Phân tích bài Bác vĩnh hằng như thế giữa nhân dân

Phân tích bài thơ Bác vĩnh hằng như thế giữa nhân dân

Viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ là một dạng bài viết quen thuộc trong chương trình Ngữ văn trung học. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ bài văn mẫu phân tích tác phẩm Bác vĩnh hằng như thế giữa nhân dân của tác giả Nguyễn Sỹ Đại sẽ giúp các bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Phân tích Bác vĩnh hằng như thế giữa nhân dân của Nguyễn Sỹ Đại

Bác Hồ - Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Người đã đi xa mãi mãi, nhưng hình ảnh về một lãnh tụ vĩ đại, đáng kính, được nhân loại biết đến và kính nể thì mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam chúng ta và bạn bè quốc tế. Ở Bác toát lên linh hồn của cả một dân tộc. Hình ảnh giản dị của Người đã được nhà thơ Nguyễn Sỹ Đại tái hiện vô cùng rõ nét trong bài thơ “ Bác vĩnh hằng như thế giữa nhận dân”.

Dòng thi hứng được khơi nguồn từ sự kiện Bác Hồ về thăm quê lần thứ nhất vào tháng 6/1957.Tư tưởng “Đất Nước Nhân dân” (Nguyễn Khoa Điềm) xuyên suốt trên nền cảm xúc “Từ Làng Sen Bác về với Núi Sông” qua sự hóa thân của vĩ nhân vào Tổ quốc, đã tạo nên cấu tứ độc đáo cho bài thơ. Tứ thơ của bài “ Bác vĩnh hằng như thế giữa nhân dân” là câu chuyện Bác về thăm quê sau 50 năm bôn ba tìm đường cứu nước đã lãnh đạo đất nước thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Bác về thăm lại làng Sen thân yêu nơi mình đã sinh ra và lớn lên với biết bao kỷ niệm, bao kí ức, bao sâu lắng bồi hồi. Bằng bút pháp tự sự xen lẫn trữ tình, nhà thơ đã tái hiện khách quan, chân thực nhiều chi tiết xúc động về cuộc đời Bác Hồ kính yêu. Đó là những tư liệu sống có sức ngân rung, lay động sâu xa trái tim người đọc.Những chi tiết được chọn lọc, qua lăng kính tâm hồn của nhà thơ đã ánh xạ, đã tỏa sáng chất nhân văn ấm áp tình người. Đó là tấm lòng chân thành, tha thiết, tôn kính vị lãnh tụ kính yêu vĩ đại, lớn lao từ những điều nhỏ nhất.

Nhan đề bài thơ như một mệnh đề khẳng định để từ đó lan tỏa những hình ảnh thuyết phục, đồng cảm: “Bác vĩnh hằng như thế giữa Nhân dân”. Đồng thời, toàn bài thơ là câu chuyện được hồi quang từ tầng sâu nội cảm (nghe) của nhân vật trữ tình (người kể ở ngôi thứ ba) về hàng loạt sự việc, hoạt động xoay quanh sự kiện trung tâm (Bác về).Qua chuỗi sự kiện lớn, nhỏ; nhân cách lớn lao, nhất là phẩm chất đạo đức cao khiết của Bác, được tỏa sáng rạng ngời. Nhân cách ấy vĩ đại nhưng chẳng làm ai kinh ngạc:

Nghe Bác về, nhà khách được xây lên

Nhưng Bác nói: Bác không phải là khách, Bác đi về nhà Bác

Nếp tranh nhỏ, đỏ một bờ râm bụt

Bác nhổ rào, đi lối những ngày xưa.

Sự vận động cảm xúc của bài thơ theo trục tuyến tính nhưng trường liên tưởng thì lại tỏa ra nhiều mạch nhánh đan xen giữa quá khứ và hiện tại để vươn tới một tầm văn hóa tương lai. Chúng ta thật xúc động khi nghe Bác nói: “Bác không phải là khách, Bác đi về nhà Bác”, đó là sự trở về trong tình cảm lớn lao, gần gũi của một vị lãnh tụ về với nhân dân, về với làng quê thân thiết, bao cảnh vật thiên nhiên quen thuộc. Và cũng chỉ một hành động nhỏ: “Bác nhổ rào, đi lối những ngày xưa” thật hồn hậu, thật tự nhiên, thật tin cậy nhường nào. Lời thơ thủ thỉ, tâm tình, như câu chuyện kể từ tâm can nhà thơ: “Những ngày xưa” ấy là thế giới tuổi thơ đong đầy kỷ niệm gợi nhớ, gợi thương; là ân tình xóm làng sâu đậm dù xa quê gần hết cuộc đời (cả “Những đêm nào tuyết lạnh trắng trời Âu”) vẫn không dễ quên:

“Nơi chân trần chạy nắng dưới đường trưa

Cánh diều nhỏ xanh suốt ngày tuổi nhỏ

Năm mươi năm xa, vẫn bồi hồi lối ngõ

Cái gáo dừa, chum nước trắng hoa cau...

Giếng Cốc trước nhà, cây mít đằng sau

Lò rèn nhỏ ông Điền, Bác thường ra thụt bễ

Đỉnh núi Chung chăn bò, cùng bạn bè một thuở

Chí anh hùng phơ phất ngọn cờ lau”

Cả một không gian văn hóa của kí ức ùa về thật cụ thể mà sinh động biết bao quấn quýt bên Người. Đó là: cánh diều nhỏ, cái gáo dừa, chum nước trắng hoa cau, cây mít; là giếng Cốc, lò rèn cố Điền… tất cả vẫn vẹn nguyên gợi nhớ những tháng năm tuổi thơ nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn và tạo ra khí phách của Người: “Đỉnh núi Chung chăn bò, cùng bạn bè một thưở - Chí anh hùng phơ phất ngọn cờ lau” mang truyền thống hùng khí anh hùng Đinh Bộ Lĩnh. Bằng bút pháp tự sự xen lẫn trữ tình nhà thơ đã tái hiện khách quan chân thực những tư liệu sống có sức ngân rung lay động sâu xa trái tim người đọc. Không gian văn hóa làng Sen ấy còn có cả đậm đà phi vật thể đó là nguồn mạch ca dao, dân ca đã ngấm vào Người như một bầu sữa ngọt ngào ân tình mà giàu sức gợi cảm mà nhân lên tình yêu quê hương đất nước:

“Làng quê nhỏ bập bùng sân ánh lửa Đêm phường vải, mắt người gieo câu ví Ánh trăng ngời vạt áo lúc chia tay...”,

Hình ảnh: “Mắt người gieo câu ví” có gì vừa nồng nàn vừa kín đáo vừa đằm thắm tươi trẻ với một giăng mắc tơ duyên, một hẹn hò lặng lẽ, một bâng khuâng xao xuyến. Chính những cung bậc rung cảm này càng làm nổi bật tình cảm của Người với quê hương xứ sở, với những điều sâu thẳm tinh tế nhất.Biết về Bác, thăm quê Bác, thăm ngôi nhà Người đã từng sinh sống khi nhỏ, theo dấu chân Bác trên suốt con đường hoạt động cách mạng qua các di tích, được nghe kể về Bác…chúng ta càng thấy kính nể Người hơn, và mới phần nào thấu hiểu tại sao cả dân tộc Việt Nam chúng ta coi “Người là Cha, là Bác, là Anh” và gọi Người bằng cái tên gần gũi nhất – Bác Hồ bởi Người là từ chân lý sinh ra.

Bác Hồ đã sống một cuộc đời thanh cao và giản dị vô cùng với ước muốn của Người.Vì vậy, chúng ta không tránh khỏi cảm giác bừng tỉnh trước lời khuyên thấm thía, hàm súc.

“Nhà Bác nghèo, vườn chỉ bấy nhiêu thôi

Đừng khoanh rộng những điều không phải lẽ!

Đừng huyền thoại thay cho điều giản dị

Khiến Bác thành xa lạ giữa quê hương!”.

Ở đây ta có cảm giác không phải là thơ nữa mà là những tâm tình được đúc kết những chiêm nghiệm rất đỗi chân thành mà có sức thuyết phục.Từ những tư liệu thực tế, tác giả đã làm sống dậy một không gian văn hoá đặc sắc của Làng Sen, Xứ Nghệ với những hình ảnh bình dị, mến thương (cánh diều, lối ngõ, gáo dừa, chum nước, hoa cau, góc sân nhà, đêm trăng hát ví...); với con người thấm đẫm nghĩa xóm tình làng. Miền quê Đất Việt nghèo khó nhưng chan chứa ân tình ấy đã sinh ra và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh. Sự trường tồn của Người đã thấm tạc vào mỗi dáng sông, hình núi:

“Từ Làng Sen Bác về với Núi Sông

Ngàn cánh hạc vỗ bay trời xứ sở”

Bằng cách nói giảm (về với Núi Sông), nhà thơ không chỉ làm dịu nhẹ nỗi đau mà còn tạo được cảm giác ấm áp trước sự ra đi của Bác khi Người đã thực sự hóa thân vào núi sông, quê hương xứ sở. Đặc biệt, sự hóa thân ấy là biểu hiện cao nhất của đức hy sinh nên đã trở thành điều huyền diệu khi “Ai cũng thấy đời riêng trong cuộc đời lãnh tụ”. Bởi lẽ, Bác đâu chỉ sống cho riêng mình “Cả đời Người là của nước non” (Nguyễn Đình Thi). Người trọn đời: “Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa/ Chỉ biết quên mình cho hết thảy/ Như dòng sông chảy nặng phù sa” (Tố Hữu).Cấu tứ bài thơ được phát triển nhất quán, logic trong mạch cảm xúc thành kính, ngưỡng vọng thiêng liêng: “Từ Làng Sen Bác về với Núi Sông”, giữa cõi trường sinh của “Ngàn cánh hạc vỗ bay trời xứ sở”, với Đất Nước lời ru (Văn Thành Nho) cùng tiên tổ nên “Bác vĩnh hằng như thế giữa nhân dân”.

Biết là “sống gửi thác về” theo quan niệm phật giáo, Bác đi “Vào cõi trường sinh nhẹ cánh bay” (Tố Hữu) nhưng sao vẫn thấy “ nghe nhói ở trong tim” (Viễn Phương) trước anh linh Người. Bác vĩ đại và gần gũi nhưng dường như chúng ta vẫn chưa hiểu hết về Người vì “Ta như thế cây đời quen uống nắng/ Suốt ngàn năm chưa hiểu hết trởi cao” (Đào Cảng). Bằng chính “Cuộc đời thanh bạch chẳng vàng son/Mong manh áo vải hồn muôn trượng/Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” (Tố Hữu), Bác đã để lại cho muôn đời sau một bài học lớn và tấm gương ngời sáng về sự chí công vô tư, về đức tính vô cùng khiêm tốn, giản dị. Bài thơ khép lại nhưng ý tưởng và hình ảnh đạo đức phong cách sống của Người vẫn sống mãi trong lòng Nhân dân cả nước, trong lòng nhân loại bằng sự hóa thân của vĩ nhân vào quê hương, vào Tổ quốc như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Trong trang sách mỗi em thơ đều có Bác

Tổ quốc ấy hình hài là di chúc

Ta nghe tiếng Người trong mỗi điệu dân ca”.

Nguyễn Sĩ Đại từng viết gần 20 bài thơ về Bác.Và ở bài thơ này, nhà thơ khiêm nhường tự nhận: “Đã nói được một vài ý”. Bài thơ gây ấn tượng sâu đậm bởi một tâm hồn lắng cảm, đầy chất nhân văn; hệ thống chi tiết, hình ảnh khai triển cấu tứ giàu phong vị dân gian; gói đọng nhiều ý tưởng hàm súc. Dẫu vậy, những giá trị nghệ thuật giàu sáng tạo của nó đã có thể khẳng định đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài Bác Hồ trong dòng thi ca Việt Nam đương đại.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 7
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm