Phân tích những hạn chế về năng lực dạy học của giáo viên tiểu học tại đơn vị anh/chị công tác

Hoatieu xin chia sẻ những gợi ý làm bài kiểm tra kết thúc chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học. Phân tích những hạn chế về năng lực dạy học của giáo viên tiểu học tại đơn vị anh/chị công tác. Đề xuất biện pháp để phát triển năng lực nghề nghiệp này cho đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng chuẩn giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông theo TT20- Bộ GD&ĐT. Vận dụng kiến thức đã học để phân tích và đưa ra các định hướng phát triển nghề nghiệp cho bản thân? Mời các bạn tham khảo chi tiết trong bài.

Phân tích những hạn chế về năng lực dạy học của giáo viên tiểu học tại đơn vị anh/chị công tác. Đề xuất biện pháp để phát triển năng lực nghề nghiệp này cho đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng chuẩn giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông theo TT20- Bộ GD&ĐT

1. Phân tích những hạn chế về năng lực dạy học của giáo viên tiểu học tại đơn vị anh/chị công tác

Năng lực dạy học của giáo viên đóng vai trò quan trọng, quyết định đến nghiệp vụ chuyên môn của giáo viên. Trong chương trình GDPT 2018 đang triểu khai, định hướng và yêu cầu giáo viên tiểu học phải chuyển từ trang bị nội dung kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh bằng việc dạy học tích hợp và lồng ghép, trải nghiệm sáng tạo... Tuy nhiên, thực tế cho thấy, năng lực của một bộ phận giáo viên tiểu học vẫn còn nhiều bất cập, trong khi đó giáo viên chủ yếu tích lũy năng lực dạy học qua thực tế hoạt động, đôi khi sự tích lũy này sẽ mang tính chủ quan nhiều hơn.

Có thể hiểu, năng lực dạy học là một thành phần quan trọng trong cấu trúc của năng lực sư phạm. Với giáo viên tiểu học, năng lực dạy học có thể chia ra các nhóm: năng lực chuẩn bị dạy học, năng lực tổ chức dạy học, năng lực đánh giá kết quả học tập. Để đáp ứng yêu cầu của chương trình GDPT 2018, giáo viên tiểu học cần được bồi dưỡng, đáp ứng các yêu cầu về năng lực dạy học gồm:

- Nhóm năng lực chuẩn bị giờ học trong đó bao gồm các năng lực thành phần:

+ Năng lực nghiên cứu chương trình dạy học là năng lực phát hiện, phân tích và nhận biết đầy đủ về chương trình và cấu tạo chương trình dạy học để thiết kế hoạt động học tập phù hợp.

+ Năng lực thiết kế bài học: là nhóm năng lực nhằm tạo ra môi trường học tập phù hợp với đặc
điểm học sinh nhằm thu hút người học tham gia vào hoạt động học tập gồm: Năng lực xác định mục tiêu dạy học; Năng lực thiết kế hoạt động dạy học; Năng lực thiết kế phương tiện dạy học; Năng lực thiết kế học liệu và sử dụng phương tiện dạy học; Năng lực thiết kế môi trường học tập.

+ Năng lực số hóa và ứng dụng ICT trong dạy học: trong bối cảnh giáo dục hiện nay, để đáp ứng yêu cầu khai thác thông tin và phát huy thế mạnh CN 4.0 trong dạy và học, năng lực số hóa và ứng dụng ICT trong dạy học là một năng lực không thể thiếu của người giáo viên. Nhóm năng lực này nhằm hỗ trợ giáo viên trong nghiên cứu chương trình, tổ chức hoạt động dạy học, đặc biệt trong dạy học online. Các năng lực này gồm: Năng lực tìm kiếm, khai thác thông tin, năng lực phân tích thông tin, năng lực số hóa tài liệu, năng lực khai thác thông tin số hóa, năng lực sử dụng trang thiết bị CNTT, năng lực ứng dụng ICT trong công tác dạy học.

- Nhóm năng lực tổ chức dạy học trong đó bao gồm các năng lực:

+ Năng lực phát hiện về học sinh: là Năng lực năng lực quan sát, phát hiện và chuẩn đoán chính xác và kịp thời sự phát triển tâm, sinh lý của HS, những yêu cầu giáo dục đối với từng HS.

+ Năng lực ứng dụng ICT trong dạy học: là năng lực khai thác, sử dụng các thiết bị CNTT & TT
trong đó bao gồm cả thiết bị phần cứng và phần mềm để phục vụ cho quá trình dạy học.

+ Năng lực lãnh đạo và quản lý hành vi học tập của học sinh: là nhóm các năng lực nhằm phát hiện nhu cầu, đặc điểm tâm lý, quan sát đo lường và định hướng hành vi học tập của học sinh gồm: Năng lực quan sát học sinh và hành vi học tập, Năng lực đo lường đặc điểm sinh lý người học, Năng lực điều tra bằng kỹ thuật thông thường, Năng lực thu thập và phân tích dữ liệu học tập.

+ Năng lực tổ chức giờ học: là năng lực thực hiện trực tiếp việc giảng dạy của giáo viên gồm: Năng lực giao tiếp và ứng xử trên lớp; Năng lực hướng dẫn điều khiển. điều chỉnh hành vi học tập; Năng lực giám sát. kiểm tra. đánh giá quá trình dạy học; Năng lực sử dụng phương pháp, phương tiện và công nghệ dạy học; Năng lực thực hiện các biện pháp và kĩ thuật dạy học được xếp vào nhóm năng lực dạy học trực tiếp của giáo viên.

+ Năng lực thực hiện các biện pháp và kỹ thuật dạy học: Các năng lực như năng lực nhận thức, cảm thụ ngôn ngữ; Năng lực biểu hiện ngôn ngữ, trình diễn thao tác mẫu; Năng lực sáng tạo ngôn ngữ; Năng lực phân tích và hướng dẫn học sinh phân tích kiến thức; Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong thực tiễn dạy học; Năng lực hỗ trợ, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh…

- Nhóm năng lực đánh giá và quản lý hồ sơ học tập:

+ Năng lực xác định tiêu chí đánh giá, nội dung đánh giá: là năng lực này tích hợp trong năng lực nghiên cứu chương trình của giáo viên, thông qua đó giáo viên xác định được các nội dung và tiêu chí để đánh giá kết quả giờ dạy.

+ Năng lực thiết kế công cụ đánh giá và tổ chức đánh giá là năng lực tiêu chuẩn hóa, số hóa các nội dung đánh giá, các tiêu chí đánh giá để có thể đo lường dưới dạng thước đo cụ thể điểm số, các bậc giá mức độ đạt, chưa đạt….

+ Năng lực số hóa và ứng dụng ICT trong quản lý hồ sơ học sinh: là khả năng giáo viên thực hiện quản lý hồ sơ học sinh bao gồm điểm số, điểm đánh giá nhằm thực hiện mục tiêu quản lý đánh giá sự đáp ứng của học sinh với yêu cầu học tập.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, một bộ phận giáo viên tiểu học vẫn còn những hạn chế về năng lực dạy học, chưa đáp ứng đúng yêu cầu chương trình GDPT 2018 về năng lực dạy học. Tôi có thể nêu một số biểu hiện hạn chế về năng lực dạy học của giáo viên tại đơn vị như sau:

- Hạn chế về kiến thức chuyên môn:

+ Giáo viên chưa dành nhiều thời gian nghiên cứu và chuẩn bị kĩ giáo án nên chưa xác định đúng mục tiêu, chuẩn kiến thức, nội dung trọng tâm của bài dạy.

+ Giáo viên chưa chú trọng đến phát triển năng lực tư duy của học sinh, chủ yếu chỉ truyền đạt kiến thức thụ động,

+ Lựa chọn nội dung giảng dạy chưa thực sự phù hợp với lứa tuổi, năng lực của từng đối tượng học sinh.

+ Nội dung bài giảng chưa gắn với thực tế đời sống xung quanh học sinh, liên hệ xa vời, chung chung, chưa quan tâm đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

- Hạn chế về kĩ năng sư phạm:

+ Giáo viên chưa đặt nội dung bài dạy vào một chuỗi kiến thức hoặc chủ đề, chủ điểm của bài dạy nên nội dung bị chồng chéo, rời rạc. Dạy bài qua loa, không dạy đúng phương pháp của môn học.

+ Vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học chưa phù hợp với mục tiêu bài dạy, đối tượng học sinh, chưa phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh.

+ Do giáo viên chưa xác định đúng mục tiêu của bài, chưa hiểu rõ đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh nên lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học chưa phù hợp.

Ví dụ: Phân môn Chính tả lựa chọn phương pháp thảo luận, hình thức học nhóm để tổ chức học sinh là bài tập chính tả (một em làm thư kí viết, các bạn còn lại nói), hay tổ chức trò chơi tiếp sức (vài em lên bảng viết, những học sinh còn lại cổ vũ “cố lên! cố lên!”, hoặc đố vui trả lời bằng miệng (em này hỏi em kia trả lời, vài em như vậy, những em còn lại chỉ nghe hoặc nói mà mục tiêu chính của phân môn Chính tả là rèn kĩ năng viết). Với lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức luyện tập cho học sinh làm bài tập chính tả như vậy nên nhiều học sinh vẫn viết sai chính tả mãi. Những hình thức như thế này chỉ có một số em làm việc tích cực thực sự còn lại đa số các em “tích cực giả”, học sinh rất nhàm chán và hiệu quả không cao.

+ Hiện nay, còn nhiều giáo viên chưa sử dụng tốt các phương pháp truyền thống như: trực quan, làm mẫu. Hai phương này rất quan trọng để dạy học sinh đọc, viết tốt. Chữ viết, lời nói, phát âm của giáo viên cũng là trực quan. Giáo viên làm mẫu tốt, học sinh nghe, nhìn thấy được mẫu sẽ giúp các em đọc viết tốt.

+ Giáo viên ít khi sử dụng đến các phương pháp dạy học tích cực. Khi có người dự giờ thì mới sử dụng nên thầy trò rất khó khăn.

+ Giáo viên chưa kiểm tra, hỗ trợ tư vấn, đánh giá kết quả học tập của học sinh đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học và theo hướng đổi mới.

+ Giáo viên còn làm thay học sinh, sợ mất thời gian sửa cho học sinh, hay thiếu kiên nhẫn, hoặc thiếu kinh nghiệm trong việc sửa sai cho học sinh nên làm thay cho học sinh.

Ví dụ: Học sinh lớp 1 đọc không được, giáo viên không giúp học sinh phân tích tiếng đó, nhẩm đánh vần rồi đọc trơn mà giáo viên đọc trước cho học học sinh nhạy lại, sau này gặp lại chữ đó học sinh lại đọc không được. Hay khi học sinh trả lời câu hỏi chưa được, giáo viên sốt ruột trả lời thay luôn chứ không gợi ý hướng dẫn học sinh. Dạy như thế thì làm sao phát triển tư duy học sinh được.

+ Có giáo viên kiểm tra đánh giá học sinh nhưng chưa tư vấn cụ thể, giúp đỡ học sinh khắc phục hạn chế.

+ Giáo viên chưa qua tâm đến việc hướng dẫn học sinh trình bày vở sạch, đẹp. Nếu có thì hướng dẫn không cụ thể, không kiểm tra nên các em không làm được.

+ Xử lí các tình huống sư phạm chưa phù hợp đối tượng và chưa có tác dụng giáo dục.

+ Sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, kể cả đồ dùng dạy học tự làm chưa có hiệu quả.

+ Phân bố thời gian một tiết dạy không hợp lí: Nội dung trọng tâm, mới dành thời gian ít, nội dung đã học, học sinh đã biết thì dành nhiều thời gian.

- Thái độ sư phạm:

+ Giáo viên chưa thật sự gần gũi, thân thiện và quan tâm đến học sinh.

+ Giáo viên chưa đối xử công bằng với tất cả học sinh: trong lớp vẫn sẽ có học sinh được GV quan tâm nhiều hơn, học sinh còn khó khăn đôi khi ít được giáo viên quan tâm hỗ trợ, động viên để mỗi học sinh đều được phát triển năng lực học tập.

=> Từ thực trạng hạn chế như trên, dẫn đến tiến trình tiết dạy còn chưa hợp lý, các hoạt động học tập diễn ra chưa hiệu quả và không phù hợp với đặc điểm học sinh tiểu học. Nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức, kĩ năng cơ bản của bài học để vận dụng vào bài thực hành hoặc thực tế. Điều này kéo dài sẽ tạo nên lỗ hổng kiến thức không tốt, khiến các em thiếu nền tảng để tiếp tục học lên các cấp lớp cao hơn.

2. Đề xuất biện pháp để phát triển năng lực nghề nghiệp này cho đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng chuẩn giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông theo TT20- Bộ GD&ĐT

Trong bối cảnh ngành giáo dục đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, việc phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên tiểu học nhằm đáp ứng chuẩn giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông theo Thông tư 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 có ý nghĩa then chốt, quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Để khắc phục những yếu kém còn tồn tại ở cấp tiểu học, theo kịp hội nhập với xu hướng phát triển chung của thế giới thì bản thân giáo viên, những người được xem là gốc của ngành giáo dục cũng phải có ý thức nâng cao năng lực của bản thân, trong đó, cốt lõi là nâng cao năng lực giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho học sinh,  bồi dưỡng năng lực tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh và tăng cường sự hợp tác giữa thầy và trò. Theo quan điểm của riêng tôi, để năng lực đội ngũ nhà giáo ngày càng tiếp tục phát triển cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

  • Thứ nhất, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.

Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo là nhiệm vụ chiến lược trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ, nhất là khi ngành giáo dục đang chuyển sang thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới.  Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, trước hết phải đổi mới công tác tuyển sinh để thí sinh vào sư phạm thực sự là những người xuất sắc, có năng lực dạy học tốt. Bên cạnh đó, để đào tạo, bồi dưỡng đạt kết quả cao cần quy hoạch lại mạng lưới các trường đào tạo ngành sư phạm, khoa sư phạm và các cơ sở đào tạo bồi dưỡng nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

Với các giáo viên đang giảng dạy tại các nhà trường, cần có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, định kì theo hình thức tập trung, tại chức…; cần kết hợp đào tạo bồi dưỡng những kiến thức mang tính hàn lâm với tham quan học tập các mô hình, học tập kinh nghiệm ở các địa phương trong nước và quốc tế để tăng cường kiến thức thực tiễn và kỹ năng dạy học; có chính sách hỗ trợ cho nhà giáo được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, học vấn, trình độ chính trị.

  • Thứ hai, tự đào tạo là yếu tố đặc biệt quan trọng để phát triển năng lực giáo viên.

Giáo viên luôn phải là người có ý thực tự bồi dưỡng bản thân. Tự bồi dưỡng sẽ tạo điều kiện tốt nhất để nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ tương xứng với vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

Mỗi người giáo viên trong quá trình dạy sẽ biết rõ nhất mình có những ưu thế gì, còn những hạn chế gì; biết điểm mạnh và yếu của bản thân; biết chất lượng giảng dạy của mình đến đâu từ đó sẽ có cách tự bồi dưỡng để hoàn thiện mình.

Trong thời buổi bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay việc tự đào tạo, bồi dưỡng quả là gặp rất nhiều thuận lợi. Chỉ cần thầy cô của chúng ta cầu toàn, nổ lực, nghiêm khắc với bản thân và có phương pháp học tập thì việc nâng cao năng lực của bản thân không phải là việc quá khó.

  • Thứ ba, đổi mới công tác tự đánh giá, đánh giá đội ngũ nhà giáo.

Đánh giá không đúng, không chính xác sẽ làm cho giáo viên không biết được chất lượng giảng dạy của mình như thế nào, mình cần phát huy gì và cần khắc phục điều gì ở bản thân. Đồng thời còn sẽ làm mất đi động lực phấn đấu của từng cá nhân, có khi làm xáo trộn tâm lí của cả một tập thể, gây nên sự trầm lắng, trì trệ trong công việc.

Đối với ngành Giáo dục thực hiện đánh giá giáo viên theo Thông tư 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông. Đây là cơ sở vững chắc để soi vào đó, đưa ra được sự đánh giá tương đối khách quan và chính xác đối với năng lực của giáo viên, tạo ra động lực để giáo viên cống hiến sức lực, tâm trí hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngoài ra cần xây dựng khung năng lực nhà giáo tương lai theo chuẩn nghề nghiệp trong giai đoạn tới để làm thước đo cho các nhà giáo nỗ lực vươn lên.

  • Thứ tư, cải thiện các chính sách cho đội ngũ giáo viên.

Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục công lập hiện nay được hưởng chế độ theo các quy định về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ. Ngoài lương được hưởng theo quy định trên, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn được hưởng thêm 2 loại phụ cấp, đó là: phụ cấp ưu đãi (với các mức từ 25% đến 70%); phụ cấp thâm niên (được tính gia tăng theo thời gian công tác). Tùy theo điều kiện cụ thể, ở các địa phương khác nhau cũng có chính sách riêng đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Tuy nhiên, với mức lương như hiện nay vẫn khiến họ chưa yên tâm công hiến và tâm huyết ngành. Bên cạnh đó, chính sách tiền lương còn nhiều bất cập dẫn đến khó duy trì nghiêm được tính kỷ luật, thứ bậc và không tạo được tính cạnh tranh trong đội ngũ cán bộ, nhà giáo.

Việc đãi ngộ về tiền lương, về các quyền lợi vật chất là điều rất quan trọng và cần thiết nhưng chưa đủ để đội ngũ nhà giáo phát triển hết khả năng đóng góp của họ. Cần tạo điều kiện để ghi nhận thành tích của họ; lắng nghe và sử dụng những ý kiến đóng góp, xây dựng một môi trường làm việc đầy cảm hứng, khích lệ sự đóng góp của họ vào công việc phục vụ nhà trường, phục vụ cộng đồng chính là động lực giúp đội ngũ giáo viên phát triển tình cảm nghề nghiệp, củng cố mối hệ gắn bó giữa giáo viên với học sinh, với đồng nghiệp và nhà trường.

Với đối tượng tuyển sinh tốt, môi trường đào tạo tốt, chắc chắn chất lượng đào tạo giáo viên trong tương lai sẽ được cải thiện.

3. Thực trạng năng lực giáo viên tiểu học tại địa phương của tôi

Giáo viên tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục trẻ em. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tiểu học ở địa phương đội có tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, tâm huyết với nghề, thực hiện tốt quy định về đạo đức nghề nghiệp; tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; nhiều nhà giáo có năng lực quản lý, năng lực giảng dạy, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề bất cập còn tồn tại ở các giáo viên tiểu học của địa phương tôi như:

Thiếu kiến thức chuyên môn: Một số giáo viên tiểu học tại địa phương của tôi chưa được đào tạo đầy đủ về kiến thức chuyên môn. Họ không có đủ kiến thức để giảng dạy các môn học như tiếng Anh, tin học, khoa học. Điều này dẫn đến chất lượng giảng dạy không đảm bảo, và ảnh hưởng đến sự phát triển của học sinh.

Thiếu kỹ năng giảng dạy hiệu quả: Ngoài việc thiếu kiến thức chuyên môn, một số giáo viên tiểu học còn thiếu kỹ năng giảng dạy hiệu quả. Họ không biết cách tạo động lực cho học sinh, không biết cách sử dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, và không biết cách xây dựng một môi trường học tập tích cực.

Theo các khảo sát cụ thể, năng lực nghề nghiệp của giáo viên ở các trường tiểu học của địa phương tôi chỉ được đánh giá từ mức trung bình trở lên. Trong đó năng lực phát triển chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực xây dựng môi trường giáo dục của giáo viên được đánh giá ở mức khá. Còn một số bất cập về năng lực phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội, đặc biệt là những rào cản về ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ dạy học, giáo dục đã làm hạn chế sự phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên ở các trường Tiểu học địa phương tôi.

Thực trạng năng lực giáo viên tiểu học tại địa phương từ đó đưa ra định hướng phát triển nghề nghiệp bản thân
Thực trạng năng lực giáo viên tiểu học tại địa phương từ đó đưa ra định hướng phát triển nghề nghiệp bản thân

4. Định hướng phát triển nghề nghiệp cho bản thân

Để nâng cao định hướng phát triển bản thân, tôi nghĩ rằng bản thân và các giáo viên còn yếu năng lực chuyên môn cần tìm kiếm và tích cực tham gia các khóa đào tạo chuyên môn và các khóa đào tạo về kỹ năng giảng dạy. Bên cạnh đó, cũng nên tham gia các hoạt động chuyên môn và thường xuyên đọc sách để cập nhật kiến thức. Tập làm quen với các thiết bị giảng dạy hiện đại, học tập tri thức công nghệ, kỹ thuật số để biết cách ứng dụng công nghệ thông tin vào trong việc dạy học.

Ngoài ra, tôi cần định hướng phát triển nghề nghiệp cho bản thân bằng cách tìm kiếm các cơ hội để thăng tiến trong nghề. Có thể thực hiện điều đó bằng cách xin tham gia các khóa đào tạo lãnh đạo hoặc các khóa đào tạo về quản lý giáo dục để có thể quản lý tốt hơn lớp học của mình.

Kết luận

Thực trạng năng lực giáo viên tiểu học tại địa phương của tôi cần được cải thiện để đảm bảo chất lượng giáo dục cho học sinh. Tôi tin rằng các giáo viên luôn cần nỗ lực học hỏi nhiều hơn và phát triển nghề nghiệp của mình để có thể giảng dạy hiệu quả và đáp ứng yêu cầu của công việc.

Trên đây là những gợi ý làm bài thu hoạch kiểm tra kết thúc chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học. Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết liên quan khác trong mục Tài liệu: Dành cho giáo viên nhé.

Đánh giá bài viết
1 2.962
0 Bình luận
Sắp xếp theo