Phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia (3 mẫu)

Số đỏ là một tiểu thuyết đã gây được tiếng vang lớn trong sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng. Với ngòi bút châm biếm sắc bén, tác giả đã phê phán những thói rởm đời kệch cỡm của một bộ phận tầng lớp xã hội trung lưu thời đó. Trong bài viết ngày hôm nay, mời các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia để làm rõ sự đả kích cay độc của tác giả về lối sống ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp đạo đức truyền thống thông qua các nhân vật trong tác phẩm.

1. Dàn ý phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia

2. Phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia ngắn gọn

Hạnh phúc của một tang gia, tại sao lại có nghịch lý này? Khi nhắc đến bất cứ một đám tang nào chúng ta cũng có thể cảm nhận được nỗi đau mất mát của người thân. Ấy vậy mà đến với Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, người đọc lại có thể cảm nhận được một đám tang khiến chúng ta phải bật cười vì sự lố bịch của nó, đặc biệt được thể hiện qua cảnh hạ huyệt.

Trong một gia đình bê bối với đám con cháu người thì hám lợi, hám tài, hám danh, kẻ thì vô nhân, vô nghĩa, cái chết của cụ cố tổ như làm “nhẹ lòng” biết bao nhiêu con người đang mong chờ nhiều điều sau cái đám tang hay ho ấy. Không chỉ là vì tờ chúc thư được đi vào thực hành chứ không còn lí thuyết viển vông như trước nữa mà còn vì những sự mà con cháu ông ta muốn thể hiện ở “một cái đám ma to”. Thế là từ việc lo ma chay đến lúc làm lễ, rước quan tài đều trong những cảnh “rộn ràng” đến lố bịch, nhưng đỉnh cao của mọi trò vô nhân đạo được thể hiện một cách “kín đáo” không che đậy ở cảnh hạ huyệt.

Hạ huyệt chính là thao tác, công việc, là nghi lễ cuối cùng đối với người đã khuất. Sau khi hạ huyệt, người trong quan tài giống như đã yên vị tại “nơi ở mới” trong thanh thản. Người ta thường thực hiện nghi lễ bằng tất cả những gì trang nghiêm nhất, tôn trọng nhất và cả sự đau đớn khi từng nắm đất đổ xuống lấp đi chiếc quan tài có người thân mình đang yên nghỉ. Ấy vậy mà mọi sự khác biệt ở cảnh hạ huyệt của cụ cố tổ. Cậu Tú Tân “thấp thỏm” cả ngày nay chỉ để khoe cái máy ảnh mới cùng tài năng chụp ảnh siêu việt của mình. Và có lẽ cảnh hạ huyệt này chính là cảnh “đáng chụp nhất” trong đám tang, nên lúc hạ quan tài, cậu đã “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ,… để chụp ảnh kỉ yếu”. Thành ra mọi sự bi lụy đau buồn trông rất đạo mạo và đúng kiểu cách ấy cũng chỉ là những trò diễn cốt sao cho có tấm ảnh đẹp để làm kỉ niệm, để khoe thành tích.

Cụ cố Hồng thì không lộ liễu như vậy. Vẫn cái vẻ đau khổ như từ ngày cụ cố tổ đi, lúc nào khuôn mặt cụ cũng tỏ ra đúng mình là một đứa con trai đạo hiếu, thậm chí còn ho khạc, ngất đi trông đúng kiểu cách một đứa con có hiếu. Ông Phán mọc sừng còn tỏ ra nhiều sự tình hơn cả. Mỗi khi thấy cụ cố Hồng có vẻ muốn ngất là ông ta cũng đứng bên cạnh kêu: “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”. Làm cho ai cũng phải để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy. Ông ta khóc đến nỗi đứng không vững muôn ngất đi khiến cho Xuân Tóc Đỏ đứng bên cạnh phải đỡ. Nhưng thực chất ông ta chỉ tiện cớ đó mà dúi vào tay Xuân một tờ giấy bạc năm đồng gấp tư. Ông này quả là một tay “có tính toán” ngay trong lúc huyệt được hạ mà ông ta còn “nhớ” ra chuyện phải “đền ơn Xuân” về phần tài sản được chia thêm do “có được cái sừng trên đầu”. Vô hình chung, chúng đã biến thời khắc hạ huyệt thiêng liêng thành nơi đổi chác, buôn bán trắng trợn. Tên Xuân là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của cụ cố tổ thì như trở thành anh hùng của cả cái đại gia đình tha hóa này. Đọc đến đây, ta nhận ra cái lỗ huyệt định đặt quan tài cụ cố tổ kia có lẽ là lỗ huyệt được đào cho cả gia đình này hay là đào cho cả một cái xã hội lố lăng, trắn trợn, vô tình này. Những lời khóc của ông Phán mọc sừng: “Hứt!… Hứt!… Hứt!…” kia như là tiếng lòng của tác giả đang dậy sóng, muốn hất tung cả cái xã hội chó để xuống huyệt mồ, mà một xã hội tha hóa đến cùng kiệt như vậy, sớm muộn cũng đi xuống mồ mà thôi. Đây rõ không chỉ là đám tang cụ cố tổ mà còn là đáng đưa cả một lớp xã hội hồn ma về với địa ngục!

Cảnh hạ huyệt được Vũ Trọng Phụng miêu tả ngắn gọn với những phác chính về con người nhưng nổi hẳn lên cả một xã hội lòng người rộng lớn và phê phán gay gắt một lũ người vô nhân tính, trào phúng một xã hội mà con người tự đào mồ cho mình để tự đi xuống cái mồ chết chóc thời đại ấy.

3. Phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia chi tiết

Tác phẩm với tiêu đề hết sức đặc biệt: "Hạnh phúc của một tang gia", nhằm miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 - 45 của thế kỉ XX. Với mỗi tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn.

Nếu có thể được xem trọn vẹn tác phẩm "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng" của nguyên văn tên chương trong tác phẩm là: Hạnh phúc của một tang gia - một cái đám ma gương mẫu, chúng ta không khỏi bật cười bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà tang gia lại có hạnh phúc! Việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tùy tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu, cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cười: Đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám rước. Có người nhưng không phải là con người mà là những hình nhân dị dạng, những quái vật.

Theo sự thông thường nếu như nhà có tang sẽ vô cùng bối rối, đau buồn, đặc biệt là những người thân nhưng khi chúng ta nhìn trong tác phẩm thì muốn bật cười ngay, bởi vì khi ba người quan trọng nhất - ông cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, Tây, Tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo, nào là: Kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng thì thầm về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói thì thào của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, than thở việc vợ béo, chồng gầy. Chúng ta thấy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như ở hội chợ. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: Đám cứ đi rồi lại đám cứ đi. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu.

Hầu như toàn bộ đoạn trích là những tiếng cười trào phúng, những nhân vật được Vũ Trọng Phụng xây dựng trong tác phẩm đều là những nhân vật trào phúng, cảnh diễn ra tang lễ đau buồn nhưng người đọc chỉ cảm thấy buồn cười hơn là buồn đau, bởi một loạt những nhân vât trào phúng xuất hiện trong đoạn trích. Xem xét kĩ tác phẩm chúng ta còn sẽ thấy cảnh hạ huyệt lại là cao trào tập trung những mâu thuẫn đáng cười nhất. Tú Tân xuất hiện như nhà đạo diễn cuốn phim hài kiêm quay phim nhiếp ảnh, cùng bạn bè rầm rộ nhảy lên những ngôi mả như muốn đánh thức những linh hồn chết kia trở dậy để chứng kiến đám tang linh đình về người ông của hắn. Hắn bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy hoặc gục đầu hoặc cong lưng cho đúng mốt hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ hợp thời trang để làm nên những tấm ảnh giả về cái chết thật và những tấm ảnh thật về cái chết của nhân tính.

Bên cạnh xây dựng tình huống truyện trào phúng, nhân vật trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn thể hiện chất bi hài trong tác phẩm của mình rất rõ nét. Với chất bi hài này, khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng, ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt. Nhưng thực ra đó là tiếng khóc nhằm che giấu nụ cười nên không ra khóc mà cũng chẳng ra cười. Cuối cùng chỉ là những âm thanh méo mó: Hứt! Hứt! Hứt! Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mắt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.

Đám ma trong Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng là đám ma có một không hai không chỉ nó to nhất Hà thành xưa nay mà vì những diễn biến của đám tang đó, những màn kịch đã xuất hiện. Ta như có cảm tưởng Vũ Trọng Phụng đang chứng kiến cái đám tang đó và tường thuật lại cho người đọc một cách chi tiết về nó với một nụ cười châm biếm mỉa mai. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nói lên hai điều lớn nhất sự tàn nhẫn và sự dối trá.

4. Phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia học sinh giỏi

Vũ Trọng Phụng được biết đến là một nhà văn và nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Những tác phẩm văn học của ông đã góp phần cho văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám một diện mạo mới. Trong toàn bộ những tác phẩm của ông, chúng ta đều có thể thấy rất rõ ý thức bênh vực con người lao động. Chính ngòi bút trào phúng sắc sảo của ông đã vạch trần bản chất của những cái xấu xa, cái ác, bẩn thỉu của một xã hội cũ. Đồng nghĩa với đó là sự tất yếu phải xây dựng một xã hội mới của nhân dân. Có thể nói nhà văn Vũ Trọng Phụng đã thấu hiểu tận cùng cái đáy của xã hội thời ấy ở một góc nhìn không phải là ở trên xuống, từ ngoài nhìn vào là chính là người trong cuộc mới nhìn thấu được con người, xã hội và đưa vào từng trang viết. Những tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng, đúng là được coi là những tác phẩm vượt thời gian. Trong quan điểm của ông, con người nếu không hiện ra những kẻ vô nghĩa lý, sống một cách máy móc, trái với quy luật tự nhiên thì cũng là những kẻ mang tính vô luân: dâm - đểu- bịp, vậy mà lại toàn gặp may. Trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, yếu tố trào phúng như là một đặc điểm nổi bật, đó cũng là sở trường của ông tạo nên sức mạnh nghệ thuật về ngôn từ cũng như nội dung. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông phải kể đến tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” - được trích thuộc chương XV của tiểu thuyết “Số đỏ”, được viết và đăng báo năm 1936 và in thành sách năm 1938.

Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng, thể hiện sự bi hài của đám tang và sự giả dối, bất lương của lũ con cháu đại bất hiếu. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu trắng trợn: Trong cái khung cảnh ấy, một khung cảnh đầy “ưu thương”, hiện lên hình ảnh của những kẻ thối nát của xã hội lúc bấy giờ. Cậu Tú Tân đóng vai trò như là một nhà đạo diễn trong tấn bi hài kịch này. Để thỏa mãn sở thích chụp hình nghệ thuật của mình, cậu đã “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng hoặc lau nước mắt như thế này thế nọ”. Thậm chí bạn bè của cậu còn “rầm rộ” nhảy lên những ngôi mộ xung quanh, nhiệt tình tìm những góc chụp đẹp cho khỏi giống nhau. Chất bi hài khiến người đọc cười ra nước mắt. Họ đã biến nơi hạ huyệt thành sàn diễn, tình cảm tiếc thương người chết chỉ còn là trò diễn chứ chẳng xuất phát từ tình cảm xót thương nơi con tim. Cụ cố Hồng thì “ho khạc mếu máo và ngất đi”.

Khi bố vừa mất, ông chỉ nghĩ đến tiền và danh dự của bản thân thì việc khóc lóc, ngất xỉu của ông trong giờ khắc cuối cùng tiễn đưa người quá cố này cũng chỉ là một trò diễn mà thôi. Ông đã diễn xuất thật tuyệt vời trong đám tang của bố để đánh bóng bản thân. Chi tiết này góp phần tô đậm sự bất hiếu, giả dối của người đứng đầu cái gia đình được coi là danh giá của Hà thành này. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên của Phán mọc sừng, tỏ ra vô cùng đau đớn, ông “oặt người đi, khóc mãi không thôi”. Ông chính là người gián tiếp gây ra cái chết của cụ Tổ và tiếng khóc “hứt, hứt” đặc biệt của ông khiến mọi người phải chú ý. Thấy ông khóc đến oặt cả người, đứng không vững, Xuân phải đỡ cho ông ta khỏi ngã. Hành động của Xuân diễn ra theo đúng sự tính toán của ông Phán. Ông đang muốn thanh toán nốt cho Xuân năm đồng còn lại để “giữ chữ tín” trước khi tiếp tục nhờ Xuân quảng cáo cho đôi sừng hươu vô hình trên đầu của ông. Vì thế, trong khi Xuân chật vật đỡ ông đứng lên thì ông “dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”. Tiếng “hứt, hứt” của ông Phán thì ra chẳng phải tiếng khóc đau đớn cho một cuộc đời vừa chấm dứt mà là tiếng cười hạnh phúc đang cố gắng kìm nén.

Một hành động đầy sự giả dối và tàn ác. Kẻ chủ mưu giết người đang vui mừng thanh toán tiền công cho kẻ giết người ngay cạnh nấm mồ của nạn nhân. Ngòi bút miêu tả cận cảnh của Vũ Trọng Phụng soi vào góc khuất phía sau cái áo thụng trắng, phơi bày toàn bộ sự lừa lọc, nhẫn tâm, vô nhân tính. Đám tang cụ Tổ được Vũ Trọng Phụng miêu tả như một tấn hài kịch mà mỗi nhân vật là một vai hề vừa lố lăng giả dối, vừa tàn nhẫn. Cách tạo dựng tình huống của tác giả rất ngược đời, trái với đạo lý, phong tục. Một đám tang đầy với sự hạnh phúc, vui sướng mà không hề có chút cảm xúc xót xa, mất mát, đau thương của các thành viên trong gia đình. Qua đó, tác giả đã nói lên tất cả sự lố lăng vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu nửa thuộc địa nửa phong kiến và trào lưu u hóa. Cái xã hội mà tác giả gọi là chó đểu, khốn nạn.

Mỗi tác phẩm văn học được ví như chiếc gương khổng lồ soi chiếu và phản ánh xã hội. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là một tác phẩm như thế! Vũ trọng Phụng không ngần ngại mà phanh phui toàn bộ những xấu xa, bịp bợm của xã hội thượng lưu Việt Nam. Ở đó, những con thú đội lốt người nhi nhao bàn về “văn minh”, “âu hóa” và tiền nghiễm nhiên trở thành cán cân công lý của xã hội, nó lăn qua lương tâm của con người, giết chết tất cả những điều thiện lương, tốt đẹp. Cái xã hội “chó đểu” ấy được Vũ Trọng Phụng dựng lên bằng thủ pháp đối lập, nghịch dị giữa con người bên trong và bên ngoài để từ đó tiếng cười mỉa mai, sâu cay cứ vang lên không ngớt, cứ ám ảnh hồn ta bao năm tháng.

“Một tác phẩm văn học, muốn sống mãi trong trái tim bạn đọc và tồn tại mãi với những phong trần của cuộc đời, thì phải thật đặc biệt” và như một một điều hiển nhiên, ta bắt gặp điều ấy trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, mỗi chương truyện tựa như một màn kịch đặc sắc, một tấn hài kịch vừa bi vừa hài, mỗi nhân vật là một chân dung biếm họa. Bước vào “Hạnh phúc của một tang gia” ta như bước vào một thế giới của những điều hài hước đến kệch cỡm. Những điều giả dối, hài hước ấy được bộc bạch rõ nhất qua những trang văn miêu tả cảnh hạ huyệt của một gia đình giàu có bậc nhất Hà thành. Để rồi khi nhắc đến cảnh ấy, tôi không sao quên được tiếng cười kìm nén của ông Phán mọc sừng: “Hức…Hức…Hức!”.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
3 6.597
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo