16 Bài thu hoạch bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4 năm 2024

Tải về

Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4 năm 2024 nhằm quán triệt những nội dung cơ bản như: Đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh; về phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại trong tình hình mới; .........

1. Chủ đề bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4

Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 năm 2024, hay Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4 2024 có những chủ đề chính như sau:

  • Đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QPAN;
    Chính sách đối ngoại;
  • Văn hóa tư tưởng, dân tộc, tôn giáo;
  • Phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ; biên giới quốc gia, chủ quyền biển, đảo Việt Nam;
  • Luật về quốc phòng, an ninh quốc gia, nghĩa vụ quân sự
Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4
Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4

2. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4

Câu hỏi

Đồng chí nêu nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân? Phân tích nội dung xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng an ninh nhân dân? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

Bài làm:

Dân tộc Việt Nam ta trải qua bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trải qua nhiều cuộc đấu tranh giành chủ quyền dân tộc, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Hồ Chí Minh (30/4/1975), đánh đuổi hoàn toàn các đế quốc xâm lược, non sông thu về một mối. Sau chiến tranh đất nước bắt tay vào xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa .Tuy nhiên chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá chúng ta. Chính vì vậy xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc gắn kết với nền an ninh nhân dân nhằm tạo ra và nhân lên sức mạnh lớn nhất của cả quốc phòng và an ninh trong bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, xây dựng nền quốc phòng toàn dân không chỉ sẵn sàng ứng phó với xung đột vũ trang, đánh thắng chiến tranh xâm lược, mà trước mắt phải làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau khi được học tập bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng và an ninh tôi hiểu được: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân gồm có 3 nội dung chính như sau:

1. Xây dựng tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân.

2. Xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng an ninh nhân dân.

3. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Trong 3 nội dung trên, nội dung xây dựng lực lượng của quốc phòng, nền an ninh là một nội dung quan trọng làm cơ sở để xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và củng cố quốc phòng và an ninh. Theo đó, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất là xây dựng lực lượng chính trị.

Xây dựng lực lượng chính trị của nền Quốc phòng, nền an ninh là một nội dung quan trọng làm cơ sở để xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và củng cố quốc phòng và an ninh. Theo đó, cần tập trung vào thực hiện tốt một số nội dung cơ bản như:

+ Về chính trị - tinh thần

Trước hết, tăng cường công tác giáo dục chính trị tinh thần cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên và nhân dân, có nội dung hình thức và phương pháp thích hợp trong giáo dục, tuyên truyền, vận động nhằm không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là với cán bộ đảng viên; theo đó phải giáo dục đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước; giáo dục 2 nhiệm vụ chiến lược của CMVN, giúp cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân nắm chắc và thực hiện chủ trương chính sách của Đảng; ra sức phát huy nội lực xây dựng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, kết hợp chăm lo xây dựng củng cố quốc phòng và an ninh, giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu chế độ XHCN, rèn luyện ý chí kiên cường, bất khuất anh dũng, tích cực trong lao động sản xuất. Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực tham nhũng, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết, buôn lậu, cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, cưới xin ma chay lãng phí, phát huy truyền thống đoàn kết để xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, chủ động phòng chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.

+ Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở

Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh nhất là phải nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng đảm bảo cho tổ chức cơ sở Đảng và nhà nước đến mọi người dân, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến mọi người dân, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở. Yêu cầu không ngừng đổi mới nội dung, phương thức nhằm nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo trong các tổ chức Đảng, trên mọi mặt, mọi hoạt động nhất là các tổ chức cơ sở Đảng. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của Đảng viên, phát triển Đảng viên mới, cần đặc biệt chú trọng công tác phát triển Đảng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từng đảng viên phải tích cực học tập, rèn luyện tu dưỡng toàn diện về phẩm chất, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kì mới. Cán bộ, Đảng viên phải là người có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định, không để địch mua chuộc, không sa ngã trước lối sống thực dụng, đảng viên phải thực sự gắn bó với nhân dân, tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở địa phương, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, người công dân mẫu mực đi đầu trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng và lôi cuốn vận động nhân dân cùng làm giàu, không cam chịu đói nghèo. Xây dựng đoàn kết thống nhất trong các chi bộ, Đảng bộ, bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng trong lĩnh vực chính trị kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh nhất là tổ chức cơ sở Đảng rèn luyện đội ngũ cán bộ Đảng viên vừa có phẩm chất chính trị tốt, vừa có năng lực công tác toàn diện, công tác phát triển Đảng viên mới nhằm vào những người ưu tú, người lao động giỏi có phẩm chất đạo đức tốt và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, trong cộng đồng dân cư, những người có lí tưởng cách mạng tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân.

+ Xây dựng chính quyền cơ sở.

Chính quyền có chức năng quản lí điều hành xã hội và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh, thực hiện quản lí hành chính Nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội, hướng dẫn và giám sát các hoạt động của nhân dân, tạo thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp làm ăn theo pháp luật, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, thực sự của nhân dân, do dân, vì dân là trách nhiệm của mọi người dân, mọi tổ chức, xây dựng chính quyền vững mạnh gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng quy định phù hợp với từng địa phương và pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ, đủ số lượng và chất lượng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cơ sở. Theo đó, yêu cầu từng tổ chức phải có nội dung và phương thức hoạt động đúng đắn, phù hợp với nhu cầu và lợi ích của hội viên, đoàn viên. Trên cơ sở đó, tập trung rộng rãi và nâng cao tính tự giác của hội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững mạnh, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh trên địa bàn; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua trong sản xuất, xây dựng và chiến đấu thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam.

Nâng cao chất lượng hoạt động của mặt trận tổ quốc và các tổ chức quần chúng ở cơ sở.

Thứ hai là, xây dựng lực lượng quân sự, an ninh

- Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh là nội dung trọng tâm, tạo tiềm lực nòng cốt của quốc phòng, an ninh của KVPT tỉnh, thành phố, huyện, thị xã của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, yêu cầu phải quán triệt phương châm toàn diện, vững trên toàn cục, mạnh ở trọng điểm, có lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động mạnh. Trước tiên tập trung vào xây dựng lực lượng quân sự, an ninh của khu vực PT huyện, xã phường, thị xã, thị trấn.

- Về thành phần xây dựng các lực lượng cơ bản như: dự bị động viên, dân quân và công an xã, trong xây dựng thực hiện tốt chủ trương của đảng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lí với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật đảm bảo cho lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại trước hết là lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch và quán triệt đầy đủ nguyên tắc cơ bản là: bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và công an nhân dân, nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về quốc phòng và an ninh nhân dân.

- Về nội dung xây dựng lực lượng quân sự, an ninh phải được xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức biên chế, VKTBKT, không ngừng nâng cao trình độ, sẵn sàng chiến đấu chất lượng, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, trong đó chất lượng là chính, lấy chất lượng chính trị là cơ sở; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc”, nội dung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị tập trung vào giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của đảng, nhằm giữ vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho các lực lượng vũ trang, giữ vững tăng cường sự lãnh đạo của đảng tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân xây dựng con người và các tổ chức trong lực lượng vũ trang nhân dân có tổ chức cao, có chất lượng cao.

- Lực lượng vũ trang nhân dân phải được xây dựng có tổ chức, biên chế gọn nhẹ, mạnh; có số lượng hợp lí, chất lượng cao, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong thời bình và đánh thắng các thế lực xâm lược khi tình huống chiến tranh xảy ra, trước hết là làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

- Về vũ khí thiết bị và công tác bảo đảm khác; phải khai thác triệt để các nguồn cung cấp từ Bộ quốc phòng, Bộ công an với các nguồn địa phương, đáp ứng yêu cầu hoạt động của lực lượng vũ trang là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, thực hiện tốt bảo quản, sửa chữa vũ khí thiết bị và tích cực nghiên cứu, chế tạo vũ khí mới, tái tạo vũ khí thô sơ; đáp ứng yêu cầu hoạt động, tác chiến của lực lượng vũ trang và nhân dân khi có tình huống xảy ra.

- Trong huấn luyện, phải theo đúng phương châm chỉ đạo (cơ bản thiết thực vững chắc, coi trọng cả HLKT, chiến thuật nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, huấn luyện phải sát với yêu cầu thực tế, yêu cầu nhiệm vụ của từng lực lượng sát với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng an ninh của từng địa phương)...

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải có được nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, điều đó chỉ có được khi được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành ý thức được đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Từ đó vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân để bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

Là một đảng viên và là một giáo viên trong nhà trường bản thân tôi cần phải làm một số vấn đề sau:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền cán bộ giáo viên và Học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng,chính sách và pháp luật của nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, đổi mới công tác quản lí, phát huy tính dân chủ trong cơ quan.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận. Vận động người thân và học sinh chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình. Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

3. Bài thu hoạch lớp cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đối tượng 4

Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4
Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4

Họ và tên: .................

Đơn vị công tác: Trường ...............................

Câu hỏi: Từ nội dung lãnh đạo của đảng, quản lý nhà nước về QPAN liên hệ trách nhiệm của địa phương, ngành trong việc lãnh đạo của đảng quản lý nhà nước về QPAN như thế nào ?

Bài làm

Từ nội dung lãnh đạo của đảng trong quản lý nhà nước về QPAN trách nhiệm của địa phương, ngành trong việc lãnh đạo của đảng quản lý nhà nước về QPAN là:

1. Các ngành và địa phương cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh và các văn bản quy phạm pháp luật về động viên quốc phòng, động viên quân đội, động viên công nghiệp, v.v. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp và cơ quan chức năng của các ngành, địa phương và ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhằm đảm bảo thực hiện công tác QP- AN đạt hiệu quả cao. Trong quá trình thực hiện, ngành, địa phương cần tích cực đổi mới phương pháp tuyên truyền giáo dục; kết hợp tốt giữa quán triệt thường xuyên với tổ chức học tập và lồng ghép trong các buổi sinh hoạt chính trị tại cơ quan, tổ chức, sinh hoạt cộng đồng.

2. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch luôn tranh thủ, lợi dụng những sơ hở trong quản lý, điều hành đất nước (nhất là về kinh tế - xã hội) của Đảng, Nhà nước ta để chống phá. Bởi vậy, các cấp ủy, người đứng đầu các ngành và địa phương cần coi trọng việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác QP- AN. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi của công tác này. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ. Thực tế cho thấy, ở đâu cấp ủy, chính quyền quan tâm cơ quan công an, quân sự địa phương và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thì ở đó, công tác QP- AN đạt chất lượng, hiệu quả.

3. Thấu suốt quan điểm của Đảng về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các ngành và địa phương cần phải kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trong mọi hoạt động. Đồng thời, phải nắm chắc quan điểm: nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, được hình thành trên cơ sở sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh nội lực là chính. Do đó, phải coi trọng xây dựng và phát huy mọi nguồn lực của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Thực hiện công tác QP- AN các ngành và địa phương cần tập trung chỉ đạo kết hợp trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; các dự án trọng điểm quốc gia; các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới, biển, đảo; xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế; xây dựng căn cứ chiến lược, hậu phương chiến lược, công trình quốc phòng; đầu tư phát triển khoa học công nghệ ở trình độ cao; xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng; trong đó, cần coi trọng tính “lưỡng dụng” của các chương trình, dự án. Quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, các bộ, ngành và địa phương cần chú trọng kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch, quy hoạch, dự án trong từng lĩnh vực, bảo đảm vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, vừa tăng cường quốc phòng - an ninh; đồng thời, thường xuyên luyện tập các phương án để kịp thời khắc phục những hạn chế và hoàn thiện phù hợp với thực tế. Để đảm bảo thực hiện sẵn sàng động viên nền kinh tế phục vụ cho thời chiến, các bộ, ngành và địa phương cần phải tích cực chuẩn bị ngay từ trong thời bình.

4. Đối với ngành, cần phải thường xuyên coi trọng việc củng cố, kiện toàn, phát huy vai trò của ban chỉ huy công an,quân sự và đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác QP- AN; tổ chức, xây dựng lực lượng tự vệ có số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là chất lượng chính trị. Nâng cao khả năng phối hợp với cơ quan công an, quân sự địa phương nơi đặt trụ sở để rà soát, bổ sung phương án chiến đấu bảo vệ cơ sở, xây dựng kế hoạch phòng, chống cháy nổ, bão, lũ, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và phòng thủ dân sự tại địa phương, cơ sở. Cùng với đó, cần thực hiện tốt công tác tuyển quân, đăng ký nghĩa vụ quân sự; công tác xây dựng, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động viên và sẵn sàng thực hiện động viên quốc phòng, động viên quân đội, động viên công nghiệp theo kế hoạch. Để thực hiện tốt công tác QP- AN, các ngành còn phải coi trọng, quan tâm chỉ đạo các đơn vị thành viên phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an,quân sự địa phương nơi đặt trụ sở nghiên cứu, đổi mới công tác đăng ký, quản lý, điều chỉnh, sắp xếp các phương tiện kỹ thuật, nguồn dự bị động viên vào các đơn vị dự bị động viên theo đúng quy định.

5. Các ngành, địa phương cần quan tâm bảo đảm ngân sách đối với sự nghiệp QP- AN, thực hiện chính sách hậu phương Quân đội, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và các chính sách xã hội có liên quan đến công tác QP- AN theo quy định của pháp luật. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, nhằm đảm bảo cho công tác QP- AN được triển khai ngày càng hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau khi học xong Lớp bồi dưỡng kiến thức QP- AN đã mang lại cho tôi rất nhiều điều hiểu biết về các vấn đề quân sự, QP- AN nhiệm vụ QP- AN; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; chủ quyền, biên giới, vùng trời, biển, đảo Việt Nam; cảnh giác, phòng, chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta;

Là một giáo viên tôi xin đóng góp hết khả năng của mình vào công cuộc hiện đại hóa-công nghiệp hóa của đất nước, nêu cao tinh thần cảnh giác cao độ trước những lôi kéo từ bên ngoài. Tuyên truyền sâu rộng đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến tận người dân, tuyên truyền vận động CBGV , học sinh, quần chúng hiểu rõ bản chất xấu xa, âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, tránh bị lôi kéo, bị kích động, bình tĩnh, tự tin, linh hoạt giải quyết nhanh chóng, có khoa học, an toàn những biến cố xảy ra trong trường học. Hoàn thành tốt và đầy đủ nhiệm vụ của một người công dân, chấp hành tốt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Bài thu hoạch bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho cán bộ đảng viên cơ sở đối tượng 4

Câu hỏi:

Trong các chuyên đề đã được nghiên cứu đồng chí tâm đắc nhất vấn đề gì? Tại sao. Liên hệ thực tiễn địa bàn cơ sở đồng chí và trách nhiệm của bản thân.

Trả lời:

Dựng nước phải đi đôi với giữ nước, đó là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử. Khi có giặc ngoại xâm cũng như khi đất nước hoà bình thịnh trị, ông cha ta luôn chăm lo kế sách lâu dài, “sâu rễ bền gốc” luyện binh lúc thư nhàn: “ thái bình nên gắng sức, non nước ấy ngàn thu”. Hay quân ở trong dân “ ngụ binh ư nông” sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được phát huy cao độ trong chiến lược phát triển đất nước: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phát triển trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, đó là chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.

Trong các chuyên đề được nghiên cứu trao đổi, thao luận, bản thân tâm đắc nhất chuyên đề 3: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Bởi vì:

Chiến tranh đã đi qua, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập tự do và đang từng bước vững chắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa song các thế lực thù địch tìm đang mọi cách để chống phá cách mạng Việt Nam nhằm triệt tiêu Đảng cộng sản và xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa .Âm mưu của địch là không đánh phá ào ạt bằng lực lượng vũ trang mà trá hình với che đậy dưới hình thức diễn biến hòa bình , đây là chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc dùng biện pháp phi vũ trang là chính, chủ yếu đánh vào tình cảm con người làm cho con người mất phương hướng , mất niềm tin, mất ý chí, phản bội Tổ quốc.

Tình hình thực hiện “Diễn biến hòa bình” và “bạo loạn lật đổ” chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc như thế nào?

- Mục tiêu: Xoá bỏ CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Mục tiêu cơ bản là xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lê Nin thay thế bằng tư tưởng tư sản và xoá bỏ vai trò của Đảng Cộng Sản,trọng điểm là Việt Nam.

- Nội dung chống phá: Toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó lấy kinh tế làm mũi nhọn, lấy vấn đề dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ, lấy ngoại giao để hỗ trợ, lấy quân sự để răn đe trấn áp, mục đích chống phá nội bộ Đảng từ cơ sở đến Trung ương.

- Biện pháp: Phi quân sự là chủ yếu. Thực hiện chống phá công khai và bí mật, với thủ đoạn mềm, ngầm chúng lợi dụng triệt để những sai lầm bên trong và coi trọng xây dựng lực lượng bên trong để lôi kéo tập hợp lực lượng, mua chuộc những cán bộ thoái hoá biến chất tạo dựng ngọn cờ bên trong tự diễn biến - hoài nghi trong nội bộ. Nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Từ “ diễn biến hòa bình”, “ bạo loạn lật đổ” để tạo ra quá trình “ tự diễn biến”, “ tự chuyển hoá” từ trong nội bộ chúng ta: Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và nhân dân. Thủ đoạn đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vào mọi đối tượng trong đó tập trung trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:

- Chống phá về chính trị tư tưởng, văn hoá:

Trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng làm tiêu tan nền tảng tư tưởng trong các tổ chức Đảng, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ.

Phá vỡ khối đại đoàn kết của toàn dân, của các tổ chức chính trị-xã hội. Bằng cách xuyên tạc, chia rẽ, làm cho nội bộ ta không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau, gây rối loạn nội bộ. Nhằm dễ cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội, thậm chí phần tử phản động, thực hiện kế hoạch "kén làm tổ", "chui sâu, leo cao" để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.

Gieo rắc chủ nghĩa thực dụng, văn hóa phương tây, tạo tâm lý hưởng thụ, lối sống tư sản hướng đến nếp nghĩ tư duy theo hướng đối lập đường lối, tư tưởng của Đảng.

- Hoạt động phá hoại kinh tế:

Hiện nay chúng tập trung phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của ta bằng nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt, như việc lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư liên doanh, liên kết (nhất là qua các khâu: vốn, chuyên gia, kĩ thuật), tìm cách phủ định định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện: vừa khuyến khích, ca ngợi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa tư nhân hoá dần dần làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.

- Lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá ta:

Vấn đề tôn giáo, dân tộc hiện nay luôn là mục tiêu kẻ thù hết sức chú trọng lợi dụng để chống phá.

+ Về vấn đề dân tộc: Kẻ thù triệt để khai thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra, để chia rẽ khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa, như việc xuyên tạc, kích động, mua chuộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh Với Đảng, Nhà nước ta để đòi cái gọi là "độc lập quốc gia tự trị".

Đặc biệt chúng chú trọng yếu tố tâm lí và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất (nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây) để tạo dựng xu hướng bất bình với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

+ Vấn đề tôn giáo: Chúng triệt để lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta, để truyền bá mê tín dị đoan và tư tưởng phản động chống chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng những phần tử phản động đội lết tôn giáo để hoạt động gây kích động, phá hoại, xúi giục giáo dân đòi đất xây nhà thờ, chùa chiền... để tập hợp, lôi kéo tuyên truyền kích động nhân dân, từng bước vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với nhân dân vùng có đạo, tiến tới nhen nhóm, cài cắm lực lượng và xây dựng tổ chức phản động chống Đảng và chế độ ta.

- Chống phá trên lĩnh vực quốc phòng an ninh:

Vô hiệu hoá lực lượng vũ trang nhân dân, chủ yếu là quân đội nhân dân và công an nhân dân, đây là lực lượng tập trung nhất bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hoạt động chủ yếu của chúng nhằm phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, rệu rã tổ chức; xói mòn về đạo đức, phẩm chất, lối sống... để dẫn tới giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ, mất phương hướng và thay đổi bản chất cách mạng của mình.

Tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội - công an, chia rẽ nội bộ, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt quân đội và nhân dân, quân đội và Đảng...

Toàn bộ những hoạt động của chúng nhằm phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an "trung lập hoá quân đội và làm phai mờ biến đổi bản chất truyền thống cách mạng của quân đội - công an", "phi chính trị hoá" quân đội - công an.

- Kích động, phối hợp hành động của lực lượng phản động trong nước và phản động ngoài nước:

Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong, để liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại...

Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi.

Để thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần có những phương thức, biện pháp đấu tranh phòng chống diễn biến hòa bình trên các lĩnh vực. Đó là:

- Ổn định chính trị văn hoá:

Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu.

Tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của chi bộ, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động ở chi bộ. Xây dựng củng cố hệ thống chính quyền vững chắc, thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng XHCN trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chống lại chiến lượt diễn biến hòa bình.

Giáo dục lòng tự hào dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội.

Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng con người Việt Nam cả về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn và lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có tâm hồn trong sáng, có tầm cao trí tuệ, giữ vững tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

- Trên lĩnh vực kinh tế:

Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XNCH, không để nền kinh tế trì trệ đi chệch định hướng XHCN.

Phát huy nội lực để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò chủ đạo nền kinh tế nhà nước, thực hiện xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân.

- Trên lĩnh vực tổ chức nhân sự:

Thường xuyên chăm lo tổ chức Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, phát hiện kịp thời cá nhân có biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, nói xấu chế độ để chấn chỉnh giúp đỡ họ nhìn nhận đúng bản chất của vấn đề, có ý thức bảo vệ nội bộ, bảo vệ tổ quốc XHCN.

Củng cố các tổ chức quần chúng, các đoàn thể cách mạng hoạt động hiệu quả.

Tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn trong nhân dân.

- Trên lĩnh vực ngoại giao:

Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đảm bảo lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia.

Nâng cao cảnh giác, hành động thận trong, tỉnh táo, không để rơi vào thế bị động.

- Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo

Đầu tư xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho các bộ phận dân tộc. Phát huy bản sắc tốt đẹp của dân tộc, đề cao dân chủ, tôn trọng tập quán tự do tín ngưỡng, chống mọi hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, mọi hành vi lợi dụng tôn giáo, dân tộc gây rối trật tự, trị an tiếp tay cho địch.

- Trên lĩnh vực quốc phòng an ninh:

Giữ vững quốc phòng an ninh quốc gia và bảo vệ toàn vẹn lãng thổ tổ quốc. Tiếp tục củng cố hoàn chỉnh thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng thế trận phòng thủ ngày càng vững chắc.

Thường xuyên tổ chức tốt việc giáo dục quốc phòng cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.

Liên hệ trách nhiệm của bản thân:

Sau khi học xong Lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị quốc phòng - an ninh đã mang lại cho tôi rất nhiều điều hiểu biết về các vấn đề quân sự, quốc phòng - an ninh, truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc; nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; chủ quyền, biên giới, vùng trời, biển, đảo Việt Nam; cảnh giác, phòng, chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta; những văn bản pháp luật về quốc phòng - an ninh. Điều này đã mang lại cho bản thân tôi có một cái nhìn toàn diện hơn về tình hình của đất nước hiện nay, những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt, cũng như lòng tự hào về truyền thống dựng nước giữ nước của dân tộc ta từ xưa đến nay. Không những vậy tôi còn được hiểu thêm về các đường lối quân sự, các chỉ thị của Đảng và nhà nước để thực hiện và chấp hành đầy đủ với tư cách là một công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Là một cán bộ quản lý, là một công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôi xin nguyện sẽ đóng góp hết khả năng của mình vào công cuộc hiện đại hóa-công nghiệp hóa của đất nước, nêu cao tinh thần cảnh giác cao độ trước những lôi kéo từ bên ngoài. Tuyên truyền sâu rộng đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến tận người dân, tuyên truyền vận động CBGV , học sinh, quần chúng hiểu rõ bản chất xấu xa, âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, tránh bị lôi kéo, bị kích động, bình tĩnh, tự tin, linh hoạt giải quyết nhanh chóng, có khoa học, an toàn những biến cố xảy ra trong trường học.hoàn thành tốt và đầy đủ nhiệm vụ của một người công dân và chấp hành mọi quy định về pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã và đang thực hiện âm mưu, thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chúng luôn coi Việt Nam là một trọng điểm.

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết kiên quyết đánh bại chúng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng ta xác định: Chống chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới.

5. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4

Câu hỏi:

Đồng chí nhận thức như thế nào sau khi được bồi dưỡng các chuyên đề kiến thức QP-AN? Liên hệ trách nhiệm, hành động của bản thân trong thời gian tới.

Bài làm

Lớp học bồi dưỡng các chuyên đề kiến thức Quốc phòng an ninh nhằm quán triệt và bồi dưỡng quan điểm, đường lối của Đảng về Quốc phòng và an ninh, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên nhiệm vụ Quốc phòng và an ninh. Tình hình an ninh, chính trị quốc tế, khu vực và trong nước hiện nay để mỗi cán bộ, giáo viên nâng cao trách nhiệm và ý thức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Các chuyên đề trong khóa học rất thiết thực, phù hợp với đất nước trong tình hình mới. Trong đó, tôi quan tâm nhất là Quan điểm, chủ trương của Đảng CSVN về an ninh quốc gia và xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới.

Tôi xin trình bày nhận thức của mình về vấn đề này như sau:

I. Nhận thức

Gắn bó mật thiết với nhân dân là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong lãnh đạo đường lối bảo vệ an ninh, trật tự, nguyên tắc này được cụ thể hóa thành định hướng chiến lược: Xây dựng “thế trận an ninh nhân dân”. Để thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương về xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, lực lượng công an cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp.

Có thể thấy, nhận thức lý luận, tư tưởng, quan điểm của Đảng về xây dựng thế trận an ninh nhân dân được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện, với những nội dung cơ bản:

1. Xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nền an ninh nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.

2. Thế trận an ninh nhân dân của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được xây dựng, củng cố theo hướng toàn dân, toàn diện, trên nền tảng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh và sự ổn định, phát triển bền vững của mọi mặt đời sống xã hội.

3. Phát huy sức mạnh vật chất (tiềm lực kinh tế), sức mạnh tinh thần (tiềm lực văn hóa - xã hội), sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, nội lực với ngoại lực để xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân.

4. Lực lượng nòng cốt tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân là công an, có trách nhiệm tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương phát động phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng, triển khai các đề án, phương án, kế hoạch, bố trí lực lượng bảo đảm an ninh trên các tuyến, địa bàn, lĩnh vực nhằm chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động xâm phạm an ninh, trật tự của đất nước.

5. Kết hợp thế trận an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận lòng dân trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, thế trận lòng dân là nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.

Thể chế hóa quan điểm của Đảng về thế trận an ninh nhân dân, Luật An ninh quốc gia năm 2004, Điều 3, Khoản 10 quy định: “Thế trận an ninh nhân dân là việc tổ chức, bố trí lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và các nguồn lực cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia”; nhiệm vụ xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân được quy định tại Điều 16:

“1. Vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, giáo dục, động viên cán bộ, công chức, người lao động và mọi công dân tham gia xây dựng địa phương, cơ quan, tổ chức vững mạnh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

3. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh quốc gia.

4. Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống”.

II. Liên hệ trách nhiệm của bản thân trong thời gian tới

Là một đảng viên, giáo viên tôi tự nhận thấy mình cần phải thực hiện các việc làm sau để góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc:

+ Nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối XHCN.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” .

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận.

+ Vận động người thân và học sinh chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình.

+ Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

6. Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối tượng 4

Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm phát triển toàn diện chính sách pháp luật về dân tộc, tôn giáo. Đặc biệt trong những năm gần đây do sự phát triển của nền kinh tế cùng với sự du nhập, giao thoa của nền nhiều nền văn hóa đã tạo ra những tác động lớn trong mối quan hệ dân tộc – tôn giáo. Điều này đòi hỏi công tác dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước phải sớm nắm bắt được những tác động, những biến đổi này để có giải pháp khắc phục.

Liên hệ về vấn đề phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi:

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương nhất quán để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Điều này được thể hiện trong Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân tộc trong tình hình mới.

Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 16 dân tộc thiểu số có dân số dưới 10.000 người. Đây là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, điều kiện kinh tế hết sức khó khăn, là nhóm dân tộc dễ bị tụt hậu nhất trong quá trình phát triển của đất nước.

Tuy nhiên nhờ vào sự đầu tư, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước thì khoảng cách giữa các nhóm dân tộc ở nước ta ngày càng thu hẹp. Những sự thay đổi này trước hết phải nhìn vào sự thay đổi của cuộc sống các dân tộc thiểu số, miền núi.

Ở các vùng miền núi, nơi tập trung nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống như Tây Nguyên, các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Tuyên Quang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và các vùng khác được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ phát triền kinh – xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau.

Tính từ năm 2010 đến nay, Chính phủ ta đã thông qua hàng loạt chính sách với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng. Hai lĩnh vực được được ưu tiên chú trọng phát triền là hỗ trợ về giáo dục và hỗ trợ phát triền kinh tế – xã hội thể hiện trong Quyết định số 2123/QĐ-TTg năm 2010, Nghị định số 57/2017/NĐ-CP và Quyết định số 2086/QĐ-TTg năm 2016.

Nhờ vào những chính sách trên cuộc sống của người dân tộc thiểu số đã có những thay đổi rõ rệt và không ai bỏ lại phía sau. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân tộc thiểu số được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm, cơ sở hạ tầng được xây dựng ngày càng hiện đại và khang trang hơn. Về giáo dục thì trẻ em được đến trường, được đảm bảo môi trường học tập và nâng cao chất lượng y tế tại các địa bàn khó khăn.

Có thể kể đến như tại Hà Giang, tỉnh đã thực hiện Quyết định 2086 và trong 2 năm 2019–2020 đã bố trí 73 tỷ đồng để hỗ trợ sản xuất, duy trì các giá trị văn hóa truyền thống và các hoạt động bình đẳng giới.

Theo Chương trình Bảo vệ và Phát triển các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2021 – 2030 tại Quyết định số 499/QĐ-TTg thì chương trình đã hỗ trợ cải thiện tình trạng tụt hậu, kém phát triển của các dân tộc thiểu số rất ít người, giảm tỉ lệ tử vong mẹ và trẻ em, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, bảo đảm sự đồng đều giữa các dân tộc.

Giải pháp:

Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của công tác dân tộc, xây dựng chương trình hành động để thực hiện thắng lợi chính sách đại đoàn kết dân tộc và công tác dân tộc, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng cán bộ, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số. Đảm bảo tỉ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập.

Phát triển kinh tế – xã hội tại các vùng miền núi, vùng còn nhiều khó khăn, xóa đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc. Tiếp tục chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, y tế, văn hóa, giáo dục tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc.

Khuyến khích và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát huy bản sắc văn hóa truyền thống. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của các dân tộc. Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

7. Bài thu hoạch cập nhật kiến thức đối tượng 4

Câu hỏi:

Đồng chí hãy trình bày mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch? Là cán bộ, Đảng viên đồng chí có những giải pháp gì trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị tư tưởng văn hóa? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

Bài làm:

Theo Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến hòa bình” là diễn biến dần dần, cuối cùng đi đến một chế độ chính trị khác, không qua bạo lực; chiến lược không dùng chiến tranh mà dùng hàng loạt phương thức và thủ đoạn, nhằm tạo ra một quá trình diễn biến hòa bình để lật đổ chế độ chính trị ở nước khác.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

Hay có thể nói cách khác “DBHB” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế đội chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xá hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng phương pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.

“DBHB” là chiến lược cơ bản do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành; nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước độc lập, tự chủ, tiến bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng phương pháp phi quân sự, làm cho thể chế chính trị tiến bộ, cách mạng bị thủ tiêu. Từ đó chúng xây dựng chính quyền phụ thuộc, theo chủ nghĩa đế quốc.

Đối tượng của chiến lược “Diễn biến hòa bình” là các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa.

Bản chất của chiến lược “Diễn biến hòa bình” là chống Chủ nghĩa xã hội, chống độc lập dân tộc.

Nội dung cơ bản của chiến lược “Diễn biến hòa bình” là phá hoại các nước Xã hội chủ nghĩa về các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Phương thức và thủ đoạn chủ yếu là tạo dựng và thúc đẩy đối phương vào khủng hoảng toàn diện, từng bước chuyển hóa chế độ chính trị theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc bị chính các thế lực thù địch chống đối dùng bạo lực lật đổ. Trong điều kiện tương quan lực lượng về mọi mặt cho phép, các thế lực thù địch có thể sử dụng lực lượng vũ trang gây bạo loạn, lật đổ và can thiệp, nhằm thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước, xã hội một cách nhanh chóng. “Diễn biến hòa bình” được tiến hành thường là tổng hợp nhiều biện pháp buộc đối phương trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực, nhiều hoạt động chống đối, thúc đẩy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội thành khủng hoảng chính trị tạo ra tình thế bạo loạn lật đổ chế độ.

Chính vì vậy Đảng ta đã xác định được những mục tiêu và đề ra những quan điểm đúng đắn nhằm phòng chống chiến lược “DBHB” bảo vệ vững chắc tổ quốc VN XHCN.

Mục tiêu cơ bản mà Đảng xác định để phòng, chống “DBHB” là làm thất bại chiến lược “DBHB” của địch , giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bỉnh để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, HĐH đất nước, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhât toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc; Bảo vệ Đảng nhà nước nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, an ninh quốc gia; trật tự xã hội và nền văn hóa.

Cụ thể hóa là Đại hội ĐCS VN lần thứ X khẳng định “ Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “DBHB” , bạo loạn lật đổ”.

Đến đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định “… chủ động ngăn chặn, làm thất bị mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.

Vấn đề đặt ra cho mục tiêu chiến lược là phải giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm môi trường hòa bình ổn định lâu dài cho sự nghiệp xd đất nước. Phải lấy việc giữ vững ổn định trính trị làm nền tảng để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, để củng cố quốc phòng, an ninh.

Trên cơ cở quán triệt các quan điểm của Đảng trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh bảo vệ tổ quốc. trong phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của địch, cần nắm vững các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo sau đây:

- Kiên định mục tiêu, giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Về lĩnh vực chính trị.

- Về lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.

Liên hệ bản thân. Là một đảng viên, giáo viên tôi tự nhận thấy mình cần phải thực hiện các việc làm sau để góp phần đầy lùi âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, Đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền cán bộ giáo viên và Học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng,chính sách và pháp luật của nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Thấy rõ “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nguy cơ rất lớn, rất nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ đó nhận rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chuẩn bị tốt về tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần chủ động, sáng tạo, vững vàng kiên định trước mọi diễn biến của tình hình, sẵn sàng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, đổi mới công tác quản lí, phát huy tính dân chủ trong cơ quan.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận. Vận động người thân chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình. Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

8. Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4

Đề bài

Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chống “diễn biến hòa bình”, đồng chí hãy liên hệ nhận thức của bản thân cần làm vấn đề gì?

Bài làm

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu cơ bản, nhiệm vụ cấp bách của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó quân đội và công an là lực lượng nồng cốt. Vì vậy, phải luôn đề cao cảnh giác cách mạng, ra sức xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội.

a, Nhiệm vụ:

Đảng ta xác định nhiệm vụ phòng, chống “DBHB” là phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện lâu dài, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

b, Mục tiêu chiến lược:

Giữ vững sự ổn định chính trị trên cơ sở độc lập dân tộc và CNXH, tạo môi trường hòa bình để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, làm thất bại chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của địch nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, Bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.

Là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam phải thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình và hạnh phúc của nhân dân.

(**) Quan điểm chỉ đạo đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” trên các lĩnh vực an ninh quốc phòng.

- Kiên định giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN NQ TW 8 khóa IX của đảng đã xác định: Ngăn chặn, đẩy lùi mưu toan “DBHB”, nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, xâm hại chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình để phát triển KT, XH… là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp, tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực

- Để giành thắng lợi, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các lực lượng, chủ động tiến công kẻ thù trên tất cả các mặt trận.

- Giữ vững sự ổn định từ bên trong, chủ động phòng ngừa từ bên ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống.

- Giữ vững bên trong là điều kiện, là điểm tựa vững chắc để chủ động ngăn ngừa nguy cơ từ bên ngoài.

- Chủ động phòng ngừa từ bên ngoài là phải nắm chắc âm mưu của địch, thu thập thông tin chính xác, có đối sách phù hợp, không để kẻ địch tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta dưới mọi hình thức.

- Giữ vững bên trong, phòng ngừa từ bên ngoài có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không giữ vững bên trong sẽ không chủ động phòng ngừa từ bên ngoài được, do vậy phải kết hợp chặt chẽ xây và chống trong đó lấy xây làm cơ sở để chống

- Chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ, sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình huống khác có thể xảy ra
Phòng chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nhưng chúng ta cũng không được mất cảnh giác, xem nhẹ các nhiệm vụ khác. Vì thế, phải kết hợp phòng ngừa với tích cực, chủ động tiến công địch cả về chính trị, tư tưởng và cả bằng quân sự khi cần thiết.

* Biện pháp đấu tranh trên các lĩnh vực chủ yếu

- Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa

+ Chính trị: Xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, giữ vững ổn định chính trị và an ninh xã hội bảo đảm cho chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi các tư tưởng lệch lạc, chủ nghĩa cơ hội dưới mọi mầu sắc. giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

+ Tư tưởng văn hóa: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, có bản lĩnh vững vàng, đạo đức trong sáng, giàu tình làng nghĩa xóm, lối sống giản dị, bao dung, nhân hậu, văn hóa, văn minh, đúng kỷ cương pháp luật. Mở rộng giao lưu quốc tế, trên cơ sở giữ vững, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

- Trên lĩnh vực tổ chức nhân sự

Các tổ chức đảng, chính quyền các cấp ở từng địa phương phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là trong công tác cán bộ. Phát hiện sớm và kiên quyết loại trừ nhứng phần tử cơ hội, biến chất ra khỏi hệ thống chính trị của địa phương. Xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền vững chắc, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

- Trên lĩnh vực kinh tế

+ Phát triển kinh tế theo đúng đường lối của Đảng, tìm mọi biện pháp thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với củng cố quốc phòng và an ninh của địa phương. Đẩy mạnh thực hiện xóa đói giảm nghèo, chăm lo ngày một tốt hơn đời sống mọi mặt của nhân dân.

- Trên lĩnh vực ngoại giao

+ Mở rộng quan hệ đối ngoại trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền quốc gia. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhưng phải bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc.

+ Trên quan hệ đối ngoại cần nắm vững nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, không để chủ nghĩa đế quốc can thiệp gây bất lợi cho ta.

- Trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc

+ Thực hiện chính sách ưu tiên về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ làm công tác tôn giáo. Đề cao dân chủ, tôn trọng tập quán, tự do tín ngưỡng của mọi người dân, đồng thời chống mọi hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, mọi hành vi lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để xuyên tạc đường lối của Đảng, gây rối trật tự trị an tiếp tay cho địch, chống phá cách mạng.

- Trên lĩnh vực quốc phòng-an ninh

+ Tăng cường củng cố nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh quốc gia, thực hiện tốt chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục quốc phòng cho mọi đối tượng, làm cho mọi người hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Liên hệ nhận thức của bản thân cần làm

- Thứ nhất : về nhận thức của bản thân.

+ Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng các hình thức, biện pháp phi vũ trang để chống phá Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cả ở trong nước và ở nước ngoài. Đây là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt, nhằm làm suy yếu nền kinh tế, rối loạn về xã hội, làm chệch hướng đường lối chính trị, làm mất sức chiến đấu của các LLVT, cô lập và hạ thấp vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ đó chuyển hóa chế độ XHCN theo con đường tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, tình hình kinh tế - chính trị xã hội trong nước và trên thế giới đang có những biến động mới, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, hội nhập quốc tế càng mở rộng. Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình” với các thủ đoạn tinh vi và quyết liệt hơn, đang đặt ra cho cách mạng nước ta những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lực lượng Đảng viên trẻ cũng phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn mới, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn, để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tri thức khoa học cần thiết và phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp và tác phong công tác đáp ứng đòi hỏi ngày một cao hơn của tình hình, nhiệm vụ mới.

+ Sau khi học xong lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị Quốc phòng- An ninh đã mang lại cho tôi rất nhiều hiểu biết về các vấn đề quân sự, quốc phòng- An ninh, truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc; nhiệm vụ Quốc phòng- An ninh; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền biên giới, vùng trời biển đảo Việt Nam; cảnh giác phòng chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Điều này đã mang lại cho bản thân tôi có một cái nhìn toàn diện hơn về tình hình của đất nước hiện nay, những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt, cũng như lòng tự hào về truyền thống dựng nước,giữ nước của dân tộc ta từ xưa đến nay, sự tự ý thức về vấn đề lãnh thổ, biên giới, chủ quyền và có tinh thần cảnh giác cao độ trước những âm mưu chống phá, lôi kéo của CNĐQ và các thế lực thù địch. Không những vậy tôi còn hiểu thêm về các đường lối quân sự, các chỉ thị của Đảng và Nhà nước để thực hiện và chấp hành đầy đủ với tư cách là một công dân của nước Việt Nam XHCN.

- Thứ hai: Là một Đảng viên tôi nhận thức cần làm một số vấn đề sau:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị trong dân phát huy tính đoàn kết.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền người thân và nhân dân nơi cư trú thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Thấy rõ “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nguy cơ rất lớn, rất nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ đó nhận rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chuẩn bị tốt về tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần chủ động, sáng tạo, vững vàng kiên định trước mọi diễn biến của tình hình, sẵn sàng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhân dân.

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, phát huy tính dân chủ.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận.

9. Bài thu hoạch về diễn biến hòa bình đối tượng 4

Họ và tên: .................................

GV: trường ..................................

Câu hỏi 1. Đ/c hãy nêu mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm của Đảng về phòng chống chiến lược "Diễn biến hòa bình", BLLĐ ở Việt Nam?

Trả lời: Chiến lược “DBHB” là chiến lược cơ bản của CNĐQ và các thế lực thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị-xã hội của các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự.

Mục tiêu:

Giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; làm thất bại âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH và nền văn hoá. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.

Phân tích: Mục tiêu trên chính là nội dung bảo vệ tổ quốc trong NQTW8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

Nhiệm vụ:

Chủ động tiến công địch trên mọi lĩnh vực, không để xảy ra mất ổn định chính trị XH, BLLĐ và các tình huống phức tạp khác, ngăn chặn làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, chính quyền và chế độ XHCN.

Quan điểm:

1. Kiên định giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

+ Đây là mục tiêu xuyên suốt của CM Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

+ Xuất phát từ mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH. Thực tiễn đã chứng minh…

+ ĐLDT và CNXH cũng chính là mục tiêu cơ bản mà các thế lực chống phá.

Nội dung:

+ Kiên định mục tiêu giữ vững cả về lý luận và thực tiễn cả trong tổ choc xây dựng và BVTQ.

+ Đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái phản động.

+ Ngăn chặn đẩy lùi mọi thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, nguy cơ can thiệp quân sự, xung đột vũ trang, xâm hại đến chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

+ Quán triệt và tổ chức thực hiện từ TW đến cơ sở trên tất cả các mặt của đời sống xã hội về 2 nhiệm vụ chiến lược.

Ngày nay độc lập dân tộc và CNXH vẫn là mục tiêu hàng đầu của CM Việt Nam. Xoá bỏ mục tiêu này chính là mục đích chủ yếu của chiến lược “DBHB” đối với Việt Nam.

2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.

Phân tích: Sức mạnh tổng hợp BVTQ:

Cơ sở: Xuất phát từ lý luận về sức mạnh trong đấu tranh cách mạng

Từ kinh nghiệm truyền thống tạo nên sức mạnh của ông cha ta

Từ đặc điểm của công cuộc BVTQ XHCN hiện nay.

Nội dung sức mạnh BVTQ được ĐH Đảng X xác định:

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, được tạo ra trên cơ sở kết hợp các hoạt động: Chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh, đối ngoại…

"Diễn biến hòa bình" chúng chống phá ta toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nên chúng ta cũng phải chống lại trên tất cả các lĩnh vực.

3. Chống "Diễn biến hòa bình" BLLĐ phải nhằm kết hợp ngăn ngừa và đối phó thắng lợi các tình huống chiến lược về QP-AN có thể xảy ra.

NQTW8 (khoá IX) của Đảng ta về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới dự báo có 3 tình huống chiến lược:

+ Tình huống 1: Biến động chính trị trong nước, đe doạ sự mất còn của chế độ

+ Tình huống 2: Bạo loạn ly khai ở một vùng hoặc một số vùng, gây nguy cơ chia cắt đất nước.

+ Tình huống 3: Tạo cớ để can thiệp quân sự, gây xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược nước ta.

Ba tình huống trên nhìn chung có quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Tình huống này có thể là tiền đề cho tình huống kia. Trong đó tình huống 1 và 2 là do hoạt động của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ tạo ra.

Vì vậy chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ là một nhiệm vụ quan trọng cũng chính là trực tiếp ngăn ngừa đẩy lùi các tình huống chiến lược trên để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

4. Nắm vững pháp luật, chủ động, kiên quyết chấn áp các phần tử phản động để bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ.

Cần tăng cường xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ AN quốc gia và QP.

Chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp CM của Đảng và nhân dân. Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao để ngăn ngừa, đập tan mọi âm mưu và hành động gây bạo loạn của kẻ thù. Bên cạnh đó cần đề cao cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hoá” Quân đội, Công an; hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với LLVT.

Phương châm:

1. Giữ vững ổn định bên trong, chủ động phòng ngừa kết hợp giữa “xây” và “chống”.

Vị trí, ý nghĩa: Đây là phương châm chỉ đạo chung cho cả phòng, chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ. Nó thể hiện tính chủ động tích cực của ta trong phòng chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ.

Nội dung:

+ Giữ vững bên trong trước hết là giữ vững sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, QP-AN của địa phương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với địa phương. Kiên định con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc xung quanh Đảng, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Giữ vững bện trong là điều kiện, là điểm tựa vững chắc để chủ động ngăn ngừa nguy cơ từ bên ngoài.

+ Chủ động phòng ngừa trước hết là giữ vững đường lối đối ngoại của Đảng. Mọi hoạt động trên trường quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự... không được phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc, phải góp phần thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Do đó phải nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch, thu thập thông tin chính xác, có đối sách phù hợp, không để kẻ thù tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta dưới mọi hình thức ở địa phương.

+ Giữ vững bên trong và chủ động phòng ngừa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không giữ vững bên trong sẽ không chủ động phòng ngừa được. Do vậy phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống trong đó lấy xây làm cơ sở cho chống.

Lấy xây dựng vững mạnh các tổ chức, của cả hệ thống chính trị để ngăn ngừa, chống lại và đẩy lùi là yêu cầu hàng đầu nhằm đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch.

2. Khi bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp các biện pháp, các mặt đấu tranh; sử lý kiên quyết, nhanh chóng, không để lan rộng, kéo dài.

Phương châm này chỉ đạo phương thức đấu tranh và hành động của ta, trong sử lý bạo loạn lật đổ của địch.

Để thực hiện tốt phương châm trên cần thường xuyên chủ động, phát hiện mọi ý đồ, hành động của địch, bám sát địa bàn, dự kiến kế hoạch, phương án và chuẩn bị sẵn lực lượng chống bạo loạn ở từng cấp. Tổ chức tập luyện thường xuyên để sẵn sàng xử trí kịp thời, nhanh chóng khi tình huống xảy ra.

Tóm lại: Đảng ta đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng và những quan điểm, phương châm chỉ đạo nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền các cấp nhằm đấu tranh làm thất bại âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của CNĐQ và các thế lực thù địch ở Việt Nam. Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Thế nhưng muốn thực hiện được mục tiêu đó thì cần phải có những nội dung giải pháp phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ cụ thể trên các lĩnh vực.

Câu hỏi 2: Phân tích làm rõ những nội dung, giải pháp phòng chống chiến lược "Diễn biến hòa bình" trên các lĩnh vực? Liên hệ bản thân?

Trả lời: Nội dung, giải pháp phòng chống chiến lược "Diễn biến hòa bình" trên các lĩnh vực?

1. Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng văn hoá:

a. Trên lĩnh vực chính trị:

Xây dựng chỉnh đốn, bảo vệ Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng ta thực sự TSVM, nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Tăng cường củng cố các TCCS Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ Đảng. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt, và mọi động của Đảng.

Xây dựng củng cố hệ thống chính quyền các cấp vững chắc, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

+ Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực.

+ Đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng.

Xây dựng củng cố vững chắc trận địa tư tưởng XHCN, trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, tạo ra sức đề kháng chống mọi âm mưu, thủ đoạn, “Diễn biến hòa bình” BLLĐ của địch.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt chính sách XH, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.

+ Củng cố giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

b. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:

Tăng cường công tác tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng. Bảo vệ củng cố vai trò chủ đạo của lý luận CN Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chú trọng công tác giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống anh hùng, niềm tự hào và tinh thần tự cường của dân tộc. Truyền thống dựng nước phải đi đôi với giữ nước.

Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà, bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng, có tâm hồn trong sáng, có tầm cao trí tuệ.

Nắm chắc và giữ vững định hướng XHCN trong các hoạt động VHVN, bảo vệ các thành quả CM trong tình hình mới. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý và kiểm soát chặt chẽ công tác tuyên truyền, xuất bản và có định hướng thống nhất trong chỉ đạo nghiên cứu lý luận, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng- văn hoá trong tình hình mới.

2. Trên lĩnh vực kinh tế:

Quán triệt thực hiện và bảo vệ vững chắc đường lối đổi mới KT của Đảng theo định hướng XHCN, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập KT quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn văn hoá bản sắc dân tộc.

Đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế, thương mại, thông qua kinh tế để chuyển hóa ta về chính trị.

Thực hiện phương châm chủ động hợp tác, đấu tranh kiên quyết, mềm dẻo trong quan hệ kinh tế, hạn chế các mặt tiêu cực do cơ chế thị trường tạo ra trong đời sống xã hội.

Nâng cao ý thức năng lực cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hoàn thiện pháp chế về kinh tế.

Thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, chăm lo ngày một tốt hơn đời sống mọi mặt của nhân dân.

3. Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo:

Tại tỉnh Lâm Đồng của chúng ta có 35 dân tộc anh em sinh sống và cũng có đầy đủ các tôn giáo lớn tồn tại. Đặc biệt có nhiều giáo dân Tin lành và đạo Tin Lành phát triển mạnh trong những năm gần đây. Có âm mưu tách Tin Lành trong Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ra thành Tin Lành Đề Ga riêng nhằm phục vụ mưu đồ thành lập nhà nước Đề Ga tự trị tại tây Nguyên.

Tôn trọng quyền lợi và sự bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân theo đúng pháp luật và tuyền thống văn hoá của Việt Nam.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước với một hệ thống pháp luật đồng bộ đầy đủ, hợp lý.

+ Phát huy tốt vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị XH, các già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo để vận động quàn chúng nhân dân.

+ Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Đầu tư xây dựng phát triển KT, VH, XH, xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo.

+ Thực hiện chính sách ưu tiên, bồi dưỡng đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số.

+ Nâng cao đời sống vật chất tinh thần và dân trí cho nhân dân.

4. Trên lĩnh vực QP-AN:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp QP-AN.

+ Trước hết xây dựng LLVT vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu cao.

+ Nâng cao năng lực và hiệu quả là tham mưu cho Đảng, Nhà nước về lĩnh vực QP-AN.

Tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng đặc biệt là những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.

XD QĐND và CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân.

Tiếp tục củng cố xây dựng, hoàn chỉnh thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận ANND trên từng địa phương.

+ Xây dựng KVPT tỉnh, huyện ngày càng vững chắc.

+ Từng bước hoàn thiện bổ sung kế hoạch A, A2 trên từng địa bàn.

+ Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về QP-AN.

5. Trên lĩnh vực ngoại giao:

Đổi mới tư duy đối ngoại để phù hợp với sự phát triển mau lẹ của tình hình thế giới và trong khu vực.

Xác định đúng đối tượng, đối tác trên tất cả các lĩnh vực. Chủ động tiến công trên hoạt động đối ngoại, vạch trần và làm thất bại các luận điệu xuyên tạc vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam dưới mọi hình thức.

Phân tích quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác theo NQ TW8 (Khóa IX)

+ Vấn đề xác định đối tác và đối tượng là một vấn đề rất hệ trọng và nhạy cảm; cần có cách tiếp cận mới vì thực tế cho thấy trong mỗi đối tượng đều có mặt cần hợp tác; ngược lại trong các đối tác vẫn tồn tại những khác biệt, mâu thuẫn lợi ích với ta, vì lợi ích của mình, ta vẫn gia tăng mặt hợp tác để hạn chế mặt bất lợi. Trong từng lĩnh vực, từng khu vực, từng thời điểm cụ thể lại có những đối tượng và đối tác khác nhau, nếu mơ hồ hoặc cứng nhắc đều có thể rơi vào tình thế lúng túng, bị động tron cách xử lý.

+ Việc xác định đối tác và đối tượng đấu tranh phải theo nguyên tắc: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta.

Vận động Việt kiều tham gia, phát hiện, đấu tranh với những âm mưu và hành động chống phá của bọn phản động trong người Việt lưu vong.

Phối hợp đối ngoại với AN-QP trong phòng chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ, không cho địch lợi dụng lãnh thổ các nước láng giềng để xâm nhập, hỗ trợ, chỉ đạo chống phá Việt Nam.

- Làm tốt công tác đối ngoại nhân dân nhất là các địa bàn biên giới, hải đảo, và những khu công nghiệp tập trung các nước đầu tư cho ta.

Liên hệ bản thân: Phải nhận thức rõ : Tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng đặc biệt là những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
- Với trách nhiệm đầu đủ và khá năng trình độ nhận thức của mình tích cực tham gia vào các hoạt động thiết thực ở nhà trường, từng địa phương để góp phần làm thất bại âm mưu , thủ đọa DBHB- BLLĐ của kẻ địch .Trước hết là phải nêu cao tinh thần cảnh giác,tự bảo vệ mình, tự bảo vệ những tổ chức mình tham gia sinh hoạt.Luôn chủ động giả quyết tốt mỗi quan hệ cả nhân, nhà trường và xã hôi.

Kết luận

Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của CNĐQ và các thế lực thù địch trên đất nước ta là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc dưới một hình thức mới, nhằm giải quyết triệt để vấn đề “ai thắng ai” giữa CNXH và CNTB ở nước ta, góp phần vào thắng lợi chung của CM thế giới. Đặc biệt là trong thời gian sắp đến chúng ta tổ chức Đại hội Đảng các cấp và tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thì CNĐQ và các thế lực thù địch lại càng ráo riết tổ chức các hoạt động chống phá. Vì vậy chúng ta phải thường xuyên quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nắm chắc các hoạt động chống phá của địch thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ. Tích cực tuyên truyền giáo dục cho mọi cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân, LLVT luôn nêu cao tinh thần cảnh giác CM hành động kịp thời, có hiệu quả, nhất định chúng ta đánh bại hoàn toàn chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của CNĐQ và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN./.

10. Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4

Họ và tên: .........................................................

GV: trường .........................................................

Câu hỏi:

Đồng chí hãy cho biết “Diễn biến hòa bình” là gì? Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ “Diễn biến hòa bình”, đồng chí hãy liên hệ nhận thức của bản thân cần làm tốt vấn đề gì trong giai đoạn hiện nay?

Nội dung:

Chiến lược “diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch phản động , đứng đầu là Mĩ dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu, chống phá tiến tới nh»m lật đổ chế độ chính trị -x· héi ở các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự, do chủ nghĩa đế quốc tiến hành.

Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chống “diễn biến hòa bình”, nhận thức của bản thân cần làm :

-Thứ nhất : về nhận thức của bản thân.

+ Để thực hiện mưu đồ chiến lược “diễn biến hòa bình” chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng các hình thức, biện pháp phi vũ trang để chống phá Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cả ở trong nước và ở nước ngoài. Đây là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt, nhằm làm suy yếu nền kinh tế, rối loạn về xã hội, làm chệch hướng đường lối chính trị, làm mất sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang, cô lập và hạ thấp vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào con đường xã hội chủ nghĩa, từ đó chuyển hóa chế độ con đường xã hội chủ nghĩa theo con đường tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, tình hình kinh tế - chính trị xã hội trong nước và trên thế giới đang có những biến động mới, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, hội nhập quốc tế càng mở rộng. Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hoà bình” với các thủ đoạn tinh vi và quyết liệt hơn, đang đặt ra cho cách mạng nước ta những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lực lượng Đảng viên trẻ cũng phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn mới, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn, để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tri thức khoa học cần thiết và phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp và tác phong công tác đáp ứng đòi hỏi ngày một cao hơn của tình hình, nhiệm vụ mới.

+ Sau khi học xong lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị Quốc phòng- An ninh đối tượng 4 khóa ..... năm 20.... đã mang lại cho tôi rất nhiều hiểu biết về các vấn đề quân sự, quốc phòng- An ninh, truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc; nhiệm vụ Quốc phòng- An ninh; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền biên giới, vùng trời biển đảo Việt Nam; cảnh giác phòng chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Điều này đã mang lại cho bản thân tôi có một cái nhìn toàn diện hơn về tình hình của đất nước hiện nay, những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt, cũng như lòng tự hào về truyền thống dựng nước,giữ nước của dân tộc ta từ xưa đến nay, sự tự ý thứ về vấn đề lãnh thổ, biên giới, chủ quyền và có tinh thần cảnh giác cao độ trước những âm mưu chống phá, lôi kéo của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Không những vậy tôi còn hiểu thêm về các đường lối quân sự, các chỉ thị của Đảng và Nhà nước để thực hiện và chấp hành đầy đủ với tư cách là một công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

-Thứ hai: Là một đảng viên trẻ và là một cán bộ giáo viên trong nhà trường bản thân tôi cần phải làm một số vấn đề sau:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+ Thường xuyên vận động, tuyên truyền cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, đổi mới công tác quản lí, phát huy tính dân chủ trong cơ quan.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận. Vận động người thân và học sinh chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội, lợi dụng, lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình.

+ Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

+ Thấy rõ “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nguy cơ rất lớn, rất nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ đó nhận rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chuẩn bị tốt về tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần chủ động, sáng tạo, vững vàng kiên định trước mọi diễn biến của tình hình, sẵn sàng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Người viết bài thu hoạch

11. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4

1. Tổng quan tình hình quốc phòng, an ninh của Việt Nam trong những năm gần đây

Thực hiện mục tiêu đổi mới, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh và văn minh nước ta đã đạt được những thành tựu lớn, tập hợp được sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Nguyên tắc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã đưa nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng đã xác định rõ quan điểm chỉ đạo về quốc phòng và an ninh là nhận thức đầy đủ và toàn diện về nhiệm vụ và mục tiêu bảo vệ Tổ quốc.

Phát triển lý luận, tổng hợp sức mạnh và lực lượng của nền quốc phòng an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cả thời bình và thời chiến.

Đảng và Nhà nước đã thông qua nhiều nghị quyết, luật, nghị định để hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quản lý, điều hành đất nước. Công tác quốc phòng an ninh được thực hiện tốt đã giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tập hợp được sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân.

Tuy nhiên, nước ta hiện nay vẫn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức lớn, có tác động và diễn biến phức tạp, khó lường. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức nhất là tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước.

Một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chủ quan, mất cảnh giác, không nắm chắc tình hình ở cơ sở, không gắn bó với nhân dân. Thế trận quốc phòng toàn dân chưa được xây dựng vững chắc trên một số địa bàn.

Lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ chưa được nâng cao thường xuyên về chiến thuật, kĩ thuật, trình độ khoa học công nghệ nên sức chiến đấu còn chưa cao, chưa đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ. Hoạt động nghiên cứu, dự báo về quốc phòng an ninh còn nhiều hạn chế, việc nắm bắt tình hình vẫn còn để xảy ra sơ hở, bị động, bất ngờ.

Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chống phá Nhà nước ta bằng nhiều thủ đoạn mới, chúng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị nước ta. Mục tiêu của chúng là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo cớ để phát động chiến tranh xâm lược kiểu mới.

Những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, tài nguyên sẽ ngày càng diễn ra phức tạp hơn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột vũ trang. Do đó, nhiệm đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới đòi hỏi phải chủ động nắm bắt tình hình, sáng tạo, quyết liệt, kiên quyết giữ vững nền độc lập dân tộc.

Sự nghiệp quốc phòng an ninh trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu phải chủ động phòng ngừa, triệt tiêu những yếu tố dẫn đến xung đột vũ trang, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh

Bảo vệ Tổ quốc là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân do đó mỗi công dân phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong việc thực nhiệm vụ quốc phòng an ninh, giữ vững trật tự, an toàn xã hội.

Trong tình hình mới, Đảng xác định mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chung. Đồng thời bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, phát triển kinh tế – xã hội.

Sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt, quản lý tập trung thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng an ninh của đất nước.

3. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với an ninh quốc phòng

Trong quy định của Điều lệ Đảng và các văn kiện Đảng qua các nhiệm kỳ đã quy định nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng an ninh là Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh.

Đảng Cộng sản Việt Nam không thông qua bất kỳ một tổ chức trung gian nào, không chia quyền, không nhường quyền lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng an ninh cho bất cứ một tổ chức, cá nhân nào. Sự lãnh đạo của Đảng là duy nhất và tuyệt đối.

Sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, mọi hoạt động của sự nghiệp quốc phòng an ninh. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông qua tổ chức Đảng các cấp. Các cấp ủy Đảng có trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng an ninh theo nội dung và phạm vi đã được quy định cho từng cấp.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quân đội và công an tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt công tác, mọi nhiệm vụ, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Đảng lãnh đạo xây dựng và hoạch định đường lối chiến lược về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đường lối chiến tranh nhân dân, phát triển khoa học quân sự, công tác cán bộ, kỹ thuật hậu cần, công tác đảm bảo trang bị vũ khí…

4. Phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại trong tình hình mới

4.1 Vai trò của phát triển kinh tế gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng an ninh

Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia sẽ đảm bảo tiềm lực quốc phòng an ninh của quốc gia đó vững mạnh, đảm bảo về vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nhân lực cho nền quốc phòng an ninh.

Sự phát triển về kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, tạo nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân sách để phát triển đất nước về mọi mặt, góp phần củng cố tiềm lực quốc phòng an ninh. Tạo điều kiện đổi mới về kỹ thuật, công nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản xuất phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng an ninh. Tạo cơ sở để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lực lượng vũ trang.

Phát triển kinh tế gắn với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tăng cường ổn định xã hội và củng cố tiềm lực quốc phòng.

Nền kinh tế phát triển giúp nâng cao đời sống của nhân dân, gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang, giúp các cán bộ chiến sĩ yên tâm công tác, rèn luyện, nâng cao trình độ kỹ thuật.

Phát triển kinh tế thông qua mở cửa, hội nhập quốc tế tạo tiền đề để phát huy lợi thế, xây dựng tiềm lực quốc phòng an ninh. Nâng cao sự hiểu biết, gắn kết và cơ hội để đầu tư, thương mại, tăng khả năng cạnh tranh. Chủ động hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi sự tham gia có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, quan hệ kinh tế đối ngoại, củng cố thế và lực của đất nước trong bảo vệ Tổ quốc.

4.2 Một số tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến quốc phòng, an ninh

Kinh tế phát triển dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, làm xuất hiện những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, các thế lực thù địch lợi dụng tình hình đó để dụ dỗ, lôi kéo người dân. Chúng kích động người dân gây phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm ảnh hưởng đến việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

Nhiều cá nhân, tổ chức có cơ hội để làm giàu, cải thiện đời sống, việc này có tác động nhất định đến tư tưởng, tình cảm của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm giàu bất chính, nhận hối lộ, tài sản bất hợp pháp.

Việc hợp tác đầu tư thương mại quốc tế cũng có nhiều tác động tiêu cực tới quốc phòng, an ninh. Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng con đường hợp tác đầu tư, thương mại móc nối với các tổ chức phản động chống phá.

Chúng tìm cách mua chuộc cán bộ, công chức của ta để lấy các thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh nhằm phục vụ âm mưu lật đổ của chúng. Chúng lợi dụng việc đầu tư vào các lĩnh vực văn hóa, giáo dục để truyền bá văn hóa độc hại vào Việt Nam.

4.3 Một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế gắn với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh

Phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của phát triển kinh tế đối với quốc phòng, an ninh. Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế nhưng đồng thời phải đảm bảo vững chắc an ninh, quốc phòng.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt, xây dựng hoạch định đường lối, chủ trương, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng, an ninh. Thực hiện tốt việc giám sát, thanh tra, kiểm tra tại các cấp cơ sở.

Xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường hoàn thiện đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc. Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ và thực hiện hiệu quả trong cả nước. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng an ninh cần đảm bảo thống nhất trong quản lý và thực hiện hiệu lực, hiệu quả trong công tác lãnh đạo và tổ chức thực hiện từ trung ương đến địa phương.

Phân bổ nguồn ngân sách hợp lý cho công tác quốc phòng an ninh, đồng thời đảm bảo phát triển kinh tế thị trường. Khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia đóng góp lợi ích vật chất và tinh thần cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Phát triển kinh tế, củng cố nền quốc phòng một cách thống nhất, đồng bộ trong các bộ, ngành từ trung ương đến địa phương trên phạm vi cả nước. Hoàn thiện chiến lược tổng thể quốc gia, quy hoạch, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh. Khảo sát, đánh giá nguồn lực, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phương hướng phát triển, điều động, bố trí nguồn nhân lực và chính sách ưu đãi khoa học – công nghệ.

5. Vấn đề dân tộc, tôn giáo gắn với quốc phòng, an ninh trong tình hình mới

5.1 Thực trạng vấn đề dân tộc, tôn giáo và quốc phòng an ninh tại Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc nên Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc, tôn giáo là nhiệm vụ mang tính chiến lược của cách mạng gắn với sự phát triển của đất nước. chính sách về công tác dân tộc, tôn giáo của Đảng và Chính phủ được thể hiện trong các nghị quyết, nghị định đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm khắc trừng trị những kẻ lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng.

Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách chống phá cách mạng. Chúng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, châm ngòi cho những xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo bùng nổ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước luôn có chính sách quan tâm đặc biệt đến vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.

Đường lối đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã quy tụ mọi tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, thành phần kinh tế đoàn kết, tạo được sự đoàn kết trong nhân dân.

5.2 Giải pháp hoàn thiện chính sách về dân tộc, tôn giáo gắn với quốc phòng, an ninh

Đặt vấn đề dân tộc, tôn giáo trong mối quan hệ chung với quốc phòng, an ninh nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Xem xét một cách khách quan, toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và nền quốc phòng toàn dân.

Nhận thức sâu sắc về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy dân làm gốc, thực hiện chính sách an dân, khuyến khích sự tham gia, đóng góp ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân vào công cuộc xây dựng phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc.

Hệ thống chính sách về vấn đề dân tộc, tôn giáo phải được xây dựng ở tầm vĩ mô, kịp thời bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Xây dựng phòng tuyến nhân dân hoàn thiện và vững mạnh. Lấy lòng dân, ý chí sức mạnh của nhân dân làm nền tảng cốt lõi.

Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội, khai thác tiềm năng kinh tế của mỗi địa phương và tập trung phát triển những thế mạnh về hàng hóa của mỗi địa phương để cải thiện đời sống của người dân. Tạo tiền đề vững chắc cho công tác quốc phòng an ninh ở cơ sở, nhất là các địa phương có vị trí địa lý giáp biên giới, vùng hải đảo.

Phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, sáng tạo, có ý thức tiếp nối và bảo tồn truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

6. Liên hệ bản thân

Bản thân tôi nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác quốc phòng an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Là một công dân Việt Nam tôi hiểu rằng bản thân mình cần phải nỗ lực học tập và rèn luyện tốt để cống hiến sức lực và tri thức cho đất nước. Nêu cao tinh thần cảnh giác với các thế lực thù địch, không để những cám dỗ về vật chất tác động đến bản thân, làm suy giảm lòng tin vào Đảng, Nhà nước.

Giữ vững ổn định về tư tưởng chính trị, không để các thế lực thù địch có cơ hội dụ dỗ, lôi kéo. Đấu tranh phòng ngừa, phát hiện những âm mưu, thủ đoạn của cá thế lực chống phá.

Thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh chính trị, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa, với lý tưởng của Đảng, với niềm tin của nhân dân. Thường xuyên nâng cao hiểu biết, nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Đóng góp hết khả năng của mình vào công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong thời đại mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ của một công dân, chấp hành nghiêm chỉnh quy định pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Vận động nhân dân và người thân chấp hành các quy định của pháp luật, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, làm suy thoái tư tưởng chính trị. Phát hiện, tố cáo các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, làm nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

Tăng cường đoàn kết trong nhân dân, tuyên truyền, làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc, tôn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, kiên định về tư tưởng, lập trường, ngăn chặn quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa trong tư tưởng, lối sống.

Xây dựng ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, phát triển kinh tế địa phương đi đối với giữ gìn văn hóa dân tộc và các giá trị truyền thống tốt đẹp.

12. Tài liệu bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối tượng 4

Về tài liệu bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4, các bạn có thể tìm mua và tham khảo cuốn sách dưới đây:

Tài liệu bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4
Tài liệu bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4

Cuốn sách gồm 6 bài:

Bài 1: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay;

Bài 2: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam;

Bài 3: Về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;

Bài 4: Về đảng cầm quyền và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong điều kiện mới;

Bài 5: Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;

Bài 6: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Cuốn sách là tài liệu giá trị, giúp các cấp ủy đảng, các địa phương triển khai chương trình bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.

13. Bài thu hoạch bồi dưỡng kiến thức dân tộc dành cho đối tượng 4 (mới nhất)

Câu hỏi: Anh (chị) trình bày ngắn gọn tình hình thực hiện pháp luật và chính sách hiện hành của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số? Với chức năng, nhiệm vụ của mình, anh (chị) sẽ tham mưu cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cấp ủy, chính quyền địa phương nơi mình công tác thực hiện một trong những chính sách đó như thế nào?

Trả lời:

1. Tổng quan về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc.

Hiện nay Việt Nam là quốc gia gồm 54 dân tộc, trong đó một tộc người đa số - người Kinh và 53 dân tộc người thiểu số, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước. Cộng đồng các dân tộc thiểu số hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của cả dân tộc. Bởi vậy, có thể khẳng định, lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc thiểu số gắn với lịch sử hình thành, phát triển đất nước Việt Nam. Dù các dân tộc cư trú trên lãnh thổ nước ta có nguồn gốc lịch sử khác nhau, nhưng trải qua quá tình lịch sử lâu dài, dựa vào nhau để thích ứng với thiên nhiên và chống kẻ thù bên ngoài để cùng nhau tồn tại và phát triển. Đó là quá trình những cộng đồng dan cư khác nhau về nguồn gốc, tiếng nói và văn hóa đã quần tụ lại, hình thành nên một mối liên kết bền vững - cơ sở của truyền thống đòn kết, tạo nên truyền thống lịch sử quý báu của dân tộc.

Từ khi Đảng ra đời năm 1930, Nhà nước thành lập năm 1945 với quan điểm, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo; với chính sách phù hợp, 54 thành phần dân tộc anh em đã phát huy truyền thống đoàn két để giành độc lập dân tộc, đánh đuổi đế quốc, thực dân, thống nhất đất nước và xây dựng, phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ trước đổi mới (1986)

  • Thời kỳ đấu tranh cách mạng giành chính quyền (1930 - 1945):

Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Đảng chỉ rõ: "...Cách mạng Việt nam... chủ trương thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết rộng rãi của toàn dân tộc chống dế quốc... tập hợp quần chúng công nông chuẩn bị thổ địa cách mạng và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến... Trong cuộc cách mạng này, Đảng phải đoàn kết đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất...".

Đại hội lần thứ I của Đảng (28/3/1935) chỉ rõ: Lực lượng đấu tranh của các dân tộc thiểu số là lực lượng rất lớn. Cuộc giải phóng dân tộc của họ là một bộ phận quan trọng trong cuộc cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương, bộ phận của cách mạng thế giới.

  • Thời kỳ đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954):

Tháng 8/1952, Bộ Chính trị có Nghị quyết về "Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay". Trong đó khẳng định đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến, kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt.

  • Thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)

Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960) nhấn mạnh: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiến quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà..."

  • Thời kỳ xây dựng đất nước sau khi giành độc lập thống nhất Tổ quốc (1975-1985):

Đại hội lần thứ IV (1976) Đảng chủ trương: "Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam... Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình dọ văn hóa, kinh tế giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người; đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp; làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể...".

=> Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc từ khi thành lập luôn được xác định là có "vị trí chiến lược" trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng lãnh đạo công tác dân tộc thể hiện tính lý luận, khoa học và thực tiễn.

Thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)

  • Qua văn kiện các kỳ Đại hội Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XIII

Đại hổi Đảng lần thứ VI (1986): "Phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể, kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã hội".

Đại hội VII (1991), VIII (1996), IX (2001), X (2006), XI (2011), XII (2016): Khẳng định và tiếp tục bổ sung, đổi mới trong việc đề ra chủ trương, đường lối để lãnh đạo hệ thống chính trị về lĩnh vực dân tộc và công tác dân tộc.

Đại hội XII xác định: Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giá dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoạt khối đại đoàn kết dân tộc.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

+ Văn kiện chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới. Triển khai các chương trình dự án phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn”.

+ Trong xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm đẩy mạnh phát triển các vùng, văn kiện đã nêu ra những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, như: Với vùng trung du và miền núi phía Bắc cần “Phát huy các lợi thế về tài nguyên rừng, khoáng sản, các cửa khẩu, văn hoá dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ…”. Đối với vùng Tây Nguyên, bên cạnh phát triển các thế mạnh của vùng cần đẩy mạnh “Phát triển nguồn nhân lực, ổn định dân cư, ưu tiên bảo tồn và khôi phục các giá trị văn hoá truyền thống, bản sắc của các dân tộc vùng Tây Nguyên”.

+ So với các kỳ đại hội trước đây, chủ trương, đường lối về công tác dân tộc được đề ra chỉ mang tính khát quát chung toàn bộ về vùng dân tộc và miền núi thì trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng đã chủ trương chú trọng đến tính đặc thù của từng vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đây được xem là điểm mới có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng nhằm đảm bảo phù hợp với bản sắc văn hoá, phong tục tập quán của từng vùng cũng như từng dân tộc. Vấn đề này không chỉ giúp cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà còn khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thời gian qua, bởi từng vùng hay mỗi dân tộc đều có những đặc điểm khác nhau, nhất là các đặc điểm về bản sắc văn hoá truyền thống.

2. Pháp luật và chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.

Hiến pháp, pháp luật nước ta liên tục hoàn thiện, đáp ứng cơ bản chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các dân tộc thiểu số.

Cụ thể, từ năm 2010 đến nay, có 42 luật với 96 điều đề cập liên quan đến dân tộc thiểu số, chính sách thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn được quy định theo các lĩnh vực : kinh tế, văn hóa - thông tin, giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường, công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Đây là cơ sở, nền tảng chính sách để chính phủ có căn cứ pháp luật cụ thể hóa thành các chính sách dân tộc.

Nhóm chính sách về giảm nghèo:

Nhóm chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh kế, tăng thu nhập cho hộ nghèo, cận nghèo, hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các dịch vụ gắn với tiêu chí nghèo đa chiều như: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin, phát triển hạ tầng các vùng khó khăn, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao.

Chính sách đặc thù riêng với từng vùng miền, định hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có lợi thế của vùng; tổ chức sản xuất hàng hóa lớn gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, tạo ra sản phẩm có thương hiệu, giá trị, hiệu quả kinh tế, sức cạnh tranh cao trên thị trường => nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Chính sách phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đạo nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập người dân.

Nhóm chính sách về tín dụng ưu đãi

Tín dụng đối với hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo, tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội.

Nhóm chính sách giáo dục - đào tạo

Chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục.

Chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập.

Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thông đặc biệt khó khăn

Chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số.

Chính sách hỗ trợ ăn trưa đối với trẻ em mẫu giáo và chính sách đối với giáo viên mầm non.

Đề án củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú.

Chính sách dạy nghề cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số.

Dự án phát triển giáo dụ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhóm chính sách về y tế, chăm sóc sức khỏe

Chính sách bảo hiểm y tế.

Chính sách đối với cán bộ, viên chức y té công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo.

Chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản...

Nhóm chính sách phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Chính sách tăng cường, luân chuyển, ưu đãi, khuyến khích, thu hút trí tuệ trẻ, cán bộ chuyên môn kỹ thuật về tham  gia công tác tại các xã thuộc 61 huyện, xã trọng điểm vùng dân tộc thiểu số, xã thuộc huyện nghèo.

Đề án bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức trẻ ở xã

Đề án bồi dưỡng kiến thức dan tộc đối với cán bộ, cong chức, viên chức giai đoạn 2018-2025...

Nhóm chính sách, cơ chế đăc thù về truyền thông và tuyên truyền vận động, phổ biến giáo dục pháp luật

Trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Truyền thông và giảm nghèo về thông tin.

Đề án đẩy mạnh công tác phổ biến giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.

Nhóm chính sách đặc thù đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội cho các xã, thôn, bản vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn

Chương tình 135 về đầu tư cơ sở hạ tầng các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Chương tình xây dựng nông thôn mới.

Đề án Tăng cường ứng dụng CNTT hỗ trợ đòng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội và đả bảo an ninh trạt tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam 2019-2025.

Nhóm chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người

Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho các dân tộc thiểu số rất ít người.

Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số 2015 - 2025.

Nhóm chính sách, cơ chế đặc thù về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Đề án kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Đè án nâng cao thể lực, tầm vóc người dân tộc thiểu số và miền núi tầm nhìn đến năm 2030.

Nhóm chính sách hơp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2025.

Mục tiêu: Thu hút các nguồn lực vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế, tập thể, cá nhân ở nước ngoài hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

=> Chất lượng các văn bản pháp luật quy định về chính sách dân tộc và công tác dân tộc ngày càng được nâng cao, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, tạo khuôn khổ pháp lý cho những bước phát triển của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể mà các chính sách dân tộc cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp để đảm bảo tập trung vào một số chính sách nhằm giải quyết khó khăn, bức xúc của hộ nghèo ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn. Qua đó, từng bước thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.

Tuy nhiên, hệ thống chính sách pháp luật vẫn còn điểm hạn chế như:

+ Vẫn còn cồng kềnh, phức tạp; một số văn bản pháp luật có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp thực tiễn.

+ Chính sách nằm rải rác ở nhiều văn bản, chưa thể hiện rõ tính chiến lược, tầm nhìn dài hạn, thiếu đồng bộ và tính ổn định, tính dự báo chưa cao.

+ Kết quả thưc hiện còn hạn chế, việc thực hiện một số chính sách còn rời rạc, manh mún và dàn trải, nhiều chính sách chưa đạt được mục tiêu đề ra.

+ Một số vấn đề bức thiết trong đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số như: di cư tự phát, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt... giải quyết chưa hiệu quả, đời sống của một bộ phận đồng bào còn rất khó khăn.

Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thiết văn bản quy phạm pháp luật ở tầm một đạo luật, điều chỉnh thống nhất các chính sách dân tộc, làm công cụ pháp lý để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc, chính sách dân tộc.

3. Liên hệ bản thân

Nhiều năm là giáo viên, hiện tại là cán bộ công tác tại Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai, địa phương đặc thù ở vùng cao đia hình chia cắt, dân cư không tập trung, nhiều điểm trường lẻ (toàn tỉnh có trên có 1.400 điểm trường) có điểm trường cách trường chính gần 20 km; cơ sở giáo dục đến tận thôn, bản; 2/3 cơ sở giáo dục, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trên 70% học sinh ở vùng cao; trên 40% trẻ mẫu giáo, gần 30% học sinh tiểu học ở điểm trường lẻ (chủ yếu là học sinh lớp 1, 2, 3). Tôi khẳng định rằng, các chính sách hỗ trợ của Đảng, Nhà nước cho giáo viên, học sinh dân tộc thiểu số và miền núi rất cần thiết và thiết thực, là nguồn lực hiệu quả giúp thay đổi nhận thưc của phụ huynh học sinh, đưa học sinh đến trường và giúp các thầy cô yên tâm với nghề.

Khái quát một số kết quả đạt được của ngành giáo dục tỉnh Lào Cai trong năm học vừa qua:

- Kết quả thực hiện Thông tư số 109/2009/TTLT-BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của liên Bộ: Tài chính, Giáo dục và Đào tạo về học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên là người DTNT học tại các trường PTDTNT và trường dự bị đại học:

+ Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú hiện nay là trường nòng cốt của giáo dục toàn diện ở vùng cao, có vai trò quan trọng để tạo nguồn nhân lực chất lượng ở địa phương, góp phần quan trọng phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.

+ Việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc chế độ tài chính theo Thông tư 109 đã giúp học sinh có điều kiện để học tập tốt hơn; học sinh bán trú được ăn, ở, chăm sóc tại trường; đủ sách, bút, vở, đồ dùng học tập; gia đình các em bớt đi khó khăn; các cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân phấn khởi, tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường. Từ đó, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu củng cố, duy trì phổ cập giáo dục; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực.

+ Cơ bản các trường nội trú có cơ sở vật chất khang trang, đáp ứng yêu cầu tối thiểu cho hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú.

- Thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn, trường phổ thông dân tộc bán trú theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ: Tăng tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần, giảm học sinh bỏ học, tảo hôn; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội.

- Việc chi trả học bổng, chính sách hỗ trợ cho học sinh nội trú, bán trú được thực hiện đảm bảo theo quy định:

+ Đối với học bổng cho học sinh nội trú, chính sách hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú các trường đã tổ chức nấu ăn tập trung cho học sinh nội trú, bán trú.

+ Đối với chính sách hỗ trợ nhà ở cho học sinh bán trú: Còn một số học sinh bán trú do nhà trường không thể bố trí được chỗ ở cho học sinh thì nhà trường thực hiện thanh toán tiền mặt cho học sinh, cơ bản thực hiện theo tháng.

+ Đối với việc hỗ trợ gạo cho học sinh được thực hiện theo kế hoạch cấp gạo của Trung ương. Việc quản lý, sử dụng gạo được thực hiện theo Nghị định 116 của Chính phủ.

=> Như vậy, sau thời gian xây dựng và triển khai, hệ thống các chính sách hỗ trợ đã có tác động sâu sắc và rõ nét đối với thực trạng giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Nhờ đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo miền núi, dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến đáng kể: hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng đảm bảo đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông hằng năm tăng rõ rệt. Hệ thống giáo dục chuyên biệt (trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học) ngày càng phát huy hiệu quả tích cực. Các chế độ, chính sách đối với giáo viên và người học là người dân tộc thiểu số được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Qua đó đã khuyến khích công tác dạy và học, tạo sư bình đẳng trong giáo dục, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Hạn chế:

Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ của Đảng, Nhà nước trong công tác giáo dục, phát triển nguồn nhân lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, vẫn tồn tại một số hạn chế. Cá nhân tôi đánh giá một số chính sách chưa thỏa mãn yêu cầu thực tế, còn nhiều chồng chéo trong quá trình triển khai; ban hành nhiều chính sách nhưng hiệu quả chưa cao, chưa huy động được sự tham gia của toàn xã hội đối với giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể:

- Thực hiện Thông tư số 109/2009/TTLT/BTC- BGD ĐT, việc trang cấp hiện vật 1 lần cho học sinh nội trú còn thiếu gối, đồng phục. Hiện tại, học sinh chỉ được trang bị 1 bộ/học sinh/4 năm và hằng năm không được mua bổ sung nên học sinh không đủ dùng trong 3 - 4 năm; còn thiếu các tiêu chí xét khen thưởng vì chính sách quy định chế độ thưởng theo kết quả xếp loại khá, giỏi, xuất sắc trong khi hiện nay chương trình học mới đánh giá kết quả học tập là đạt hay không đạt; mức chi bổ sung, sửa chữa dụng cụ nhà ăn tập thể 50.000 đồng/học sinh/năm không đáp ứng được nhu cầu thực tế.

- Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn: Theo đó, học sinh bán trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (khu vực III) được hỗ trợ tiền ăn, tiền ở. Tuy nhiên, chưa có chính sách hỗ trợ cho học sinh bán trú ở các vùng còn lại, rất khó khăn cho công tác giáo dục ở vùng cao.

- Tỉnh Lào Cai có 132 trường có học sinh bán trú ăn, ở tại trường (chưa đủ điều kiện để thành lập trường phổ thông dân tộc bán trú), nhiều trường có từ 100 - 150 học sinh, việc quản lý ăn ở học sinh như trường phổ thông dân tộc bán trú nhưng Trung ương chưa có chính sách hỗ trợ giáo viên quản lý học sinh bán trú.

- Các trường phổ thông dân tộc bán trú, trường có số lượng học sinh bán trú ăn ở tại trường rất nhiều (có từ 200-500 học sinh), nếu không có nhân viên kế toán, y tế, nhân viên bảo vệ thì rất khó khăn trong việc quản lý tài chính, thực hiện các chế độ chính sách, an ninh, an toàn thực phẩm trường học.

- Chưa có cơ chế tài chính, chính sách để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng cao, đặc biệt cho các trường có học sinh bán trú đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học (phòng học, phòng bô môn, thiết bị dạy học: vật lý, hóa học, sinh học...)

Đề xuất, kiến nghị:

Trên cương vị công tác của bản thân, tôi xin có những ý kiến đề xuất với các cấp, ngành cấp trên có thẩm quyền như sau:

- Trung ương, tỉnh có cơ chế đầu tư cho các trường phổ thông dân tộc nội trú để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

- Đề nghị sửa đổi, bổ sung một số chính sách, thông tư cũ để phù hợp hơn với tình hình thực tế hiện nay:

+ Sửa đổi Thông tư 09:

  • Đề nghị trang bị thêm hiện vật cho học sinh; 01 học sinh mỗi năm được trang bị ít nhất 01 bộ đồng phục; hằng năm được mua bổ sung 30% hiện vật trang bị ban đầu; nâng mức chi mua bổ sung, sửa chữa dụng cụ nhà ăn lên 100.000 đồng/học sinh/năm.
  • Đề nghị nâng mức học bổng của học sinh từ 80% lên 100% mức lương cơ bản để đảm bảo mức sống, sinh hoạt tối thiếu cho học sinh.
  • Đề nghị được trang cấp 02 lần/khóa học chăn, chiếu, đồng phục.
  • Giảm mức chi hoạt động văn thể từ 5% xuống còn 3% quỹ học bổng, tránh gây lãng phí do không sử dụng hết và chuyển nguồn kinh phí này cho các hoạt động Trải nghiệm sáng tạo hoặc tham quan di tích lịch sử cho các học sinh ít nhất 1 lần trong một khóa học.

+ Mở rộng đối tượng hỗ trợ tiền ăn, tiền ở cho học sinh bán trú ở khu vực II.

- Cá nhân tham mưu cấp trên, trình ý kiến lên Quốc hội, chính phủ có cơ chế đặc thù hỗ trợ các tỉnh miền núi, vùng cao kinh phí mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, đặc biệt cho các trường phổ thông dân tộc bán trú và trường có học sinh bán trú.

- Thực tiễn giáo dục vùng cao mặc dù các xã khu vực II và xã khu vực III (gồm cả xã khu vực III đạt chuẩn nông thôn mới) có học sinh bán trú ăn, ở tại trường (nhà xa trường, giao thông đi lại không thuận lợi...). Hiện nay, Chính phủ không có chính sách hỗ trợ giáo viên trực tiếp quản lý học sinh bán trú rất khó khăn thực hiện nhiệm vụ quản lý học sinh ăn, ở và hoạt động giáo dục của nhà trường, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện (an toàn, an ninh trường học, duy trì số lượng học sinh bán trú, nề nếp, chấp hành tốt nội quy, quy định, ý thức rèn luyện việc tự học của học sinh...) => Tôi cho rằng Chính phủ và địa phương cần có chính sách hỗ trợ giáo viên trực tiếp quản lý học sinh bán trú ( đối với trường có học sinh bán trú nhưng chưa đủ điều kiện thành lập trường phổ thông dân tộc bán trú).

Trên đây là những ý kiến đóng góp của tôi trên cương vị công tác về những chính sách hỗ trợ giáo dục cho giáo viên, học sinh đồng bào dân tộc thiểu số. Mong rằng thời gian tới, Đảng, Nhà nước sẽ có những thay đổi về chính sách hỗ trợ để phù hợp hơn với tình hình thực tế và chương trình giáo dục đào tạo phổ thông mới, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở địa phương và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng, cũng như của cả nước nói chung.

14. Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 chuyên đề 1

Tham khảo chi tiết:

15. Bài thu hoạch đối tượng 4 có Liên hệ trách nhiệm bản thân về quốc phòng an ninh

Tham khảo chi tiết:

16. Bài thu hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh

Tham khảo chi tiết:

Trên đây là Top mẫu Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4 năm 2024 hay nhất kèm liên hệ bản thân mà HoaTieu.vn sưu tầm và giới thiệu đến bạn đọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo hữu ích, tiết kiệm nhiều thời gian và công sức khi viết bài thu hoạch đối tượng 4.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
16 16.639
16 Bài thu hoạch bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối tượng 4 năm 2024
Chọn file tải về :
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm