

Hiện nay, vị thế của đất nước ta đã được nâng lên tầm cao mới. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(9). Nhân dân đặt niềm tin và kỳ vọng vào những quyết định đúng đắn của Đảng để phát triển đất nước nhanh, bền vững hơn. Do vậy, phát huy sức mạnh tổng hợp phải được đưa lên tầm cao mới, không chỉ “phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp”(10) như đã nêu ở Đại hội XII, mà phải “phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp” để không bỏ lỡ thời cơ thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và năm 2045. Quan điểm về phát huy sức mạnh tổng hợp được thể hiện ngay trong chủ đề của Đại hội XIII: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”(11). Hiện nay, cần chú trọng phát huy sức mạnh tổng hợp từ các nhân tố trong nước để thể hiện ý chí tự lực, tự cường. Sức mạnh đó đến từ sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ của các cơ quan, ban, ngành trong bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, đặc biệt là nâng cao chất lượng và hiệu quả phối hợp, “hiệp đồng tác chiến” giữa các cơ quan Nội chính và giữa các cơ quan Nội chính với các cấp, các ngành, bảo đảm chặt chẽ, thường xuyên, nhịp nhàng với tinh thần: “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”(12).

Bên cạnh đó, Đại hội XIII cũng đã nhấn mạnh “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước”, “ý chí tự cường dân tộc”, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của “nền văn hóa, con người Việt Nam”(13) và “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội”(14) để phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Trong bối cảnh thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo và tạo ra thời cơ mà chúng ta cần phải tận dụng, tranh thủ cho sự nghiệp bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Đại hội XIII đã bổ sung “kết hợp với sức mạnh thời đại” để “phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp”.

Thứ ba, về “an ninh chủ động” trong bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. “An ninh chủ động” là bài học kinh nghiệm quý báu được đúc rút từ thực tiễn bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội qua các thời kỳ. Đại hội XII xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”(15); “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng dự báo tình hình”(16).

Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo. “Cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn”(17). “Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”(18). Tình hình nêu trên đặt ra yêu cầu “an ninh chủ động” trong bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH phải đặt ở mức độ cao hơn. Đại hội XIII nhấn mạnh phải “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”(19), “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”(20), “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống”(21). Trong đó, điểm mới so với thời kỳ trước là “xác định “chủ động phòng ngừa” là chính”(22) nhằm loại bỏ từ sớm, từ xa nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh phức tạp về an ninh, trật tự. Đồng thời, đặt ra yêu cầu cao hơn với công tác dự báo tình hình. Đại hội XII yêu cầu “nâng cao chất lượng dự báo tình hình, đến Đại hội XIII xác định phải “nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống”(23). Như vậy, công tác dự báo cần phải nâng tầm ở cấp độ “chiến lược”, xa hơn, rộng hơn để “chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến”(24). Đại hội XII nhấn mạnh về “nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Tuy nhiên, Đại hội XIII không nhấn mạnh nhân tố bên trong hay bên ngoài mà chỉ đề cập “những yếu tố nguy cơ gây đột biến”. Theo đó, công tác dự báo “chiến lược” phải toàn diện, không nên coi trọng hay xem nhẹ các nhân tố bên trong hay bên ngoài.

Bên cạnh đó, điểm mới trong tinh thần “an ninh chủ động” còn được thể hiện rõ nét ở việc mở rộng phạm vi bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, gồm môi trường trên bộ, trên không, biển, dưới lòng đất và không gian mạng. Ngoài ra, “an ninh chủ động” được quán triệt cả trong giải quyết các vấn đề về an ninh phi truyền thống: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh”(25).

Thứ tư, về kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH với xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Đại hội XII khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”(26). Vấn đề này đã được phát triển toàn diện hơn tại Đại hội XIII: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”(27). Điểm mới là đặt vấn đề “đối ngoại” cùng với “kinh tế, văn hóa, xã hội” khi kết hợp với quốc phòng, an ninh (trong đó đã gồm vấn đề ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội). Điều này có nghĩa là cần phải cân nhắc, tính toán cùng lúc các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại khi giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Đại hội XII xác định sự kết hợp “chặt chẽ”. Trong tình hình mới, phải kết hợp “hiệu quả” để không lãng phí các nguồn lực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XII chỉ xác định sự kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong “từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo” và “kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”.

Đến Đại hội XIII đã phát triển, nâng tầm tư duy toàn diện hơn về vấn đề này và đặt ra yêu cầu phải kết hợp an ninh, quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc” và “trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”(28).

Đặc biệt, thực hiện chủ trương xây dựng xã hội số, nền kinh tế số thì cần phải kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại với nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH trên không gian mạng theo tinh thần Nghị quyết về Chiến lược An ninh mạng quốc gia năm 2018.

Thứ năm, quan điểm, chủ trương về “an ninh con người” trong bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. “An ninh con người” được đề cập lần đầu tiên tại Đại hội XIII: “Tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và là động lực phát triển quan trọng của đất nước”(29). Đây là đột phá trong tư duy của Đảng dựa trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ khi nào người dân được sống bình yên, ấm no, hạnh phúc, được tạo điều kiện để học tập, nghiên cứu, cống hiến cho xã hội thì đất nước mới cường thịnh. Đại hội XIII đã khẳng định: “Chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân”(30); “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu”(31). Để bảo đảm “an ninh con người”, Đại hội XIII đã đưa ra giải pháp: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(32). Điều này nhất quán với quan điểm, giải pháp mà Chiến lược bảo vệ An ninh quốc gia năm 2019 đã nêu về các chỉ số “an ninh, an sinh, an toàn xã hội”. Những chỉ số này luôn gắn liền với cuộc sống của người dân, trong đó bao gồm các vấn đề như: An ninh lương thực; chất lượng cuộc sống; việc làm; chăm sóc y tế; giáo dục, đào tạo; văn hóa tinh thần; không gian sống; khả năng tiếp cận các dịch vụ đô thị, dịch vụ an sinh; an sinh về nhà ở; di chuyển và giao thông công cộng; lương hưu và trợ cấp; an toàn về giảm tội phạm; an toàn về dịch bệnh; an toàn thông tin mạng; an toàn thực phẩm; an toàn môi trường không khí; an toàn nguồn nước; an toàn tài sản; an toàn về quyền riêng tư… Đây là bước đột phá trong tư duy, nhận thức và tầm nhìn của Đảng ta khi đánh giá, nhìn nhận vấn đề “an ninh con người”. Bảo đảm “an ninh con người” là vừa là mục tiêu, động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH nói riêng.

Thứ sáu, về ứng phó với vấn đề an ninh phi truyền thống. Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH được nhận thức toàn diện hơn, không chỉ có vấn đề an ninh truyền thống mà còn bao gồm vấn đề an ninh phi truyền thống như an ninh mạng, khủng bố, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh tài chính - tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh môi trường, dịch bệnh, thiên tai, an ninh con người... Đại hội XII xác định: “Sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống”(33).

Đây là thời điểm nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống còn bước đầu được nhận diện. Cho đến nay, an ninh phi truyền thống đã được Đảng ta nhận diện rõ nét hơn và đã đổi mới tư duy giải quyết vấn đề này: “Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh”(34); “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh”(35). Đại hội XIII đã đặt ra yêu cầu cao hơn là phải ứng phó “kịp thời, hiệu quả” và “thích ứng có hiệu quả”. Điều này đã thể hiện tính chủ động và thích ứng cao hơn.

Thứ bảy, về xây dựng lực lượng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, sắp xếp bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã xác định quan điểm về bố trí lực lượng Công an nhân dân theo hướng tăng cường lực lượng trực tiếp chiến đấu và tăng cường cho cơ sở; sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy Bộ Công an, giảm đầu mối tổ chức ở cơ quan Bộ, Công an cấp tỉnh để tăng cường cho lực lượng Công an cấp huyện, cấp xã. Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh vấn đề này: “Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đủ mạnh, đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự ở cơ sở”(36). Hiện nay, tại địa bàn cơ sở vẫn có nhiều lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT chưa được thống nhất đầu mối chỉ đạo. Vì vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh “xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở” là định hướng tư duy mới, đúng đắn để bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội từ sớm, từ xa và giúp cụ thể hóa phương châm bốn tại chỗ “chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ”(37) nhằm “chủ động nắm tình hình, kịp thời dự báo, phát hiện các vấn đề bức xúc nảy sinh, có phương án phù hợp giải quyết các vụ tranh chấp, khiếu kiện, đình công, lãn công ngay từ đầu và tại cơ sở”(38).

Thứ tám, về xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Văn kiện Đại hội XII đã nêu: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh”(39). Trước bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, nhiều cơ chế, thiết chế khu vực và thế giới hình thành đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục bổ sung hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh. Đảng ta đã đưa ra định hướng tư duy hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh phải đặt trong bối cảnh “điều kiện mới” của khu vực và thế giới diễn biến nhanh, phức tạp. Trong đó, đã xác định: “Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh và liên quan đến quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”(40); “Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”(41).

Thời gian tới, để quán triệt hiệu quả các quan điểm, chủ trương nêu trên của Đảng vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, ngành Nội chính Đảng cần chú ý thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:

Một là, tiếp tục nghiên cứu, tham mưu làm rõ hơn điểm mới trong quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Những nội dung nêu trên chỉ là kết quả nghiên cứu bước đầu. Quan điểm, chủ trương về bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của Đảng mang tính ổn định, có tính chiến lược và được điều chỉnh, bổ sung, phát triển để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn. Do vậy, nghiên cứu phải có hệ thống để thấy rõ được sự kế thừa, bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ và tìm ra điểm mới. Trên cơ sở đó mới hiểu đúng, hiểu sâu để quán triệt hiệu quả vào thực tiễn bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH.

Hai là, tiếp tục nghiên cứu, nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng về các lĩnh vực khác như quốc phòng, kinh tế, đối ngoại, văn hóa, xã hội… nhất là quan điểm, chủ trương mới của Đảng về các lĩnh vực nêu trên, phục vụ công tác tham mưu chiến lược và tham mưu chỉ đạo xử lý những vấn đề cụ thể. Thực tiễn cho thấy, khi giải quyết nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội luôn phải tính toán, cân nhắc giải quyết hài hòa với các nhiệm vụ khác như quốc phòng, kinh tế, đối ngoại, văn hóa, xã hội... Vì vậy, phải nghiên cứu, nắm vững toàn diện quan điểm, chủ trương của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để vận dụng đúng đắn, linh hoạt và kết hợp hài hòa với quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH.

Ba là, chủ động phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, góp phần nâng cao hiệu quả, sức mạnh tổng hợp các lực lượng, phương tiện, công tác, biện pháp để thu thập thông tin, dự báo tình hình về yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Từ đó, phân tích, đánh giá, đưa ra nhận định đúng đắn, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh của đất nước làm cơ sở tham mưu với Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả sự nghiệp bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH trong mọi hoàn cảnh; tham mưu với Đảng điều chỉnh, bổ sung quan điểm chỉ đạo về bảo vệ ANQG và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội một cách linh hoạt, khoa học, sáng tạo, hướng tới mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc ANQG, bảo đảm TTATXH. Qua đó, tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, tham mưu góp phần xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH phù hợp với điều kiện thực tiễn ở nước ta. Tập trung tham mưu xây dựng các dự án luật thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng ta về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH cần tham khảo kinh nghiệm ở các nước phát triển và ưu tiên nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

3. Bài thu hoạch Bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay

Bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên1 của Đảng. Đây là nội dung quan trọng trong các quan điểm chỉ đạo cơ bản về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo của Đảng; cần được toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị, nhất là lực lượng vũ trang quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả.

Bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và là quan điểm nhất quán của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các kỳ đại hội. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, phần định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”2. Đây là sự kế thừa kinh nghiệm, truyền thống hàng nghìn năm “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc, cũng như sự vận dụng, phát triển phù hợp của Đảng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; trong đó, khẳng định bảo đảm quốc phòng, an ninh là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt và cũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, cần được đặc biệt quan tâm trong suốt quá trình cách mạng, mọi giai đoạn lịch sử của đất nước và dân tộc. Đồng thời, nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa tăng cường quốc phòng, quân sự với bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để quán triệt, đưa quan điểm quan trọng này vào thực tiễn cần tiến hành đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực cho các đối tượng phù hợp với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Đây là nội dung, giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm thống nhất nhận thức về quan điểm cơ bản này trong toàn xã hội; từ đó, tạo sự đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực thực hiện, biến quan điểm, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành hiện thực. Do vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng, tình hình, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới; tiếp tục đổi mới tư duy, có cái nhìn đúng đắn cả lý luận và thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc; thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình thế giới, khu vực và trong nước, kịp thời cập nhật những vấn đề tác động đến quốc phòng, an ninh; từ đó, làm tốt công tác giáo dục, thống nhất nhận thức cho mọi đối tượng.

Thực hiện mục tiêu đó, các cấp cần tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp, nhất là năng lực thu thập, tổng hợp, phân tích tình hình, dự báo chiến lược, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, chỉ huy cho cán bộ các cấp, không để bị động, bất ngờ. Cùng với đó, các cấp chú trọng đổi mới tư duy về quốc phòng, an ninh, nâng cao năng lực quản lý về tổ chức, đơn vị, con người, cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu mới; coi trọng nâng cao năng lực thực hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng, hoạt động, đấu tranh, chiến đấu, xử lý kịp thời, chính xác các tình huống, nhất là tình huống chiến lược. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, cần tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; trong đó, tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản, thiết thực về nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, quân sự; tiềm lực, lực lượng, thế trận an ninh. Đẩy mạnh đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh theo phân cấp đối tượng, nâng cao nhận thức, năng lực đánh giá, xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; giải quyết đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa đối tác và đối tượng; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội,... đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, lấy sức mạnh của lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh được hợp thành từ sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân và sức mạnh tổng hợp từ mọi lực lượng, nguồn lực khác của đất nước; giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;… trong đó, sức mạnh của lực lượng vũ trang luôn đóng vai trò nòng cốt. Vì thế, vấn đề quan trọng trước hết, cần vận dụng thích hợp các giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; tập trung vào những vấn đề cơ bản, thiết thực, trọng tâm, trọng điểm. Để làm được điều đó, cần thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an và luôn xem đó là nguyên tắc bất di bất dịch. Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; xây dựng các tổ chức, nhất là tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, v.v. Trên cơ sở đó, quyết tâm thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại; bảo đảm phù hợp với khả năng đất nước, tình hình chính trị, quân sự thế giới và khu vực, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Có quy trình hợp lý phát triển lực lượng (nhất là lực lượng trực tiếp chiến đấu, đấu tranh, lực lượng trẻ), đầu tư vũ khí, trang bị, phương tiện theo hướng xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện, rèn luyện lực lượng vũ trang cần tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp; nghiên cứu phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam,… nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh hiện tại và tương lai, nhất là hoạt động trong điều kiện tác chiến công nghệ cao, môi trường phức tạp, khắc nghiệt. Đồng thời, huy động mọi nguồn lực, tập trung nghiên cứu, triển khai kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng với tiềm lực, thế trận an ninh, bảo đảm vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cả thời bình và thời chiến. Trong đó, cần xác định rõ lộ trình, tổ chức thực hiện tốt các chiến lược trực tiếp liên quan đến quốc phòng, an ninh, như: Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc; Chiến lược Quốc phòng; Chiến lược Quân sự; Chiến lược Bảo vệ an ninh quốc gia; Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia; Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; Chiến lược An ninh mạng quốc gia, v.v. Cùng với đó, việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại cần được đẩy mạnh và gắn kết chặt chẽ với công tác quốc phòng, an ninh; tập trung vào các chiến lược xây dựng, phát triển về từng lĩnh vực, như: chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; chiến lược về khoa học - công nghệ; chiến lược về giáo dục và đào tạo; chiến lược về biển, đảo,… cần bám sát thực tiễn, kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Đây là yếu tố rất quan trọng để đẩy mạnh, phát triển tiềm lực và phát huy hiệu quả nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển sức mạnh tổng hợp bảo đảm quốc phòng, an ninh trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước.

Ba là, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu, rộng, hợp tác giữa các quốc gia ngày càng được tăng cường, phát triển thì các yếu tố đó càng có vai trò quan trọng. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát, tham mưu, đề xuất bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách có liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu mới. Hiện nay, hệ thống pháp luật về công tác quốc phòng, an ninh thường xuyên được củng cố, kiện toàn tương đối đầy đủ và đã phát huy tác dụng tốt trong thực tiễn, như: Luật Quốc phòng, Luật Biên giới quốc gia, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật Dự bị động viên, Luật Dân quân tự vệ; Luật An ninh Quốc gia, Luật An ninh mạng, v.v. Tuy nhiên, tính đồng bộ của một số văn bản luật còn hạn chế, có chỗ bất cập, chưa thống nhất; trong khi đó, thực tiễn lại luôn có sự phát triển, nhiều vấn đề mới đặt ra cần được sửa đổi, bổ sung, hoặc xây dựng mới cho phù hợp, nhất là các vấn đề có sự phối - kết hợp giữa các lĩnh vực, ngành cần được luật hóa và hướng dẫn thi hành bằng các văn bản dưới luật một cách cụ thể. Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế hoạt động về bảo đảm quốc phòng, an ninh phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở bám sát cơ chế chung: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, cần có cơ chế cụ thể, chặt chẽ hơn trong kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng, an ninh với các hoạt động chuyên biệt của các bộ, ngành; quy định rõ trách nhiệm và quy trình hoạt động cụ thể của các đối tượng; khắc phục tình trạng kết hợp hình thức, kém hiệu quả. Đối với chính sách bảo đảm quốc phòng, an ninh, Nhà nước đã có nhiều chính sách động viên, khuyến khích, huy động tinh thần, vật chất, sức người, sức của cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, như: chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo, v.v. Tuy nhiên, trước sự phát triển mới của tình hình thực tiễn, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu, tham mưu giúp Đảng, Nhà nước hoàn chỉnh hơn hệ thống chính sách về lĩnh vực này; chú trọng tính thực chất trong các chính sách, nhất là chính sách đối với người có công, hậu phương lực lượng vũ trang, thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao,… nhằm nâng cao tính hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị trong mọi giai đoạn, nhiệm vụ cách mạng.

Thực hiện mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc của toàn dân tộc ta; tăng cường công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh càng trở nên quan trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; không ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
3 126
0 Bình luận
Sắp xếp theo