So sánh, đánh giá hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng)

So sánh, đánh giá hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng) là một trong số các dạng đề tham khảo trang 56 sách giáo khoa Ngữ văn 12  Kết nối tri thức tập 1 bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ. Sau đây là mẫu dàn ý so sánh hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng chí sẽ là gợi ý bổ ích cho các em khi làm dạng bài viết này.

Dàn ý so sánh Tây Tiến và Đồng chí

Tìm ý

Dựa vào yêu cầu của kiểu bài, định hướng từ bài viết tham khảo và để tài đã xác định, có thể nêu các câu hỏi sau để tìm ý:

- So sánh, đánh giá hai bài thơ dựa trên cơ sở nào? Việc xác định cơ sở để so sánh, đánh giá dựa trên nội dung (hiện thực đời sống, tư tưởng, tình cảm của tác giả,..) và hình thức nghệ thuật của các tác phẩm (thể loại, ngôn ngữ, kết cấu, giong điệu, hình ảnh, chi tiết, thủ pháp nghệ thuật,..).

- Điểm tương đồng giữa hai tác phẩm thơ là gì?

- Đâu là đểm khác biệt giữa hai bài thơ?

- Yếu tố nào tạo nên những điềm tương đồng và khác biệt của hai bài thơ? Điểm tương đồng và khác biệt thường xuất phát từ những yếu tố thuộc về đặc trưng của thơ ca và phong cách nghệ thuật riêng của mỗi nhà thơ, hoặc xu hướng và bút pháp thi ca của từng giai đoạn sáng tác.

- Đánh giá thế nào về giá trị của mỗi bài thơ.

Lập dàn ý

MB

Giới thiệu ngắn gọn về hai bài thơ Tây Tiến và Đồng chí

TB

- HS cần xác định đúng phạm vi so sánh, đánh giá: Hình tượng người lính trong hai bài thơ.

- HS lựa chọn cách triển khai đánh giá phù hợp với năng lực và trình độ của bản thân

- Gợi ý so sánh:

+ Nguồn gốc xuất thân: chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông là những thanh niên trí thức Hà thành, người lính trong Đồng chí là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo

+ Vẻ đẹp: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng. Người chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị. Các anh hiện ra với dáng vẻ: Chất phác, lam lũ:

+ Bút pháp miêu tả: bút pháp của Chính Hữu trong Đồng chí là bút pháp tả thực. Ông chú trọng vẻ đẹp của tình đồng chí – những người chung quân ngũ,chung lý tưởng chiến đấu. Còn Quang Dũng đã khái quát vẻ đẹp chung của người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân và hoạt động ở vùng biên giới xa xăm, nhiều hiểm trở với bút pháp lãng mạn

KB

Tuy hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau nhưng làm hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu tiến hành cuộc cách mạng kháng chiến chín năm chống Pháp.

So sánh hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng chí

Nghĩ về thơ, Soren Kierkegaard - một triết gia người Đan Mạch từng băn khoăn: “Thi sĩ là gì? Một con người bất hạnh giấu nỗi đau khổ sâu sắc trong tim, nhưng đôi môi đẹp tới mức khi tiếng thở dài và tiếng khóc đi qua, chúng nghe như âm nhạc du dương… Và người ta xúm lại quanh thi sĩ và bảo: “Hãy hát tiếp đi” - hay nói theo cách khác, 'Mong những nỗi đau khổ mới hành hạ tâm hồn anh nhưng đôi môi anh vẫn đẹp đẽ như trước, bởi tiếng khóc sẽ chỉ làm chúng tôi hoảng sợ, nhưng âm nhạc thì lại rất hay.” Người ta ví thơ là một thứ thanh âm đẹp đẽ và thật hay, dẫu rằng ấy chính là tiếng vang của một tâm hồn đang ứ đầy cảm xúc. Đến với “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta như được thả hồn mình vào trải nghiệm và dòng cảm xúc đã căng, đã đầy của những nhà thơ chiến sĩ. Cùng viết về một đề tài song “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” trong tâm tưởng Quang Dũng lại có những điểm tương đồng và khác biệt.

Quang Dũng và Chính Hữu đều là thế hệ các nhà thơ mặc áo lính, đều bước ra từ chiến trường khốc liệt nên hình tượng người lính xuất hiện trong trang thơ của hai ông trở nên chân thực và rõ nét hơn. Đó là hình ảnh người lính “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Trên cuộc hành quân gian khổ của mình, anh bộ đội Cụ Hồ bị những cơn sốt hành hạ. Và cũng chính những thử thách gian khổ của thời chiến ấy đã làm cho những người lính ngày càng trở nên gần nhau hơn. Rồi đến một lúc nào đó họ chợt nhận ra, những người đồng đội khi ở bên nhau giống nhau từ hình thức đến nội tâm; sự khắc nghiệt của hoàn cảnh sống đôi khi đẩy người ta đến những tình huống không ngờ. Trong trang thơ của Quang Dũng cũng viết về đồng đội, và ở đó, những trận sốt rét ác tính đã khiến cho các chiến sĩ của ta rụng hết những mái tóc xanh “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.

Cả hai tác phẩm đều cùng ra đời năm 1948, đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Người lính phải chiến đấu trong điều kiện vật chất thô sơ, thiếu thốn, hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Tuy nhiên họ đã vượt lên trên hoàn cảnh đó và tỏa sáng với những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần ra đi vì nghĩa lớn, ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, tư thế hiên ngang, chủ động, tâm hồn lạc quan, lãng mạn và yêu đời.

Một tác phẩm văn chương thành công là tác phẩm ghi lại dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc. Vì vậy mà bên cạnh những điểm tương đồng, ta vẫn thấy những nét độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của hai nhà văn. Nét riêng biệt thứ nhất chúng ta có thể thấy ở hai tác phẩm chính là chủ đề tác phẩm. Điểm khác biệt thứ nhất là chủ đề. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã khắc họa lên hình tượng người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ với tình cảm keo sơn gắn bó và ý chí vượt qua khó khăn. Trải dài cả bài thơ, tình cảm đồng chí đồng đội được thể hiện sâu sắc và mãnh liệt. Tình đồng chí của những người lính dựa trên sự chia sẻ cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện bình dị nhưng sâu sắc trong mọi tình huống. Họ thân tình gọi nhau một tiếng “Đồng chí!”. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. “Đồng chí” là tiếng nói thiêng liêng, là một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm.

Chủ đề của “Tây Tiến” lại khác hẳn, Quang Dũng đã thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn bó qua đó khắc họa hình tượng người lính bi tráng. Người lính dần dần hiện ra từ nỗi nhớ “chơi vơi” dành cho Tây Bắc. Thiên nhiên hùng vĩ hiện lên trong kí ức của người chiến sĩ vệ quốc. Nhà thơ xứ Đoài mây trắng xúc động với những kỉ niệm về những người lính Tây Tiến, về đoàn quân Tây Tiến khó có thể xóa nhòa trong tâm trí.

Điểm khác biệt thứ hai đó là hoàn cảnh xuất thân của người lính trong hai bài thơ. Người lính trong sáng tác của Quang Dũng thuộc tầng lớp trí thức, tinh hoa của dân tộc. Họ là học sinh, sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng đã “gác bút nghiên, mặc áo lính” lên đường chiến đấu để giành lại độc lập dân tộc.

Nếu “Tây Tiến” quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mĩ cao đẹp thì “Đồng chí” tô đậm nét hiện thực bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Bức tranh về người lính Vệ quốc được phác họa bằng chất liệu cuộc sống đồng quê, trên nền “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” của những người có cùng cảnh ngộ, từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh nên đồng tâm trong lực chọn mục đích cống hiến, chiến đấu. Những người nông dân từ các vùng quê nghèo khác nhau đã vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến toàn dân tộc.

Hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên hình tượng người lính cũng được xây dựng với vẻ đẹp riêng. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Bằng ánh mắt trừng, họ truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.

Binh đoàn Tây Tiến xuất thân từ học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn hiến nên họ luôn mang trong mình sự hào hoa, lãng mạn.

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Người lính bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Trong hành trang lên đường chiến đấu của người lính Tây Tiến có những giấc mơ đẹp về người con gái Hà Thành thanh lịch. Nó xoa dịu đi bao nhiêu khó khăn, vất vả. Đó cũng là những giây phút, khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất đáng quý trên chặng đường hành quân qua mưa bom lửa đạn; là giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà cùng với sức mạnh lòng căm thù.

Người lính mang trong mình sự trẻ trung khỏe khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính Tây Tiến đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung động.

Không xuất hiện với chân dung kì dị “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” như trong thơ Quang Dũng, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay”

Người lính đầu thời kì kháng chiến chống Pháp phải trải qua bao khó khăn gian khổ về mặt cơ sở vật chất. Vũ khí còn thô sơ, dân ta còn đói nghèo, Các anh mặc trên người bộ áo quần được chắp vá. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.

Nỗi nhớ của người lính đó là xóm làng thân thuộc, là mái đình, cây đa cổ kính:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Những con người chân chất thật thà ở những vùng quê có ruộng đồng, giếng nước thân thuộc nên khi ra đi họ cũng nặng lòng mang theo kỉ niệm gắn liền tuổi nhỏ. Hình ảnh hoán dụ kết hợp nhân hóa thể hiện quê hương luôn dõi theo người lính “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, đồng thời diễn tả nỗi lòng hướng về quê hương của các anh. Là những người nông dân mặc áo lính nên nỗi nhớ của họ hướng về ruộng vườn, nhà cửa, hướng về giếng nước, gốc đa. Đó là hình ảnh của quê hương, của gia đình mà người lính luôn mang trọn vẹn trong tâm tưởng và giếng nước gốc đa kia chính là quê hương, là gia đình đang luôn dõi theo từng bước đi của người lính.

Không chỉ khác biệt về nội dung mà cả hai nhà thơ Chính Hữu và Quang Dũng đều khẳng định nét riêng của mình ở bút pháp nghệ thuật. Thơ của Quang Dũng thể hiện một cái tôi thanh lịch, giàu chất nghệ thuật, với khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người. Qua ngôn ngữ hào hùng bi tráng, mang nhiều màu sắc biểu tượng, cùng với việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa phong nhã. Còn đối với bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giản dị kết hợp với bút pháp hiện thực, bức chân dung người lính hiện ra thật gần gũi, chân thực với độc giả. Đúng như Nguyễn Đăng Điệp đã từng nói: “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”.

Việc phân tích trong sự so sánh hai bài thơ cũng giúp ta hiểu thêm hai phong cách sáng tác. Quang Dũng được biết tới là nhà thơ mang phong cách phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Bài thơ “Tây Tiến” vừa có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng miền núi, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Và hơn hết, ở đó có chân dung những người lính hào hoa. Còn với “Đồng chí”, ta thấy được những vần thơ giản dị mộc mạc, xúc cảm dồn nén cùng hình ảnh thơ hàm súc mà thiết tha sâu sắc. Bài thơ mang đậm phong cách nghệ thuật của Chính Hữu - một trong những cây bút tiêu biểu viết về đề tài người lính và tình đồng chí đồng đội. Sắc xanh của áo lính như một người bạn đồng hành với ông trong suốt quá trình sáng tác.

Khép lại trang thơ nhưng sức sống của nó sẽ còn mãi theo thời gian. Dưới ngòi bút lãng mạn, phóng khoáng của mình, nhà thơ xứ Đoài mây trắng đã xây dựng chân dung người lính hào hùng, hào hoa. Khác hẳn với anh bộ đội Cụ Hồ chân chất giản dị đến từ vùng quê nghèo như trong những vần thi giản dị mộc mạc, xúc cảm dồn nén của Chính Hữu. Chính những nét riêng ấy lại làm nên một nét đẹp chung cho người lính thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng và người lính Việt Nam nói chung. Dù họ có là ai, ở đâu, xuất thân như thế nào thì họ đều ra đi với mục tiêu bảo vệ đất nước, chọn hi sinh để đổi lấy hạnh phúc cho dân tộc.

Liên hệ Tây Tiến với tiểu đội xe không kính

Nhắc đến những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc không thể không nhắc đến hai nhà thơ Quang Dũng và Chính Hữu. Cả hai nhà thơ đều là những người nghệ sĩ tài hoa và có các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật của mình. Những tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu chứa đựng giá trị to lớn và có nhiều nét tương đồng khi chủ đề đều hướng đến cách mạng một nền đại chúng mang ý nghĩa quan trọng cho toàn bộ tác phẩm, những giá trị ấy làm nên những ý nghĩa to lớn và hạnh phúc đối với mỗi con người.

Trong phong cách nghệ thuật của Quang Dũng biệt tài sử dụng ngôn ngữ của ông đã góp phần tạo ra những giá trị vô cùng to lớn trong phong cách của người. Điều đó làm nên sự sống động như đang được sống trong những giây phút hào hùng của người lính đã xuất hiện trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với hình tượng của những người anh hùng, bền bỉ, kiên trì vượt qua mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy để có thể làm nên những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất.

Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ sinh động hấp dẫn được sử dụng có ý nghĩa và sử dụng một cách mạnh mẽ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tinh nghịch, ngập tràn giá trị sắc màu, mức độ hiểm trở nguy hiểm có trong bài thơ đã được thể hiện ở một mức độ cao nhất và trừu tượng hóa trong ngôn ngữ tạo nên những sắc màu sống động trong giây phút hào hùng, ý nghĩa.

Đối với Chính Hữu bài thơ mang đến một phong cách khác lạ hoàn toàn khi hiện thực xã hội và nghệ thuật chân thực hiện lên mang nét đặc trưng trong cuộc đời của nhà thơ. Những tác phẩm ấy không chỉ có giá trị mạnh mẽ với những vần thơ mang chất chân chất mà nó còn phản ánh được cuộc sống của những người lính cách mạng khi họ phải rời xa quê nhà, rời xa những người thân yêu của mình để đến những vùng đất mới. Những người chiến sĩ đến từ khắp mọi miền đất nước, và họ đã tạo nên một gia đình lớn không chỉ mạnh mẽ mà còn đang sống động trong mỗi khoảnh khắc. Mỗi bài thơ đều đem lại những màu sắc tươi tắn lung linh, sống động cùng với đó tạo thành nhịp sống của những người lính cách mạng.

Trải qua nhiều năm kháng chiến những người lính chiến sĩ kiên cường của ta đã đứng lên tạo nên những giá trị sống to lớn mạnh mẽ và ý nghĩa nhất đối với mỗi con người, những niềm vui, niềm yêu thương hồ khởi được toát lên trong những vần thơ ca của tác giả, bằng niềm tin cùng với sự yêu thương thì những người chiến sĩ ở những phương trời xa xôi đã tụ họp về đây dưới cùng một mái nhà rồi họ đã cùng nhau làm nên lịch sử với những những chiến công vang dội.

Những người lính chiến sĩ đã luôn ở bên nhau, luôn đoàn kết và cùng nhau làm nên lịch sử với những phút giây hào hùng. Qua đó thể hiện một cuộc sống vui tươi và đầy hạnh phúc:

“Súng bên súng đầu gác bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Những ngôn từ mang đậm tính chân thực, làm cho những cuộc đời càng thêm ý nghĩa hơn đối với mỗi con người. Đối với những người chiến sĩ trong bài thơ Đồng chí thì hoàn cảnh xuất thân của họ là từ những người nông dân đang phải đương đầu và cố gắng ngày đêm để tạo ra những thành quả to lớn đối với dân tộc. Hoàn cảnh của họ rất khó khăn và họ đã tạo nên những phút giây thiêng liêng lịch sử. Đây cũng chính là động lực to lớn nhất để họ luôn cố gắng và hướng tới để làm nên những giây phút lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Người đọc đều thấy ở hai bài thơ là phong cách sử dụng ngôn ngữ điển hình góp phần làm nổi bật lên toàn bộ bài thơ. Các tác phẩm này đều có giá trị để cho nhân loại những nét mạnh mẽ và điển hình nhất. Có thể thấy trong hai bài thơ có sự khác nhau trong ngôn ngữ khi Tây Tiến sử dụng ngôn ngữ bi tráng, hào hùng, mang nhiều sắc màu biểu tượng. Còn ngôn ngữ bài thơ Đồng Chí chất phác, giản dị mang giá trị về sắc màu góp phần làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm. Hai nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, nhưng mục đích chúng ta có thể thấy là giống nhau, trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ nhân vật.

Đối với tác phẩm của mình nghệ thuật của nhà thơ được thể hiện phong phú qua những nét điển hình đặc sắc. Trong tác phẩm những hình tượng nổi bật hiện lên mang màu sắc tươi tắn góp phần tạo nên những hình ảnh có giá trị cao. Cách sử dụng ngôn ngữ có sự khác biệt và cách tạo hình nhân vật có tính biệt lập đã làm sống động nhộn nhịp lên những giây phút hân hoan và thể hiện sự biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật. Tác phẩm của hai nhà thơ Quang Dũng và Chính Hữu đã đem lại những ý nghĩa biểu tượng về cuộc sống và giá trị ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ bài thơ.

Những hình ảnh mang những đặc điểm điển hình sâu sắc đã tạo nên những nét đặc sắc riêng trong mỗi tác phẩm và giá trị to lớn mà nó đã để lại cho cả nhân loại là những cái nhìn sâu sắc và ý nghĩa nhất.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 12 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 1.634
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi