Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ

Trong chương trình THPT, việc so sánh hai tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận cần thiết và quen thuộc nhằm đánh giá kĩ năng cảm thụ văn học và kĩ năng viết có chiều sâu về tác phẩm.

Với kiểu bài này đòi hỏi HS cần có năng lực cảm thụ sâu sắc tác phẩm văn học, có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng, sự tinh nhạy cùng với lối tư duy tổng hợp, khái quát cao để nhận ra nét tương đồng và khác biệt của hai hay nhiều tác phẩm được so sánh. Mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần của nhà thơ. Tuy có nhiều bài thơ có chung một đề tài nhưng mỗi bài lại mang dáng vẻ khác nhau, tạo được ấn tượng riêng với bạn đọc và có chỗ đứng riêng trong nền văn học Việt Nam. So sánh hai tác phẩm thơ, chúng ta không chỉ hiểu thêm về bài thơ mà còn thấy được cái hay đặc biệt làm nên giá trị mỗi bài thơ.

Dàn ý chi tiết kiểu bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (SGK/trang 57)

Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về hai bài thơ và nêu cơ sở lựa chọn để so sánh, đánh giá.

Thân bài: Có nhiều cách trình bày nội dung so sánh, đánh giá. Người viết cần linh hoạt trong việc lựa chọn cách trình bày phù hợp với hiểu biết và hứng thú của bản thân, điều này sẽ góp phần quan trọng vào thành công của bài viết. Có thể triển khai các nội dung so sánh, đánh giá theo những cách sau:

- Cách 1: Lần lượt phân tích từng bài thơ, sau đó chỉ ra điểm tương đồng, sự gặp gỡ và những điểm khác biệt, lí giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt đó; đồng thời đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này dễ làm nhưng nhiều khi bị trùng lặp ý và mục đích so sánh không được làm nổi bật.

- Cách 2: Phân tích bài thơ thứ nhất theo các phương diện đã xác định, khi phân tích bài thơ thứ hai sẽ so sánh với bài thơ thứ nhất theo từng phuơng diện và lí giải nguyên nhân của những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ, từ đó, đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này cũng dễ thực hiện và tránh bị trùng lặp, thể hiện được ý so sánh, nhưng mạch so sánh khi trình bày bài thơ thứ nhất dễ bị chìm.

- Cách 3: So sánh lần lượt các phương diện đã lựa chọn đối với hai bài thơ, chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt; lí giải nguyên nhân sự tương đồng và khác biệt đó; đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ từ các nội dung so sánh. Cách này làm nổi bật được tính chất so sánh nhưng dễ làm mờ tính liền mạch, chỉnh thể của mỗi bài thơ, đòi hỏi nguời viết phải có khả năng tư duy tổng hợp và lập luận chặt chẽ, có sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề.

Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của việc so sánh, đánh giá; nêu cảm nhận và ấn tượng của bản thân về các bài thơ.

So sánh bức tranh mùa thu của bài Đây mùa thu tới và Đất nước - Nguyễn Đình Thi

Văn học từ muôn đời xưa, cho đến muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người. Dù chỉ tả một làn mây dòng suối, cành lá, tiếng chim, thì cũng nhằm nói về con người. Cho nên thiên nhiên trong văn học là những bức tranh tâm trạng. Người buồn thì cảnh buồn, người vui thì cảnh vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.

Mùa thu từ bao đời nay và sẽ mãi mãi là nguồn thi hứng, là đề tài hấp dẫn đối với các thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Rim-bô, Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã có những bài thơ rất đặc sắc dành cho mùa thu. Nhưng không vì thế mà thơ viết về mùa thu trở nên mòn sáo, đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng vậy, nhưng lòng người thì mỗi thời mỗi khác. Vì thế cảnh sắc mùa thu trong mỗi bài thơ đều có những vẻ đẹp riêng độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định cảnh sắc mùa thu trong thơ.

Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng. Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ trước mùa thu.

Cảnh sắc mùa thu trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ hoa cỏ, chim muông đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất trong không gian và trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu buồn như những cô gái xoã tóc chịu tang, cùng hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Các khổ thơ tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, lá rụng, cành cây khô gầy, vầng trăng bơ vơ. Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh ấy gợi lên sự chia ly, tàn tạ, phai nhạt làm nổi rõ nỗi buồn cô đơn).

Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn có cái gì đó dịu nhẹ, trẻ trung và rất đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng duyên dáng, tươi Bằng với tấm “áo mơ phai dệt lá vàng” vừa thực vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng cả không gian.

Như vậy mùa thu bên cạnh cái vẻ đìu hiu buồn, một cái buồn rất đẹp của cảnh vật, vẫn chứa đựng bên trong một sức sống trẻ trung. Ấy là cái chất trẻ trung được phát hiện bằng con mắt “xanh non” của tác giả là cái sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xốn xao trong cảnh vật.

Cảnh thu rất đẹp mà buồn vì lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân Diệu cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.

Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời chuyển vào thu:

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Phải có tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới có thể đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình: Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc dù cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó là tư thế suy tư của người muốn đón nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.

Tóm lại: cảnh thu, lòng người trước mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá tuyệt vọng mà vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu là vẻ đẹp của một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện một niềm yêu đời, khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bài thơ về “Đất nước rũ bùn đứng dậy sáng loà” qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu là hình ảnh mùa thu “Sáng mát trong như sáng năm xưa”, “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó là cảnh sắc thân thuộc của mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu trong sáng, vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác giả khắc hoạ cảnh thu Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng mà xao xác buồn, buồn vì tưởng như thiếu hẳn bóng người. Buồn vì niềm bâng khuâng lưu luyến của sự chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra thì chẳng muốn rời:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Còn mùa thu hiện tại là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, lúc này đang là chiến khu tự do, căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp, nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập, niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra là ở chiến khu này. Đang trong tâm trạng vui, nên tác giả thấy cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng, đầy sức sống, đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như thay áo mới, cảnh vật như hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật và cuộc sống con người cũng ríu ran ríu rít đầy niềm vui.

Và không gian mùa thu như trải dài, mở rộng theo những con đường, dòng sông, đồng lúa, cánh rừng trùng điệp của đất nước.

Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước là cảm hứng tự hào làm chủ của một nghệ sĩ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Hà Nội 1946, tác giả có thể hiện tâm trạng buồn nhưng đó là nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương mà phải tạm biệt quê hương lên đường vì nghĩa lớn. Nỗi buồn này khác nỗi buồn của Xuân Diệu.

Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn là niềm vui, niềm tự hào về đất nước giang sơn gấm vóc, về độc lập chủ quyền vì vậy đoạn thơ viết về mùa thu chiến khu Việt Bắc vang lên sang sảng tự hào đầy kiêu hãnh.

Cùng viết về mùa thu mà Xuân Diệu chỉ thấy một mùa thu rất đẹp mà rất buồn. Còn Nguyễn Đình Thi lại tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh, màu sắc, đầy niềm vui, sức sống của cảnh vật và con người. Điều đó, xét cho cùng có nguyên nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định cảm hứng, qui định tình thu của nhà thơ và từ cảm hứng, tình thơ của nhà thơ lại qui định cảnh sắc mùa thu trong thơ.

Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào nên cảnh thu cũng đã thay đổi.

Ba năm qua nay lại mùa thu tới

Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới

Thu từ nay không thu thảm thu sầu

Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát

Lá biếc xanh xanh

Trời thu bát ngát

Da tươi thịt thắm

Nở lại cùng sương

Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường

Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.

Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã là một người dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.

So sánh, đánh giá hai bài thơ Sóng và Việt Bắc

Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân, cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ:

"Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”

trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.”

trích trong bài thơ “Sóng“ của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như thế.

Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại được nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình.

Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình, chính trị; mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thương mến; đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết, luôn khát vọng về một hạnh phúc đời thường.

Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hướng tới đề tài tình yêu lứa đôi.

Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tình lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trích trong bài Việt Bắc là lời người ra đi đáp lại người ở lại.

Bốn câu thơ giống như một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trước sau như một mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bào Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình - ta” được sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng như “mình”. Tình cảm của người về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng. Tình cảm ấy còn được khẳng định bằng một hình ảnh thơ so sánh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của người Việt Nam nước trong nguồn là dòng nước không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. Ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu,… bấy nhiêu”. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận.

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ được viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhưng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu.

Ở khổ thơ trên “Sóng” được khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngược”. Sóng dù xuôi về hướng Bắc, dù ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn hướng về bờ:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.”

Thông thường người ta hay nói xuôi Nam, ngược Bắc nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam, dường như cái lô-gic của lí trí thông thường đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau. Cách nói ấy cũng khiến người đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vượt qua.

Con “sóng” kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngược tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hướng về “phương anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đưa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phương trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thơ anh vẫn mới là bến bờ hạnh phúc, là nơi duy nhất em tìm về. Ý thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy. Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phương nào thì em cũng hướng về phương anh. Câu thơ giống như một lời nguyện thề thủy chung, da diết, đằm thắm.

Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch "lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thương, mong nhớ, có cả phấp phỏng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩ thường xuyên, thường trực trong lòng, canh cánh trong lòng. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là sự suy tư, chín chắn, sâu sắc. Người con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong tình yêu.

Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của người phụ nữ, sự thủy chung son sắt duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng người yêu thương phải xứng đáng với mình.

Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thương của một tình yêu con người, đất nước trong lòng người bởi một tình cảm đẹp, sự thủy chung son sắt không đổi thay. Trên phương diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhưng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhưng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh như một lời thề.

Tình cảm trong đoạn thơ Việt Bắc là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt Bắc ân tình đùm bọc, cưu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến. Còn tình cảm trong “Sóng” là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một phụ nữ đang yêu vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hướng về một nơi ở phương anh một cách chung thủy, sắt son.

Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng - đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt, sâu sắc.

Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn với ca dao đậm đà, còn Xuân Quỳnh thì mãnh liệt, nồng nàn. Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam yêu thương đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung, son sắt.

So sánh, đánh giá hai bài thơ Chiếc rổ may và Áo- Lưu Quang Vũ

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai bài thơ sau:

Thuở bé nhiều hôm tôi bỏ chơi

Cảm thương đứng ngó mẹ tôi ngồi

Vá bên chiếc rổ mùi thơm cũ

Như tấm lòng thơm của mẹ tôi.

Lơ thơ chỉ rối sợi con con;

Những cái kim hư, hột nút mòn

Tằn tiện để dành trong lọ nhỏ;

Vải lành gói ghém mấy khoanh tròn

Lặng lẽ bàn tay lặng lẽ đưa

Đắp từng miếng vá ấm con thơ

Những mong đời mẹ, đời con mãi

Gần gũi nhau cùng mối chỉ thưa...

Mẹ ơi! chiếc áo con đã rách

Con biết làm sao trở lại nhà

Để mẹ vá giùm? con thấy lạnh

Gió lùa nỗi nhớ thấm vào da.

1940

(Tế Hanh, Chiếc rổ may, in trong Tuyển tập Tế Hanh, NXB Văn học, 1987, trang 83)

Những tấm áo xưa con nhớ lắm

Mũi chỉ đường kim tay mẹ dịu dàng

Tuổi thơ đâu những trưa hè xanh thẳm

Tuổi thơ nằm trong áo nhỏ yêu thương

Con lớn thêm áo cũng lớn thêm

Mỗi bận mùa đông đi, trời bớt lạnh

Mưa xuân rơi, hoa cải vàng sắc nắng

Mẹ dành tiền may áo mới cho con

Con chỉ biết vui mỗi độ trăng tròn

Mỗi Tết đến nghe áo hoa sột soạt

Chưa biết mẹ thêm nếp nhăn đuôi mắt

Bởi lo lắng nhiều vất vả sớm hôm

Nhà đông anh em, áo thường xuống gấu

Mẹ còn chắt chiu từng mụn vá vai

Đâu những tối mẹ ngồi khâu lại áo

Khi bên thềm xào xạc gió heo may

Ngày tháng thoi đưa, con đã cao hơn mẹ

Chẳng hồn nhiên khi lòng con biết nghĩ

Áo dài hơn, tuổi mẹ cũng nhiều hơn

Dẫu vá vai, màu bạc, chỉ sờn

Nhưng trong áo ấm đường khâu mẹ vá

Yêu mẹ nhiều nên áo cũ con thương

(Lưu Quang Vũ, Áo, in trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội Nhà văn, 2021, trang 11)

Gợi ý

a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài

Xác định được yêu cầu của kiểu bài: nghị luận văn học – so sánh hai bài thơ.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: so sánh, đánh giá hai bài thơ Chiếc rổ may (Tế Hanh) và Áo (Lưu Quang Vũ)

c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết

Xác định được các ý chính của bài viết

Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận.

* Giới thiệu vấn đề nghị luận: hình tượng người mẹ trong hai bài thơ Chiếc rổ may (Tế Hanh) và Áo (Lưu Quang Vũ)

* Phân tích những điểm giống nhau giữa hai bài thơ:

- Về nội dung:

+ Đề tài - cùng viết về đề tài người mẹ. Cả hai người mẹ đều nghèo khổ nhưng khéo léo, cần mẫn, biết chắt chiu, yêu thương con.

+ Cảm hứng chủ đạo – cùng thể hiện tình yêu thương, nỗi nhớ về mẹ.

+ Tư tưởng – cùng khẳng định ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử.

- Về nghệ thuật: kết hợp giữa biểu cảm và tự sự ; cấu tứ ; nhân vật trữ tình xuất hiện trực tiếp ; ngôn từ giản dị, giàu cảm xúc ; giọng điệu tâm tình, tha thiết.

* Phân tích những điểm khác nhau giữa hai bài thơ:

- Về nội dung:

+ Bài thơ Chiếc rổ may là nỗi nhớ của tác giả về hình ảnh người mẹ cần mẫn ngồi vá áo cho con bên chiếc rổ may. Đó nỗi nhớ mẹ da diết, là mong ước được trở về nhà để được mẹ vá áo như thời thơ bé.

+ Bài thơ Áo tái hiện hình ảnh người mẹ nghèo tảo tần, chắt chiu trong một thời gian dài từ khi con còn nhỏ đến khi con lớn lên. Đằng sau hình ảnh người mẹ là quá trình trưởng thành về nhận thức của người con, là sự nâng niu, trân quý chiếc áo cũ.

- Về nghệ thuật: khác nhau về thể thơ, giong điệu, .

* Lí giải sự tương đồng và khác biệt:

- Cả hai nhà thơ đều trải qua tuổi thơ nghèo khổ, thiếu thốn bên mẹ ; đều có tâm hồn nhạy cảm, giàu tình yêu thương.

- Do hoàn cảnh sáng tác khác nhau.

* Đánh giá:

- Hai bài thơ có nhiều điểm tương đồng về đề tài, cảm hứng chủ đạo và tư tưởng nghệ thuật.

- Đây là hai bài thơ hay viết về đề tài người mẹ của hai nhà thơ tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam hiện đại; kết tinh giá trị nghệ thuật và tư tưởng khi viết về đề tài người mẹ.

- Cả hai bài thơ đã cho thấy sự sáng tạo độc đáo của mỗi nhà thơ về nội dung trữ tình và hình thức nghệ thuật. Sự khác biệt làm nên phong cách riêng của mỗi nhà thơ.

So sánh, đánh giá khát vọng sống của nhân vật trữ tình thể hiện qua Vội vàng và Sóng

Gợi ý

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá khát vọng sống của nhân vật trữ tình thể hiện qua hai đoạn thơ trong Vội vàng – Xuân Diệu và Sóng – Xuân Quỳnh.

a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài

- Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận văn học

- b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: So sánh, đánh giá khát vọng sống của nhân vật trữ tình thể hiện qua hai đoạn thơ trong Vội vàng – Xuân Diệu và Sóng – Xuân Quỳnh.

c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết

- Xác định được ý chính của bài viết

- Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận:

* Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: đánh giá nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ

* Triển khai vấn đề nghị luận

- Phân tích điểm tương đồng của hai tác phẩm: Hai đoạn thơ đều bộc lộ thái độ sống tích cực của hai thi sĩ trước cuộc đời: đó là tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc – triết lí.
- Phân tích điểm khác biệt của hai tác phẩm:

+ Vội vàng – Xuân Diệu: Sử dụng thể thơ tự do, vận dụng tối đa hiệu quả của các biện pháp nghệ thuật (điệp từ, điệp ngữ, liệt kê, nhân hóa…); đoạn thơ của Xuân Diệu diễn tả cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt của cái tôi cá nhân muốn khẳng định mình trước cuộc đời, thể hiện niềm yêu đời, khát vọng sống nồng nàn, mãnh liệt của Xuân Diệu.

+ Sóng – Xuân Quỳnh: Bằng giọng điệu thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính, thể thơ ngũ ngôn hiện đại, hình ảnh ẩn dụ; Xuân Quỳnh thể hiện thể hiện khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, được gắn bó mãi mãi với cuộc sống, hòa nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu chân thành, mãnh liệt, khát vọng được tan hòa cái tôi vào cái ta chung của cuộc đời để tình yêu trở thành bất tử.

- Nhận xét về cách thể hiện khát vọng sống của hai tác giả:

+ Xuân Diệu mạnh mẽ, nam tính, cuồng nhiệt, khát khao giao cảm với đời.

+ Xuân Quỳnh tâm tình, nữ tính, nhiều trăn trở, suy tư, khát khao tình yêu mãnh liệt.

d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:

- Triển khai được mỗi phần ít nhất hai luận điểm để làm sáng tỏ yêu cầu của đề

- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng.

- Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 12 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 1.080
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi