(Cực hay) Phân tích bài thơ Tùng

Nằm trong tập Quốc âm thi tập, bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi là một bài thơ tâm sự về cuộc đời, về sự nghiệp, về niềm tin được cống hiến trọn đời cho con người và đất nước. Ẩn dưới những vần thơ tưởng chừng như khô khan, tác giả đã mượn cây tùng để thể hiện “những phẩm chất lý tưởng mà Nguyễn Trãi theo đuổi. Sau đây là bài văn mẫu phân tích bài thơ Tùng cùng với đoạn văn phân tích bài thơ Tùng sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về tác phẩm.

Phân tích bài Tùng của Nguyễn Trãi

1. Đoạn văn phân tích bài thơ Tùng

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, tác gia lớn của văn học Việt Nam. Ông có nhiều bài thơ ông đã thể hiện rõ lí tưởng cao đẹp, trong đó có bài thơ “Tùng”. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thuộc tập “Quốc âm thi tập”, được viết bằng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Qua bài “Tùng”, tác giả đã ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, đồng thời kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình. Trước hết, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật đặc điểm và công dụng của cây tùng. Mùa thu đến, “cây nào” cũng “lạ lùng”, chỉ “một mình” cây tùng vẫn ung dung, vững chãi, chẳng hề đổi thay. Điều ấy gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có bản lĩnh kiên cường, vượt lên khó khăn thử thách, quyết không a dua theo thói đời. Hơn nữa, cây tùng còn có “hổ phách, phục linh” quý báu được tích tụ qua hàng trăm năm. Đáng quý thay, cây tùng không chỉ có thân gỗ vững chắc làm rường cột mà còn có“hổ phách, phục linh” ấy dùng để “trợ dân cày”. Cây tùng không chỉ là ẩn dụ cho người quân tử mà còn là hình bóng của chính Nguyễn Trãi – một con người vượt qua biết bao thăng trầm, nghiệt ngã của cuộc đời, vẫn luôn mang tài đức phục vụ cho sự yên ổn, hạnh phúc của nhân dân.. Qua hình tượng cây tùng, tác giả không chỉ khẳng định bản lĩnh và vai trò to lớn của kẻ sĩ quân tử đối với đất nước và nhân dân mà còn kín đáo bày tỏ tâm tư của chính mình. Với nghệ thuật ẩn dụ và hình tượng thơ giàu sức gợi, bài thơ “Tùng” cũng như tên tuổi Nguyễn Trãi sẽ mãi còn tỏa bóng mát trong tâm tưởng biết bao người.

2. Dàn ý phân tích bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi

I. Mở bài

- Nguyễn Trãi là một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng và nổi bật lên những tác phẩm đó là bài thơ Tùng.

- Mượn cây tùng làm biểu tượng, bằng lối thơ tả cảnh, ngụ tình, tác giả muốn tâm sự về mình, chủ yếu là nói lên lí tưởng sống và tấm lòng thiết tha với dân, với nước.

II. Thân bài

*Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Tùng” có thể được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn.

*Phân tích nội dung cơ bản của bài thơ:

- Hai câu đầu: Thu đến cây nào chẳng lạ lùng

Một mình lạt thuở ba đông.

+ Quy luật của thiên nhiên là vào thu, cây cỏ đều biến dạng, trơ cành trụi lá, trở nên lạ lùng. Chỉ có một loại – đúng ra là một số loại – là ngược lại quy luật ấy, cứ tiếp tục xanh tươi, bất chấp giá rét của cả ba tháng mùa đông – đó là cây tùng.

+ Hai câu thơ này bày ra cái thế so sánh, cái bình thường đối lập với cái khác thường đến và tất nhiên cái phi thường càng thêm nổi bật: Cây nào chẳng lạ lùng, là thế bị động, nhất nhất tuân theo, trước hơi thu mới chớm đã rùng mình rởn óc, thắm nhạt vàng phai úa tàn rơi rụng, mất cả bản sắc, hóa ra lạ lùng. Còn riêng cây tùng vẫn một mình thản nhiên xanh tươi suốt ba đông, đó là thế chủ động, tự khẳng định mình trước dâu bể của đất trời, không những không bị thay đổi của ngoại cảnh tác động đến mình mà còn tác động trở lại ngoại cảnh, làm cho ngoại cảnh phải chịu khuất, chịu khinh, chịu lạt.

+ Cây tùng sống vững trãi thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần vượt khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hoàn cảnh ác liệt, quyết không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường..

+ Câu thứ hai là câu lục ngôn với cách ngắt nhịp 2/1/3 nhấn mạnh thêm tư thế hiên ngang, dũng mãnh: lạt nổi lên một mình giữa câu như một cái gì gan góc, bướng bỉnh. Cốt cách của tùng là như vậy.

- Hai câu sau: Lâm tuyền ai rặng già làm khách?

Tài đống lương cao ắt cả dùng.

+ Cây tùng sinh ra ở chỗ rừng suối (lâm tuyền), cốt cách khinh rẻ tuyết sương, nhưng đâu phải để vĩnh viễn làm khách nơi rừng quạnh khe sâu. Không, cây tùng có thể làm rường cột (đống lương) được, mà là rường cột lớn lao nữa kia, phải được dùng vào việc trọng đại (cả dùng).

+ Hai câu thơ xem như được cấu tạo thành một câu hỏi và một câu đáp:

Ai bảo (cây tùng) làm khách lâm tuyền đến già?

Không đâu, nó có “tài đống lương”, nó sẽ được dùng về việc lớn.

Lời thơ cũng là lời tự tình nội tâm của tác giả, nói về cây tùng hay cũng chính là nói về mình, về con người mình, cuộc đời mình. Đó là niềm tin bền vững, tin ở tài sức, ở chí hướng; là lời tự động viên mình không được phép nhụt chí trước những biến cố, thăng trầm. Câu tự tình mà như một thứ tuyên ngôn, thấm lặng thật thâm trầm.

* Phân tích một số đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ:

- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

- Xây dựng hình tượng thơ nhiều tầng ý nghĩa

- Ngôn ngữ bình dị, hàm súc.

III. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, giá trị của bài thơ.

3. Phân tích bài thơ Tùng ngắn gọn

“Tùng” là một đề tài, một hình tượng mang tính truyền thống trong nghệ thuật phương Đông. Các họa gia, các thi gia trung đại đã dành cho “Tùng” một vị trí trang trọng nhất trong “Tuế hàn tam hữu”. Ở Việt Nam nhiều thi sĩ đã nói lên những lời đẹp nhất để vịnh Tùng. Nhưng tiêu biểu nhất là bài “Tùng” của Nguyễn Trãi và bài “Tùng” của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao,

Ngoại với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi.

Dùng thì ra giúp đời, không dùng thì ẩn núa

Ai bảo rằng: gỗ lớn dùng”

(“Tùng” - Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tùng của Nguyễn Trãi là chùm thơ ba bài, đều viết theo tứ tuyệt, thất ngôn xen lục ngôn. Cấu trúc liên hoàn - thước kiều, tạo nên một chính thể nghệ thuật toàn bích, trong đó, ngôn ngữ
liên kết, liền mạch, hình tượng cây tùng mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc nhiều vẻ. Vịnh cây
tùng, Nguyễn Trãi khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, đồng thời kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình. Bài thơ “Tùng” này có thể được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn. Nó là bài thơ mang hàm nghĩa độc đáo. Nguyễn Trãi đã làm nổi bật đặc điểm và công dụng của cây tùng, từ đó khẳng định bản lĩnh và vai trò to lớn của kẻ sĩ quân tử đối với đất nước và nhân dân. Bao trùm cả chùm thơ là “tấc lòng ưu ái” của Ức Trai dào dạt “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

Mở đầu khổ thơ thứ nhất, Nguyễn Trãi tả cây tùng qua một tương phản thú vị:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đồng

Mùa thu mới đến thế mà “cây nào” cũng như cây nào đều “lạ lùng” khác lạ, chỉ “một mình” cây tùng là lạt lẽo, thản nhiên với cả ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Câu 1 là câu thất ngôn, câu thứ 2 rút ngắn lại thành lục ngôn, giọng thơ đĩnh đạc, chắc nịch như một thách thức: “Một mình lạt thuở ba đông”. Chỉ một mình cây tùng trước ba tháng mùa đông lạnh lẽo, nó vẫn “lạt”, vẫn coi thường, lá nó vẫn xanh tươi. Đặc điểm ấy của cây tùng cũng chính là phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần vượt khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hoàn cảnh ác liệt, quyết không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường.

Đặc điểm thứ hai của cây tùng được nói rõ ở khổ thơ tiếp theo:

“Cội rễ bền, đời chẳng động,

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”.

Trong tuyết sương lạnh lẽo, ác liệt, cây tùng không chỉ “lạt thuở ba đông” 90 ngày mà dáng tùng, sắc tùng vẫn xanh tươi “thấy đã đặng nhiều ngày”, nghĩa là nhiều năm tháng, đứng vững trước những thử thách trong mọi thời gian. Sức sống mãnh liệt, kiên cường của tùng là do “sâu rễ, bền gốc”, là bởi “Cội rễ bền, dời chẳng động”. Tùng không chỉ coi thường sương tuyết mùa đông mà nó còn đứng vững, chẳng lung lay trước gió bão. Một làn nữa, câu lục ngôn xuất hiện với hai vế tiểu đối cất lên như một thách thức bất chấp mọi bão tố: “Cội rễ bền dời chẳng động”. Và đó chính là phẩm chất của người quân tử, của đấng trượng phu giữ vững khí tiết, bất chấp mọi gian khổ, mọi thử thách ác liệt trước những biến cố dữ dội trong cuộc đời, trong mình, của gia tộc mình, từng “nếm mật nằm gai” trong suốt hai mươi năm trời khi quân “cuồng Minh” giày chèn ép, Ức Trai vẫn “Chẳng động”, tấm lòng ưu ái, trung hiếu của ông vẫn trong trắng, sắt son “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”. “Cội rễ bền” bởi lẽ tâm hồn ông lúc nào cũng gắn bó với đất nước và nhân dân bằng “một tấm lòng son ngời lửa luyện - Mười năm thanh chức ngọc hồ băng”.

Giữa thiên nhiên, cây cỏ hoa lá nào mà chẳng đang quý? Nhưng chỉ riêng rừng tùng, cây tùng
mới có “hổ phách” và “phục linh”. Trong suốt, đỏ rực, đẹp và quý như ngọc, ấy là hổ phách, phải một nghìn năm tùng cất giữ trong lòng đất mới có. Hương thơm ngào ngạt để làm thuốc trường sinh, ấy là phục linh, phải một trăm năm, tùng mới “tiết chế” ra cho con người “dùng khoẻ thay”.

Phải trải qua một thời gian dài, tùng mới có hổ phách và phục linh, đâu chỉ là ngày một ngày hai? “Thiên niên sinh hổ phách, bách niên sinh phục linh”, vì thế hổ phách và phục linh rất hiếm, rất quý.

“Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay

Hổ phách phục linh nhìn mới biết”.

Hổ phách nằm sâu trong lòng đất, phục linh ẩn tàng trong rừng tùng bao la,cho nên phải có con mắt xanh “nhìn mới biết”. Cũng như người quân tử đức trọng, tài cao, đấng trượng phu có
phẩm chất vẹn toàn: nhân, trí, dũng, nhưng rất kín đáo, cung kính, khiêm nhường. Các bậc minh vương, thánh đế có biết trọng dụng hiền tài, có biệt đã kẻ sĩ thì mới có thể nhìn mới biết”.

Những đặc điểm như: “Một mình lạt thuở ba đông… Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày…, Cội rễ bền dời chẳng động…, Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay…” cũng là bản chất của tùng. Cây tùng, rừng tùng thật đáng quý. Cây tùng, rừng tùng còn đáng quý hơn ở mặt công
dụng rất to lớn của nó. Thân tùng dẻo dai, gỗ tùng bền chắc dùng để làm rường cột cho ngôi nhà: “Tài đống lương cao ắt cả dùng - Đống lương tài có mấy bằng mày”. Đống lương là đòn nóc nhà, rường nhà, xà nhà. Tài đống lương, nghĩa bóng là tài năng gánh vác việc lớn của triều đình, đất nước. Phải là kẻ sĩ quân tử chân chính mới có tài đống lương ấy. Ba tiếng “ắt cả dùng” là sự khẳng định: gỗ tùng dùng được nhiều việc lớn, cũng như tài năng kẻ sĩ quân tử nhất định sẽ giúp vua trị quốc an dân, xây đời thịnh trị. Câu 4 đã viết: “Tài đống lương cao…”, tiếp theo câu 5 lại nói: “Đống lương tài…” biện pháp liên hoàn ấy làm cho giọng điệu thơ, âm điệu thơ liền mạch, ngân vang, ý tưởng thơ được nhấn mạnh đầy ấn tượng. Tùng còn được làm cột chống đỡ cho ngôi nhà lớn, “chống khoẻ thay” lúc bão táp phong ba: “Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay”. Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh”, những “phục linh” và “hổ phách” tích tụ qua hàng trăm năm, qua hàng ngàn năm để chữa bệnh, làm tăng sức khoẻ cho dân: “Dành, còn để trợ dân này”. Lần thứ ba câu lục ngôn lại xuất hiện, khép lại bài thơ.

Như một lời tâm niệm tự nhắc nhở mình vừa tự hào, vừa thấm thía. Ức Trai chỉ rõ tác dụng to lớn của cây tùng trong cuộc sống, không chỉ hoàn chỉnh hình tượng cây tùng mà còn hướng tói một ý nghĩa thẩm mĩ rộng lớn hơn nhằm khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của kẻ sĩ quân tử đối với quốc gia và dân tộc. Tài đống lương - cái nhân, cái trí, cái dũng - của họ là nguồn sức mạnh to lớn để dẹp loạn yên dân, đem lại thái bình cho trăm họ, xây dựng đất nước cường thịnh muôn đời. Cây tùng được nhân hoá: “Đống lương tài có mấy bằng - Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay… Có thuốc trường sinh… hổ phách phục linh… Dành, còn để trợ dân này” – đó cũng là hình ảnh kẻ sĩ quân tử đức trọng, tài cao:

“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,

Có nhân, có trí, có anh hùng”.

Cây tùng là hình bóng kẻ sĩ quân tử. Cây tùng là hình bóng, là sự hóa thân của Ức Trai. Nguyễn Trãi tự hào về những kẻ sĩ chân chính trong cuộc đời. Qua hình tượng cây tùng, ông ca ngợi vai trò to lớn và tài đức của họ. Cuộc đời của Nguyễn Trãi đã trải qua bao thăng trầm, bao biến cố dữ dội giữa dòng thác lịch sử, lúc tiễn cha lên ải Bắc, lúc bị Trương Phụ giam lỏng ở thành Đông Quan, lúc dâng “Bình Ngô sách” lên Lê Lợi, lúc viết thư tháo hịch, lúc về Côn Sơn ở ẩn… ông đã gắn bó với đất nước và nhân dân, đã nếm bao cay đắng ngọt bùi, “Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”. Nguyễn Trãi gọi cây tùng bằng “mày”, đối thoại với cây tùng cũng chính là ông đã tâm sự với mình. Vịnh cây tùng cũng là để tỏ lòng mình, hiểu tâm hồn mình. Đọc bài Tùng, ta cảm thấy, nghe thấy tiếng nói của Ức Trai “vọng về”. Nguyễn Trãi đã tự nhắc nhở mình: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Nguyễn Trãi đã tự răn mình:

“Nợ cũ chước nào báo bổ?

Ơn thầy, ơn chúa liễn ơn cha

(“Tự thán” – 24)

Lòng trung hiếu, niềm ưu ái của Nguyễn Trãi là chất ngọc Ức Trai, là hổ phách, phục linh của cây Tùng - Nguyễn Trãi để lại cho đất nước và nhân dân ta. Suốt đời, Nguyễn Trãi đã đem tài
đức làm đẹp cho đất nước, phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân. Bài thơ “Tùng” tiêu biểu cho một nét đẹp trong thơ Nguyễn Trãi: bình dị, thâm trầm, hàm súc. Hình tượng cây tùng được thể hiện rất đẹp. Tùng vẫn tươi xanh trong sương tuyết mùa đông, tài đống lương, thuốc trường sinh của tùng… đã “có mấy bằng mày”? Biện pháp nghệ thuật liên hoàn và ẩn dụ đã làm cho sắc điệu trữ tình và cảm xúc thẩm mĩ tỏa rộng trong tâm hồn ta. Hình tượng cây tùng, những liên tưởng thấm thía về vai trò, tài đức của kẻ sĩ quân tử trong cuộc đời để lại những ấn tượng sâu sắc trong trái tim ta.

Cây tùng Nguyễn Trãi xanh biếc và tỏa bóng mát đến muôn đời, bởi lẽ ông là “một bậc đại nho,
một đấng công thần, sự nghiệp dày khắp thiên hạ. Văn chương vang đến muôn đời” như vị danh nho Dương Bá Cung đã ca ngợi.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
12 2.506
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm