Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay?

Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay là câu hỏi tự luận trong cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng”. Cuộc thi nhằm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2019-2021. Mời các bạn tham khảo để hoàn thành cuộc thi với kết quả cao nhất.

Lưu ý: Đáp án chỉ mang tính chất tham khảo.

1. Phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay

1. Khái niệm tham nhũng

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tệ nạn tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, không kể quốc gia đó giàu hay nghèo, đang ở trình độ phát triển kinh tế như thế nào; tham nhũng diễn ra ở mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá, nó tồn tại và phát triển thường xuyên và xảy ra mọi mặt của đời sống xã hội. Tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, gây ra những hậu quả hết sức nguy hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, cản trở sự phát triển đi lên của xã hội.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.

2. Các đặc trưng của hành vi tham nhũng - Nhìn từ góc độ pháp luật

Nghiên cứu những quy định của pháp luật về hành vi tham nhũng và tội phạm tham nhũng cũng như từ thực tiễn của cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, chúng ta thấy tham nhũng có những dấu hiệu đặc trưng sau:

- Tham nhũng phải là hành vi của những người có chức vụ quyền hạn: Yếu tố quyền lực là dấu hiệu đặc trưng đầu tiên và cũng là đặc trưng cơ bản nhất của hành vi tham nhũng. Điều này phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi phạm pháp luật khác được thực hiện bởi những người không có chức vụ, quyền hạn như hành vi trộm cắp, cướp giật, lừa đảo…

- Khi thực hiện hành vi tham nhũng thì người có chức vụ, quyền hạn đã có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vi phạm pháp luật: Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng cần lưu ý của hành vi tham nhũng. Bởi lẽ, không phải khi nào người có chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật cũng do lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn có thể có hành vi vi phạm pháp luật thông thường nhưng không phải trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì hành vi đó cũng không phải là hành vi tham nhũng. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không nhất thiết là hành vi vi phạm do họ thực hiện liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn đó mà có thể bao gồm cả việc lợi dụng ảnh hưởng của chức vụ quyền hạn hay vị trí công tác để thực hiện.

- Hành vi tham nhũng phải có động cơ vụ lợi, nhằm “thu lợi bất chính”: Đây là một dấu hiệu đặc trưng của hành vi tham nhũng. Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà pháp luật trao cho mình để mang lại những lợi ích có tính chất cá nhân. Tức là người có chức vụ, quyền hạn đã hành động không phải xuất phát từ nhu cầu của công việc và trách nhiệm của mình mà vì những lợi ích của riêng mình. Mục đích vụ lợi còn có thể được hiểu là có thể người có chức vụ, quyền hạn đã dùng ảnh hưởng của mình để mang lại lợi ích cho vợ con hay người thân thích của mình.

Tóm lại một hành vi được coi là tham nhũng nhất thiết phải có yếu tố lợi ích ở trong đó, có thể là lợi ích về vật chất hoặc tinh thần, cho mình hoặc cho người thân thích của mình. Có thể nói, lợi ích mà hành vi tham nhũng hướng đến rất đa dạng, nhưng lợi ích đó phải là mục đích, động cơ trực tiếp thúc đẩy người được sử dụng quyền lực nhà nước thực hiện hành vi tham nhũng.

3. Quá trình phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta

Ngay từ những ngày đầu giành độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức coi trọng việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân và coi đó là nền tảng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, Nhà nước thực sự là bộ máy phục vụ cho lợi ích của nhân dân Việt nam. Chính quyền non trẻ đã bắt tay ngay vào công cuộc kiến thiết đất nước đồng thời sẵn sàng chống lại âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch bên ngoài. Đây là một công việc hết sức mới mẻ và khó khăn. Lúc đó chúng ta chưa có một hệ thống pháp luật làm cơ sở cho việc quản lý của chính quyền đồng thời cũng đã bắt đầu có hiện tượng một số người cố tình lợi dụng địa vị của mình trong bộ máy chính quyền để mưu lợi cá nhân, tham ô, lãng phí…Thấy trước nguy cơ đó, nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích của nhân dân, ngày 23/11/1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh gồm 8 điều, “Điều thứ nhất: Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho việc giám sát....”. Như vậy, có thể thấy rõ ngay từ đầu, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã nhìn thấy nguy cơ của căn bệnh quyền lực có thể phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc; dành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn rất nhiều. Sắc lệnh quy định cho Ban thanh tra đặc biệt những quyền hạn hết sức rộng lớn: “Điều tra, hỏi chứng, xem xét các giấy tờ tài liệu của Uỷ ban nhân dân hoặc của các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công tác giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay Chính phủ phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biệt xét xử; Tịch biên hoặc niêm phong các tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập hồ sơ mang một phạm nhân ra Toà án đặc biệt…

Điều thứ ba- Sẽ thiết lập ngay tại Hà Nội một Toà án đặc biệt để xử những nhân viên của Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố…

Điều thứ sáu- Toà án đặc biệt có toàn quyền định án, có thể tuyên án tử hình.

Những án tuyên lên sẽ được thi hành trong 48 giờ…” .

Có thể nói rằng, Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 cùng với sự ra đời của Ban Thanh tra đặc biệt và Toà án đặc biệt với các nhiệm vụ quyền hạn cũng như đối tượng hoạt động của nó chính là văn bản pháp lý đầu tiên về đấu tranh chống tham nhũng của Nhà nước ta, Nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sự ra đời của Ban Thanh tra đặc biệt và những hoạt động của nó đã giúp cho chúng ta đấu tranh với những hành vi vi phạm của những kẻ thoái hoá, biến chất trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng đã bị phát hiện và xử lý, mang lại niềm tin của nhân dân vào chế độ mới.

Cho đến trước khi có Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và những qui định về chống tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999, các văn bản pháp luật, chủ yếu là do Chính phủ ban hành, có quy định rải rác về các biện pháp phòng ngừa và chống tham nhũng. Tuy nhiên có thể kể đến một số văn bản quy định trực tiếp về vấn đề chống tham nhũng như:

- Chỉ thị số 84/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/9/1964 về việc tổng hợp tình hình tham ô, lãng phí quan liêu;

- Quyết định số 207/CP ngày 6/12/1962 về việc vận động nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ô lãng phí, quan liêu;

- Quyết định số 240/HĐBT ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đấu tranh chống tham nhũng;

- Chỉ thị số 416/CT ngày 3/12/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường công tác thanh tra, xử lý các việc tham nhũng, buôn lậu;

- Chỉ thị số 08/CT-TATC ngày 06/12/1990 của Tòa án nhân dân tối cao về việc chống tham nhũng, buôn lậu qua biên giới và một số tội phạm kinh tế khác;

- Quyết định số 114/TTg ngày 21/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tham nhũng, buôn lậu;

- Chỉ thị số 171/TTg ngày 16/12/1990 của Thủ tướng Chính phủ về việc chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát trong xây dựng cơ bản…

Về các biện pháp hình sự nhằm xử lý các tội phạm về tham nhũng đáng kể nhất có các văn bản: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21 tháng 10 năm 1970, Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ năm 1981, Các qui định tội phạm về chức vụ trong Bộ luật Hình sự năm 1986…

Nhìn chung, qua các giai đoạn phát triển thời gian này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, các văn bản chủ yếu dưới luật, tản mát, quy định còn chung chung, định hướng, chủ trương mà chưa tạo ra những thiết chế, cơ chế cần thiết làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh chống tham nhũng; chỉ chú trọng đến việc xử lý mà chưa có đủ qui định tạo ra cơ chế phòng ngừa tham nhũng nên hiệu quả thi hành còn hạn chế.

Nhằm khắc phục bất cập trên, ngày 26/2/1998, Pháp lệnh chống tham nhũng được ban hành. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên chuyên biệt về chống tham nhũng, trong đó đưa ra định nghĩa về hành vi tham nhũng, người có chức vụ quyền hạn, các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng...cũng như qui định cụ thể có tính chất "lượng hoá" để phân biệt các hình thức xử lý người có hành vi tham nhũng. (Đến năm 1999 chúng ta ban hành Bộ Luật hình sự , trong đó qui định một nhóm tội tham nhũng bao gồm 07 tội danh. Vì vậy đến năm 2000, Pháp lệnh số 22/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28 tháng 4 năm 2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh chống tham nhũng cho phù hợp với Bộ luật hình sự). Trên có sở các qui định của Pháp lệnh chống tham nhũng, các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời nhiều vụ việc tham nhũng, thu hồi một số lượng lớn tiền, tài sản cho nhà nước và nhân dân.

Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai thực hiện, Pháp lệnh chống tham nhũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tham nhũng, như các biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể; qui định trách nhiệm chung cho các cơ quan nhà nước trong phòng, chống tham nhũng mà chưa có qui định về cơ chế phối hợp để lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng trong đấu tranh chống tham nhũng. Mặt khác, việc xác định phạm vi trách nhiệm và quyền hạn cụ thể của từng cơ quan có nhiệm vụ chống tham nhũng chưa được phân định rõ ràng, thiếu cơ chế điều phối hoạt động; chưa có các qui định để tạo điều kiện cho cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm sát áp dụng các biện pháp có hiệu quả để đấu tranh chống tham nhũng; cơ chế tiếp nhận và xử lý tố cáo tham nhũng chưa hợp lý; thiếu các qui định tạo điều kiện thuận lợi, động viên, khuyến khích tố cáo tham nhũng; chưa có qui định nhằm tạo ra cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, đoàn thể xã hội, cơ quan báo chí, cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp, công dân nhằm phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; Mặt khác yêu cầu của quá trình hội nhập nói chung, trong lĩnh vực pháp luật nói riêng, đặc biệt là việc chúng ta ký kết và tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu ban hành đạo luật mới, tạo ra một khuôn khổ pháp luật đầy đủ và mạnh mẽ hơn để nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Vì những lý do đó, ngày 29/11/2005, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật phòng, chống tham nhũng.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2006, là đạo luật đầu tiên do Quốc hội ban hành có hiệu lực pháp luật cao. Tiếp theo đó, ngày 04/8/2007, Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng.

Nhằm kịp thời khắc phục một số bất cập trong quá trình thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và thể chế hóa các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 3 khóa X, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn được nói đến gồm các văn bản pháp luật sau:

- Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng.

- Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

- Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/ 2007 của Chính phủ quy định về minh bạch tài sản, thu nhập. Nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ sửa đổi Nghị định số 37/2007/NĐ-CP.

- Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng.

- Nghị định số 102/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007 của Chính phủ quy định thời hạn không được kinh doanh trong lĩnh vực có trách nhiệm quản lý đối với những người là cán bộ, công chức, viên chức sau khi thôi giữ chức vụ.

- Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định về danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.

- Ngoài ra, còn các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư của một số bộ, ngành cũng quy định về phòng, chống tham nhũng.

Sau 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (Luật PCTN), công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; giúp cải thiện môi trường kinh doanh và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nỗ lực phòng, chống tham nhũng của Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong khuôn khổ thực thi Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên và các diễn đàn quốc tế khác.

Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện còn ít, một số vụ việc xử lý còn kéo dài, chưa nghiêm, thu hồi tài sản tham nhũng đạt kết quả thấp, gây tâm lý bức xúc và hoài nghi trong xã hội về quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Kết quả 10 thực hiện Luật PCTN cho thấy, những bất cập của Luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, quy định về công khai, minh bạch còn chưa mang tính bao quát và thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện, đặc biệt là chưa làm rõ về nguyên tắc, hình thức, nội dung, thời gian, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch; nội dung công khai, minh bạch theo ngành, lĩnh vực trùng lặp với quy định về công khai trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành; chế độ thông tin, báo cáo, đo lường, đánh giá về công tác phòng, chống tham nhũng chưa cụ thể.

- Thứ hai, quy định về trách nhiệm giải trình chưa phù hợp, còn hẹp (chỉ thực hiện đối với quyết định, hành vi có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức), chưa toàn diện; trình tự, thủ tục và nội dung thực hiện trách nhiệm giải trình còn chưa rõ ràng, chưa mang tính khả thi, chưa gắn với việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa khác, đặc biệt là biện pháp về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

- Thứ ba, chưa quy định một cách đầy đủ, toàn diện về kiểm soát xung đột lợi ích đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; một số biện pháp hiệu quả còn hạn chế như thiếu cơ chế giám sát, tiếp nhận, xử lý thông tin, phản ánh vi phạm về nhận, tặng quà; thiếu biện pháp xử lý cụ thể; chưa khắc phục được việc tặng và nhận quà đối với người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến công vụ; chưa kiểm soát được hoạt động và thu nhập ngoài công vụ của người có chức vụ, quyền hạn….

- Thứ tư, các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng và không khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng …

- Thứ năm, các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu; chưa quy định rõ việc sử dụng bản kê khai tài sản vào mục đích phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng...

- Thứ sáu, các quy định về cơ chế phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chưa phù hợp, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán với cơ quan điều tra trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng chưa phát huy vai trò của mỗi cơ quan trong xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.

- Thứ bảy, các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng còn thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện, đặc biệt là các biện pháp bảo vệ người tố cáo, khen thưởng người có thành tích trong tố cáo tham nhũng…

- Thứ tám, thiếu quy định về các biện pháp xử lý phi hình sự đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hành vi tham nhũng và thiếu quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền để xử lý các hành vi vi phạm Luật PCTN...

Những hạn chế, bất cập nêu trên dẫn đến tình trạng làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tham nhũng. Vì vậy, cần phải xây dựng Luật phòng, chống tham nhũng mới nhằm khắc phục tình trạng đó.

Ngoài ra, việc ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng mới để thay thế Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012) là rất cần thiết vì xây dựng Luật Phòng, chống tham nhũng mới nhằm tiếp tục quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng, để đồng bộ với quy định mới trong các đạo luật quan trọng khác được Quốc hội thông qua và nhằm nâng cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng.

Ngày 20/11/2018, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2019, là đạo luật có hiệu lực pháp luật cao, phù hợp với tình hình của đất nước, quốc tế, được dư luận đánh giá là một đạo luật quy định khá toàn diện, đầy đủ, và hiện đang có hiệu lực thi hành. Tiếp theo đó, ngày 15/7/2020, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng (Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH).

2. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng chống tham nhũng

Bác Hồ coi tham ô, lãng phí là tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Người chỉ rõ bản chất của hành vi tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam, là trộm cướp. Trong bài nói chuyện năm 1952 về “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Hồ Chủ tịch nói rõ: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn cắp của công làm của tư; đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình…”… “Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”.

Theo Người, đặc trưng của hành vi tham ô là biến "của công" thành "của tư". Bất cứ hành vi lấy "của công" làm "của tư" nào cũng đều bị Hồ Chí Minh coi là hành vi tham ô. Hơn một tháng sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, Báo Cứu quốc (ngày 17/10/1945) đăng bức thư của Người gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng. Trong thư, Người nhắc nhở các cấp chính quyền ở một số nơi “cậy thế, tham ô, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo”... Người căn dặn: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”.

Ngày 17/3/1952, Người viết bài về chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Bài báo có đoạn: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần, kiệm, liêm, chính để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc”. Chúng ta từng biết, năm 1950, vào ngày 5/9, tại Chiến khu Việt Bắc diễn ra một phiên tòa đặc biệt gây chấn động dư luận xã hội lúc bấy giờ. Đó là vụ án Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ và làm nhiều điều bỉ ổi. Kết thúc phiên tòa, Trần Dụ Châu bị tuyên phạt với mức án cao nhất - tử hình. Sự việc được báo cáo lên Hồ Chủ tịch. Người đã cân nhắc kỹ và quyết định bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”. Tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ to lớn về mọi mặt. Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ; làm rối loạn kỷ cương pháp luật, hư hỏng cán bộ... Trong khi “chiến sỹ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp, mà những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian mật thám”. Người nhắc nhở, chống loại kẻ địch này (tức nạn tham ô) khó khăn, phức tạp hơn ngay cả so với đánh giặc ngoại xâm. Điều này phải được xem là một đặc thù, chi phối toàn bộ cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

Người căn dặn: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người”. Nói chuyện với cán bộ và nhân dân Hà Bắc ngày 17/10/1963, Người kêu gọi: "... Phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Phải chấm dứt những tệ nạn xấu xa do xã hội cũ để lại, như lười biếng, cờ bạc, buôn gian bán lậu, tiêu sài xa xỉ, gả bán, cưỡng ép... Để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đồng bào các dân tộc phải nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần cần kiệm xây dựng nước nhà.

Nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/1969), Bác viết bài báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Bác chỉ rõ: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Bác căn dặn: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”… “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt”.

Công cuộc phòng chống tham nhũng của chúng ta hôm nay, sau hơn 30 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt, thậm chí đã mắc phải một số yếu kém, khuyết điểm, trong đó, nạn tham nhũng có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp, nặng nề hơn.

Để khắc phục tình trạng này, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN), Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, bộ Luật cho công tác PCTN. Từ sau Hội nghị toàn quốc về công tác PCTN năm 2014, thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp lớn về PCTN.

Bộ Chính trị (khóa X) ra Chỉ thị 50-CT/TW ngày 7/12/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) xác định “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”.

Từ năm 2014 đến nay, Quốc hội đã xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thông qua 94 luật, pháp lệnh, 88 Nghị quyết về các lĩnh vực kinh tế - xã hội và PCTN. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, Quốc hội đã thông qua 36 luật, pháp lệnh, 45 Nghị quyết, nhất là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2015; Luật báo chí (sửa đổi); Luật tiếp cận thông tin; Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Luật đấu giá tài sản; Luật tố cáo (sửa đổi); Luật Doanh nghiệp; Luật Đấu thầu; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp...; đang tích cực hoàn thiện các dự án Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi), Luật Công an nhân dân (sửa đổi), Luật Bảo vệ bí mật nhà nước...

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 694 Nghị định, 518 Nghị quyết, 281 quyết định; riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay đã ban hành 429 Nghị định, 327 Nghị quyết, 134 quyết định tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng. Cũng từ năm 2014, cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 840 tổ chức Đảng và 58.120 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 2.720 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái.

Thanh tra Chính phủ đã tiến hành thanh tra toàn diện 4 dự án lớn; rà soát việc thanh tra 7 dự án gây thất thoát, thua lỗ nặng, kéo dài, được dư luận xã hội quan tâm. Từ năm 2014 đến nay, đã triển khai 29.429 cuộc thanh tra hành chính, 872.941 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; qua đó, đã kiến nghị thu hồi 188.476 tỷ đồng, 9.221 ha đất, chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 338 vụ/436 đối tượng.

Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành kiểm toán 829 đơn vị đầu mối; kiến nghị thu hồi cho ngân sách nhà nước 74.897 tỷ đồng, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ 522 văn bản của các cơ quan nhà nước; chuyển 8 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan có thẩm quyền để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Từ năm 2014 đến nay, cơ quan điều tra trong cả nước đã khởi tố mới 971 vụ án/2.010 bị can, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 1.060 vụ án/2.444 bị can, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 968 vụ án/2.297 bị cáo về các tội tham nhũng. Nổi lên trong số đó là các vụ án Dương Chí Dũng và đồng phạm; Đinh La Thăng và đồng phạm; Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm; Phạm Công Danh và đồng phạm; Hà Văn Thắm và đồng phạm; Phan Văn Anh Vũ và đồng phạm; vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc nghiêm trọng xảy ra tại Phú Thọ và một số địa phương; Vụ án Đinh Ngọc Hệ và đồng phạm...

Riêng trong 2 năm 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 2018 đã chỉ đạo xử lý 52 vụ án, 33 vụ việc, đã xét xử sơ thẩm 21 vụ/ 263 bị cáo (tuyên phạt: 3 bị cáo án tử hình; 9 bị cáo tù chung thân; 4 bị cáo tù 30 năm; 240 bị cáo tù từ 12 tháng đến dưới 30 năm).

Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được, khắc phục hạn chế, yếu kém, công việc tới đây của chúng ta còn rất to lớn và nhiều khó khăn. Cần quán triệt và tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, giải pháp về PCTN theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Kết luận 21 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) và Kết luận số 10 của Bộ Chính trị (khóa XII), gắn với thực hiện hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Khẳng định rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước về PCTN; làm cho mọi người thấy rõ việc đẩy mạnh PCTN, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không làm hạn chế sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của những người tâm huyết, vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, với động cơ trong sáng, lành mạnh; không “làm chậm” sự phát triển của đất nước, mà ngược lại, làm trong sạch, tạo sức mạnh thật sự của bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân; tạo động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các cấp ủy, tổ chức Đảng phải xác định PCTN là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, cần tập trung cao cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo; gắn công tác PCTN với đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Khẩn trương cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và PCTN trong nội bộ Đảng, đảm bảo chặt chẽ, đồng bộ; hình thành hệ thống các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức, liêm chính, trong sạch, gương mẫu đi đầu trong PCTN. Xây dựng cơ chế để bảo vệ, khuyến khích mạnh mẽ người đứng đầu cơ quan, đơn vị tự kiểm tra phát hiện, xử lý tham nhũng, cũng như bảo vệ, khuyến khích người tố cáo, tích cực đấu tranh với tham nhũng.

Đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật; khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế - xã hội và PCTN, nhất là các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thu, chi ngân sách; đầu tư xây dựng (bao gồm cả đầu tư công và đầu tư theo hình thức BT, BOT); tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan; các chế độ, định mức, tiêu chuẩn...; các giải pháp về PCTN còn hình thức, hiệu quả thấp. Có cơ chế để kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”, ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng ngay từ khi xây dựng chính sách. Hệ thống thể chế của Đảng và Nhà nước phải tạo ra được “một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để không dám tham nhũng; một cơ chế đảm bảo để không cần tham nhũng”.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công chức, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước; hoàn thiện, thực hiện nghiêm các quy định về công tác tổ chức, cán bộ để PCTN; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

Rà soát, hoàn thiện quy định của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát quyền lực để PCTN.

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn thực sự có hiệu lực, hiệu quả để ngăn ngừa tham nhũng theo nguyên tắc: Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực càng cao, trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phảỉ truy cứu trách nhiệm và xử lý vỉ phạm.

Phải tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực để đảm bảo quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, để quyền lực không bị “tha hóa”. Cùng với hoàn thiện hệ thống thể chế về kinh tế - xã hội và PCTN để “nhốt quyền lực vào trong lồng thể chế”, phải tăng cường giám sát việc thực thi thể chế thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; thanh tra, kiểm toán của Nhà nước; giám sát của các cơ quan và đại biểu dân cử; giám sát của các cơ quan tư pháp; giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân và của toàn xã hội.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý tham nhũng của các cơ quan, đơn vị chức năng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN, nhằm ngăn ngừa tham nhũng chính ngay trong các cơ quan chống tham nhũng. Đưa công tác kiểm tra, giám sát về PCTN nói chung, công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra, xử lý vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng vào chương trình công tác hàng năm của cấp uỷ và Ủy ban kiểm tra các cấp.

Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong PCTN.

Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hoàn thiện quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, nhất là phạm vi đối tượng phải kê khai; các nội dung về công khai, quản lý, kiểm tra, giám sát, xác minh bản kê khai; trách nhiệm giải trình, chế tài xử lý vi phạm trong kê khai và xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, không kê khai, biến động tăng thêm mà không giải trình được một cách hợp lý. Hoàn thiện quy định và hệ thống cơ sở hạ tầng để chuyển mạnh và tiến tới thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.

Tập trung lãnh đạo phát hiện sớm, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN; từng bước mở rộng hoạt động PCTN ra ngoài khu vực nhà nước, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về PCTN.

3. Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng số 1

Tham nhũng luôn là vấn đề nhức nhối đối với mọi xã hội, mọi nhà nước, không ít nhà nghiên cứu cho rằng, tham nhũng là một “ căn bệnh” tất yếu song hành cùng nhà nước; nhà nước còn tồn tai thì còn tham nhũng.Tham nhũng gây bất bình trong nhân dân, làm mất uy tín của chính phủ.

Từ tính chất nguy hại đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự tồn vong của chế độ, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn coi tham nhũng là “giặc nội xâm”. Nó tự ngụy trang rất tinh vi và ẩn dấu ngay trong nội bộ, nên cuộc chiến phòng, chống loại “giặc” này luôn cam go, phức tạp; cần có sự đồng thuận, quyết tâm cao và tiến hành thường xuyên, liên tục, không ngừng nghỉ.

Các nghiên cứu về lịch sử nhân loại cho thấy, ở mỗi thời đại, tham nhũng được hiểu, đề cập và định danh với những tên gọi khác nhau, phạm vi rộng hẹp cũng khác nhau,... nhưng điểm chung của vấn nạn này là gây ra những hậu quả nghiêm trọng, cản trở hoặc đối lập với tiến bộ xã hội. Với cách tiếp cận đó, có thể hiểu tham nhũng là một hiện tượng xã hội, xuất hiện cùng với sự xuất hiện tư hữu và quá trình hình thành, phát triển của giai cấp, nhà nước; nó được biểu hiện qua hành vi của con người, tác động tiêu cực đến xã hội và sẽ mất đi khi xã hội không còn sở hữu tư nhân (sở hữu cá nhân vẫn còn). Căn nguyên của hiện tượng này nằm ngay trong lòng xã hội, do cá nhân hay bộ phận giữ những trọng trách trong xã hội thực hiện với mục đích vụ lợi riêng, làm cản trở, kìm hãm quá trình vận động, phát triển của xã hội. Vì thế, đây là cuộc chiến lâu dài, gian nan, phức tạp đối với tất cả các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.

1. Tham nhũng xuất hiện, tồn tại trong những chế độ xã hội nhất định.

Từ lý luận và những bằng chứng khoa học cho thấy, thủa “bình minh”, loài người muốn tồn tại phải đoàn kết, sống theo “bầy đàn”, cùng nhau sáng tạo ra công cụ lao động, chinh phục, cải tạo tự nhiên và cùng nhau sản xuất, sử dụng tư liệu sinh hoạt,… nên mọi của cải vật chất đều là của chung, chưa có hành vi chiếm hữu và lúc đó chưa có tham nhũng. Quá trình đó liên tục lặp lại, làm cho nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần ngày càng cao, thúc đẩy sản xuất phát triển. Khi sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, năng suất lao động được nâng lên, tư liệu sinh hoạt chung được sản xuất ra vượt quá nhu cầu duy trì sự sống của cộng đồng, dẫn đến hiện tượng dư thừa; khi đó, bắt đầu xuất hiện những cá nhân, bộ phận người bị “tha hóa”, tìm mọi cách độc chiếm lượng tư liệu sinh hoạt dư thừa đó làm của riêng – hành vi tham nhũng xuất hiện. Sự “tha hóa” ngày càng tăng, nhu cầu chiếm hữu ngày càng lớn, dẫn đến chiếm đoạt về lao động và tư liệu sản xuất, rồi tổ chức lực lượng chuyên trách để bảo vệ, mở rộng nội dung, phạm vi, lãnh thổ chiếm hữu,… đưa đến sự ra đời của nhà nước cùng chế độ chiếm hữu nô lệ - xã hội có đối kháng về địa vị, lợi ích giữa các giai cấp. Như vậy, tham nhũng xuất hiện từ cuối xã hội nguyên thủy; khởi đầu là hành vi chiếm đoạt tư liệu sinh hoạt dư thừa trong cộng đồng; sau đó, nội dung, phạm vi chiếm hữu ngày càng mở rộng. Ban đầu là một, hay một bộ phận người trong cộng đồng, rồi đến giai cấp bóc lột (trong xã hội có đối kháng giai cấp); khi xã hội phát triển đến giai đoạn mà nhu cầu tối thượng của mỗi người là lao động, cống hiến, “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, không còn đối kháng giai cấp – không còn cơ sở xã hội cho sự tồn tại của nó nữa, tham nhũng sẽ mất đi. Hiện nay, nhân loại đang trong giai đoạn phát triển có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, vẫn còn cơ sở tồn tại, nên vẫn còn tình trạng tham nhũng, Việt Nam cũng không ngoại lệ.

2. Hành vi tham nhũng do người bị “tha hóa” thực hiện.

Quá trình nghiên cứu xây dựng học thuyết về con người, các nhà kinh điển Mác – Lênin khẳng định: “con người khác với con cừu chỉ là ở chỗ trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con người là bản năng đã được ý thức”1. Thực tế là, sự tồn tại của con người luôn gắn liền với bản năng, nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, mặc, ở, đi lại,... và nó được “ý thức hóa”, đó là sự khác biệt căn bản nhất giữa con người so với con vật. Quá trình hoạt động thực tiễn làm cho sự thống nhất biện chứng giữa bản năng sinh vật và mặt xã hội trong con người ngày càng hoàn thiện, nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần – tức nhu cầu về lợi ích ngày càng cao, không có giới hạn, vì nó được “ý thức hóa”; ngược lại, những nhu cầu đó cũng tác động mạnh mẽ trở lại, thúc đẩy hoạt động thực tiễn, làm cho ý thức con người phát triển ngày càng hoàn thiện. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, mỗi người, bộ phận, cộng đồng người,… có mục đích, cách thức tiến hành riêng; phần đông (nhất là thành phần lao động trong xã hội chiếm đa số) đều mong muốn được phát triển toàn diện, cống hiến tài năng, trí tuệ, sức lực của mình, góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng, xã hội, theo hướng: dân chủ, công bằng, văn minh , mọi người đều bình đẳng trong thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Mặc dù, “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”2 và “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên”3, nhưng sự tác động, chi phối của quy luật phát triển không đều làm cho cá nhân, bộ phận và thậm chí là giai cấp (trong xã hội có đối kháng giai cấp) bị “tha hóa”; hoạt động của họ là nhằm thỏa mãn nhu cầu về địa vị xã hội, lợi ích riêng, chứ không vì sự phát triển chung của cộng đồng, xã hội. Nguy hại và vô cùng khó khăn, phức tạp trong phòng, chống là sự “tha hóa” chủ yếu rơi vào những cá nhân, bộ phận nắm giữ những trọng trách nhất định trong xã hội; họ thường xuyên trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến những quyết sách, điều tiết về mặt lợi ích, quyền lực xã hội. Thực tế là, đã có những người được xã hội giao cho giữ cương vị nguyên thủ quốc gia, nhưng vẫn tham nhũng4. Tuy số lượng cá nhân, bộ phận người bị “tha hóa” nhỏ hơn nhiều so với thành phần lao động và các tầng lớp khác trong cộng đồng, xã hội, nhưng hành vi tham nhũng luôn kìm hãm, gây hậu quả nghiêm trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì, bản năng, sinh vật, nhu cầu tự nhiên của họ được “ý thức hóa” theo hướng tiêu cực , luôn tìm mọi thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, biến tài sản chung của xã hội, tập thể hay của công dân thành tài sản riêng, làm thất thoát, lãng phí kìm hãm sự phát triển; đảo lộn những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức,… và len lỏi vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

3. Vài nét về tham nhũng và công tác phòng, chống nó ở nước ta qua các thời kỳ.

Cùng với những giá trị truyền thống tốt đẹp, tình trạng tham nhũng thời kỳ phong kiến Việt Nam cũng diễn ra phức tạp, làm cho đời sống nhân dân lao động lâm vào cảnh bần hàn cơ cực; hình ảnh xã hội được phản ánh khá đầy đủ qua những nhân vật trong các tác phẩm dòng văn học hiện thực phê phán, như: “Truyện Kiều”, “Tắt Đèn”, “Làng Vũ Đại ngày ấy”, v.v. Ngược lại, nhiều triều đại cũng sớm nhận rõ tác hại và có những quy định ngăn ngừa, nghiêm trị hành vi tham nhũng, điển hình như: Nhà Lý (1009 - 1225) quy định, nếu quan nha, thư lại nào mà thu thuế vượt quá số lượng thì bị khép vào tội ăn trộm; nếu Khố ty “ăn lụa” của dân thì cứ mỗi thước bị phạt 100 trượng, “ăn” từ một đến trên 10 tấm thì phạt thêm phối dịch từ một đến 10 năm. Điều 138, Bộ luật Hồng Đức thời vua Lê Thánh Tông ghi rõ, Quan lại mà tham nhũng, nhận hối lộ, làm sai phép nước thì bị phạt: tham ô từ 01 đến 09 quan tiền bị cách chức, từ 10 đến 19 quan thì bị đánh trượng rồi đi đày, từ 20 quan trở lên bị xử chém,… của hối lộ, một phần trả lại chủ, một phần sung vào kho. Trực tiếp chứng kiến cảnh tham nhũng và ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với đời sống xã hội thời vua Lê chúa Trịnh, bác học Lê Quý Đôn (từng giữ chức Thượng thư bộ Công) đã tổng kết và chỉ ra năm nguy cơ dẫn đến mất nước gồm: 1. Trẻ không kính già (đạo đức suy đồi); 2. Trò không trọng thầy (giáo dục suy đồi); 3. Binh kiêu tướng thoái (quân đội suy đồi); 4. Tham nhũng tràn lan (thể chế suy đồi dẫn đến mất nước) ; 5. Sĩ phu ngoảnh mặt (niềm tin suy đồi).

Thời kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, mọi tầng lớp nhân dân ta đều chung sức, đồng lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do thống nhất đất nước. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ hy sinh cả xương máu, tính mạng của mình, nhân dân ra sức đóng góp tiền của, sức lực cho cách mạng và luôn sẵn sàng: “mỗi người dân là một chiến sĩ”. Mặc dù cả nước tập trung sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, song vẫn còn biểu hiện tham nhũng, gây bất bình trong nhân dân. Một trong những sự thật đau lòng là vụ án Trần Dụ Châu bị Tòa án binh Tối cao xét xử, kết án tử hình ngày 05/9/1950, tại thị xã Thái Nguyên (nay là thành phố Thái Nguyên). Trong khi chờ thi hành án, tử tù gửi đơn lên Chủ tịch Hồ Chí Minh xin tha tội chết, nhưng Người đã dứt khoát: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm”.

Bước vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên phạm vi cả nước, nhất là từ khi đổi mới đến nay, tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra với tính chất, mức độ khác nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Để đấu tranh ngăn chặn, phòng, chống hiện tượng này, Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách phù hợp với từng giai đoạn. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (từ ngày 20 đến 25/01/1994), xác định: nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội là một trong những nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước, chế độ và dân tộc. Mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta đều ban hành những nghị quyết chuyên đề, hoặc lồng ghép nội dung phòng, chống tham nhũng vào nhiều nghị quyết Trung ương. Hệ thống luật, nghị định, hướng dẫn thực hiện do Nhà nước ban hành liên quan đến lĩnh vực này ngày càng hoàn thiện (Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành được Quốc hội khóa XIV thông qua 11/2018 là luật thứ 3). Hệ thống cơ quan chỉ đạo, cơ quan chuyên trách được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, chuyên sâu. Những năm gần đây, cuộc chiến này được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh với quyết tâm chính trị cao và đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Với phương châm: “không có vùng cấm”, từ đầu khóa XII đến tháng 12/2020, cơ quan chức năng các cấp đã tiến hành kiểm tra, thanh tra, điều tra, xét xử công khai hàng chục vụ, với hàng nghìn cán bộ các cấp liên quan đã bị xử lý kỷ luật, thu hồi tài sản, nhiều người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó, có: “trên 3.200 đảng viên liên quan đến tham nhũng; đã thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý: 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, hơn 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”5.

Tham nhũng luôn là một “căn bệnh” nguy hiểm của xã hội, để có thể phòng ngừa, đẩy lùi, chữa khỏi được nó phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp xóa bỏ chế độ tư hữu, cùng đối kháng giai cấp; đồng thời, ngày càng hoàn thiện bản chất “người” để lao động, cống hiến trở thành nhu cầu, mục đích cao nhất trong hoạt động của mỗi người, đặc biệt là những cá nhân, bộ phận được giao cho nắm giữ những trọng trách xã hội nhất định.

4. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay số 2

Tham nhũng không phải là hiện tượng mới xuất hiện. Nó ra đời và gắn liền với sự tồn tại, phát triển của nhà nước. Tham nhũng thực ra là một căn bệnh cố hữu của nhà nước. Mỗi khi đội ngũ cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất, quyền lực nhà nước bị tha hóa thì những kẻ tham nhũng trở thành thế lực thao túng đời sống xã hội. Cho đến nay, trên toàn thế giới, chưa phát hiện được quốc gia nào không có tham nhũng. Nghĩa là, nó đang hiện diện ở mọi quốc gia không phân biệt sắc tộc, văn hóa và chế độ xã hội. Tuy nhiên, tính chất, mức độ, loại hình tham nhũng ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực là rất khác nhau và phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và chế độ chính trị.

Tham nhũng dù tiếp cận dưới góc độ nào thì vẫn là hành vi bất hợp pháp của người có trọng trách trong bộ máy công quyền nhằm trục lợi cá nhân. Rõ ràng, chủ thể tham nhũng phải là người có chức, có quyền, có vị thế trong hệ thống quyền lực công; mục đích tham nhũng là nhằm mang lại lợi ích cho bản thân; hành vi tham nhũng là lợi dụng vị thế, quyền lực của mình để nhận hối lộ, đưa hối lộ, tham ô, chiếm đoạt hay sử dụng trái phép tài sản chung, gây ảnh hưởng, tạo áp lực, nhũng nhiễu, cửa quyền, bao che, cản trở, can thiệp...

Với mục đích và hành vi như thế, tham nhũng gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho mọi quốc gia không chỉ về kinh tế, đạo đức mà còn cả về chính trị, xã hội, an ninh; nhất là những nước nghèo. Vì vậy, nhiều quốc gia coi tham nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm, một quốc nạn trực tiếp tàn phá sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, gây mất ổn định xã hội, đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm nhiều tới công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí. Vì vậy, trong nhiều thập niên, tệ tham nhũng chưa trở thành mối lo của xã hội ta. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tham nhũng đang trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn của Quốc hội, tại các kỳ đại hội Đảng các cấp, nhiều người đã chỉ rõ sự phổ biến của tệ tham nhũng và phê phán gay gắt tệ tham nhũng, gọi tham nhũng là quốc nạn.

Nhận thức đúng những nguy cơ dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân, bất ổn định xã hội và đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, kịp thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng vạch rõ: “Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở... Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng”, và “Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; khen thưởng người phát hiện đúng những vụ tham nhũng”.

Triển khai những tư tưởng quan trọng của Đại hội IX của Đảng về chống tham nhũng, kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng vào ngày 29-11-2005, được Chủ tịch nước ký Lệnh và có hiệu lực từ ngày 1-6-2006. Luật Phòng, chống tham nhũng gồm 8 chương với 92 điều. Đây là bộ luật khá toàn diện, đầy đủ các khía cạnh pháp luật xung quanh vấn đề phòng, chống tham nhũng ở nước ta; đồng thời, đã thể hiện được những tư tưởng cơ bản và quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta.

Mặc dù, công tác phòng, chống tham nhũng đã có sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và sự quan tâm của toàn xã hội nhưng tình trạng tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn, không giảm mà có xu hướng tăng. Đặc biệt, một loạt vụ án tham nhũng lớn được công luận phát hiện chưa được điều tra và xét xử kịp thời... Trước thực trạng đó, dư luận trở nên hết sức bức xúc và hoài nghi. Nhiều ý kiến cho rằng, chống tham nhũng chủ yếu mang tính hình thức, trên giấy tờ, trong các cuộc họp, hô hào khẩu hiệu; xử lý tham nhũng thiếu nghiêm minh, bao che, chạy tội, nể nang, mang tính nội bộ, không công khai, không minh bạch, không bình đẳng; thậm chí, còn có “vùng cấm”, “vùng an toàn” cho “quan tham”...

Trước thực trạng cấp bách đó, Đại hội X (tháng 4-2006) của Đảng chỉ rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta...

Sắp tới, phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí,... Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng...; bổ sung, sửa đổi Luật Khiếu nại và tố cáo. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”. Đại hội X khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Đảng, Nhà nước và toàn xã hội”.

Cụ thể hóa những tư tưởng quan trọng của Đại hội X về phòng, chống tham nhũng, Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) đã tập trung thảo luận và ra Nghị quyết Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hội nghị nhận định: “... cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Hội nghị chỉ rõ 4 nguyên nhân dẫn đến những yếu kém này; nêu rõ mục tiêu của phòng, chống tham nhũng là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”. Đồng thời, Hội nghị cũng nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo và 10 chủ trương, giải pháp lớn nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí bước vào giai đoạn mới quyết liệt và triệt để hơn.

Hiện thực hóa những tư tưởng cơ bản của Đại hội X và triển khai Nghị quyết Trung ương 3 về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, ngày 28-8-2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1039/2006/NQ-UBTVQHXI về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1009/2006 về nhân sự Ban Chỉ đạo. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban, Phó Thủ tướng là Phó trưởng ban và các ủy viên gồm: Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo (thường trực), Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Phó Ban Nội chính Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tiếp đó, ngày 22-9-2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 107/2006, quy định xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong đơn vị do mình quản lý, phụ trách; ngày 5-10-2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1046/2006/NQ-UBTVQH XI phê chuẩn Quyết định số 121/QĐ-VKSNDTC/V9 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về việc thành lập các đơn vị mới của Viện, trong đó có Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng; ngày 31-10-2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1424/QĐ-TTg thành lập Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ; ngày 13-11-2006, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký Quyết định số 1816 thành lập Cục Cảnh sát điều tra tội phạm tham nhũng; ngày 1-2-2007, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã công bố Quyết định số 13/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng...

Các tư tưởng chỉ đạo và sự triển khai công tác phòng, chống tham nhũng như nêu trên đã thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng tình trạng tham nhũng vẫn mang tính phổ biến trong đời sống xã hội với rất nhiều biểu hiện khác nhau. Nhiều vụ án lớn gây chấn động xã hội không được xử lý nghiêm minh, dứt điểm đã gây nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân. Những vụ khiếu kiện đông người, kéo dài chủ yếu là do người dân bức xúc bởi sự không công khai, minh bạch và có dấu hiệu tham nhũng liên quan đến đất đai của một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương mà chỉ có rất ít người bị xử lý kỷ luật; thậm chí, có người còn được thuyên chuyển công tác với chức vụ và quyền lực cao hơn. Tệ tham nhũng đã có nhiều biến thái tinh vi khác thường, nó không chỉ dừng lại ở biến tài sản công thành tài sản tư, không chỉ đơn thuần ở nhận và đưa hối lộ mà còn ở sự tham nhũng cả địa vị, chức vụ, quyền lực, vị thế, cơ hội và liên kết tạo lập, bảo vệ lợi ích nhóm. Sự biến hóa và phổ biến của tham nhũng trong xã hội ta thời gian qua đã không chỉ thực sự gây bức xúc trong xã hội mà còn tạo ra nỗi bất bình và thất vọng của không ít người.

Nhận thức đúng tình trạng tham nhũng và thẳng thắn chỉ rõ thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1-2011), Đảng ta chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”. Đại hội xác nhận tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng; đồng thời cảnh báo “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.

5. Anh chị hãy trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng chống tham nhũng số 3

Tham nhũng là hành vi phạm tội rất nguy hiểm đối với bất kỳ xã hội nào, bất kể thể chế chính trị nào. Tham nhũng làm mất động lực của sự phát triển kinh tế, nền kinh tế bị lệch lạc không thể cạnh tranh lành mạnh được, vì tham nhũng ngăn cản các luật tự nhiên của nền kinh tế thị trường, làm mục nát bộ máy chính quyền, làm suy giảm niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị của quốc gia. Tham nhũng không chỉ ảnh hướng đến sự phát triển hiện tại, mà còn sụp đổ con đường đi tới tương lai của quốc gia.

Bác Hồ ngay từ những ngày đầu sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã nhận ra hiện tượng tiêu cực: một số phần tử xấu, lợi dụng tình hình "đục nước béo cò" mưu cầu lợi ích cá nhân "vinh thân phì gia" gây oán thán trong dân, làm sứt mẻ lòng tin của nhân dân.

Vì vậy, ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ: Giám sát tất cả công việc và nhân viên của các UBND và các cơ quan của Chính phủ.

Sắc lệnh đã trao cho Ban Thanh tra đặc biệt "Thượng phương bảo kiếm" với các chức năng:

- Nhận đơn khiếu nại của nhân dân.

- Điều tra, hỏi chứng, xem xét tài liệu, giấy tờ của các UBND hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát.

- Đình chỉ bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay của Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biệt xét xử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh bổ nhiệm vào Ban Thanh tra đặc biệt này những vị vừa có tài, vừa có đức, có uy tín với nhân dân như cụ Bùi Bằng Đoàn, nhà thơ Huy Cận (SL 80 ngày 31/12/1945); cụ Tôn Đức Thắng (SL 221 năm 1947).

Theo Sắc lệnh 64 Người là Chánh án của Toà án đặc biệt được thành lập để xử các nhân viên của UBND hay các cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố cùng với hai Hội thẩm là Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Một năm sau đó, ngày 27/11/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 223 về việc: "xử phạt đối với tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ, biển thủ công quỹ hoặc của công dân".

Sắc lệnh 223 là Đạo luật chống tham nhũng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chỉ có 5 điều với 300 chữ nhưng Sắc lệnh 223 hội đủ nội dung cơ bản của một văn bản quy phạm pháp luật về việc chống tham nhũng và cũng thể hiện tính nghiêm minh và nhân đạo của một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân.

Sắc lệnh quy định hình phạt tù và hình phạt bổ sung cho các tội danh trên là: Khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật (Điều 1). Điều này còn quy định: Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Quy định này có tính răn đe nghiêm khắc vừa giúp khắc phục hậu quả kinh tế do cấu thành hành vi tội phạm và có tính nhân văn cao cả của chế độ dân chủ mới (để lại một phần tư gia sản có thể bảo đảm cuộc sống cho những người phụ thuộc).

Điều 2: Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đã đưa hối lộ là vì bị công chức cưỡng bách... Trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn lại. Những quy định trên đã khuyến khích công dân tố giác tội phạm hoặc thành khẩn khai báo nếu trót đưa hối lộ.

Điều 3: Mở rộng phạm vi đối tượng xử lý của sắc lệnh "Đối với các tội trên công chức còn gồm nhân viên trong Chính phủ, trong các ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan, do dân bầu lên, trong bộ đội và tất cả các người phụ trách một công vụ".

Điều 4: "Các luật lệ hiện hành trái với sắc lệnh này đều bãi bỏ" và điều cuối cùng: "Bộ trưởng Bộ Tư pháp chịu ủy nhiệm thi hành sắc lệnh này".

Sắc lệnh 223 thể hiện tư tưởng của một lãnh tụ vĩ đại là tài liệu học tập giá trị đối với các nhà hành pháp, các nhà tư pháp, các luật sư và nhân dân. Việc xử Trần Dụ Châu, nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu Bộ Quốc phòng là một trong những minh chứng điển hình cho hiệu lực và tính khả thi của văn bản pháp quy này.

Hơn 60 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 223 - Đạo luật chống tham nhũng đầu tiên của nhà nước dân chủ mới. Sắc lệnh 223 vẫn vẹn nguyên giá trị lịch sử trong bối cảnh toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang tiến hành cuộc chiến không khoan nhượng với giặc "nội xâm" tham nhũng đang hoành hành đe dọa ổn định chính trị - xã hội, làm chậm tốc độ phát triển kinh tế, phá hoại thành quả cách mạng của nhiều thế hệ. Nghị quyết Đại hội Đảng X coi tham nhũng là một quốc nạn và khẳng định quyết tâm chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Việc Quốc hội khoá XI thông qua Luật Chống tham nhũng (55/2005); Việc Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chống tham nhũng (120/2006 NĐ-CP); Việc các tổ chức chống tham nhũng được thành lập ở Trung ương, các Bộ, ngành, các địa phương chứng tỏ quyết tâm chống tham nhũng nhằm đem lại cho người dân những hy vọng mới về một chính quyền Công bộc của dân có tài và trong sạch, thực sự của dân, do dân và vì dân như tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày ngày soi sáng trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta

Trên đây Hoatieu.vn giới thiệu tới các bạn 4 mẫu trình bày và phân tích các giai đoạn phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay để các bạn tiện tham khảo nhằm có một bài dự thi hay và đạt kết quả cao nhất.

Mời các bạn tham khảo thêm đáp án các cuộc thi khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
108 177.508
0 Bình luận
Sắp xếp theo