SKKN: Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm 2024

Tải về

Sĩ số học sinh ổn định là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng của một lớp học. Không chỉ hiện tượng nghỉ học, bỏ học ở học sinh diễn ra khá phổ biến và việc học sinh xin chuyển lớp khác, trường khác cũng không phải không có. Mẫu sáng kiến kinh nghiệm dưới đây: Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm sẽ giúp quý thầy cô có thêm nhiều kinh nghiệm trong duy trì sĩ số lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

1. Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

  • Trong những năm gần đây, hiện tượng nghỉ học, bỏ học ở học sinh diễn ra khá phổ biến, là mối quan tâm trăn trở của những người làm nghề (trồng người) và cũng là mối quan tâm của các bậc phụ huynh.
  • Câu hỏi: “Làm thế nào để ngăn ngừa, khắc phục tình trạng học sinh nghỉ học, bỏ học?” là vấn đề muôn thuở của nhà trường, đồng thời không ít cán bộ quản lý trường học, giáo viên đã dành một thời gian khá lớn cho công việc này.
  • Nguyên nhân tạo ra thực trạng trên từ nhiều phía vì tất cả đều có nguồn gốc phức hợp. Đó có thể từ gia đình, nhà trường, xã hội, bạn bè. Tuy nhiên, với chức năng là một cơ quan giáo dục chuyên biệt, nhà trường vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp các em yên tâm học tập mà không nghỉ học, bỏ học cũng như vận động thuyết phục học sinh bỏ học trở lại trường và xem việc đến trường để học các môn học là (mục tiêu) của chính các em.
  • Để học sinh thực hiện tốt mục tiêu đến trường, trong những năm học qua, bản thân tôi đã chủ động tìm hiểu, áp dụng nhiều biện pháp, cách thức và bước đầu đã đạt được hiệu quả.
  • Chính vì vậy, tôi xin ghi lại nơi đây một vài đóng góp nhỏ gọi là “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh”để các bạn đồng nghiệp tham khảo thêm trong quá trình thực hiện cộng tác chủ nhiệm lớp của mình.

II. CƠ SỞ THỰC TẾ:

  • Là một giáo viên THPT, phải đứng trước một thực trạng đau lòng là các em học sinh hiện nay mới bước vào cấp 3 mà đã có tâm trạng muốn bỏ học, không thích đến lớp. Tôi cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm và bổn phận.
  • Làm thế nào để các em ham muốn đến lớp, và cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Từ sự suy nghĩ đó. Tôi quyết định đem hết khả năng, nhiệt tình sự nỗ lực phấn đấu của bản than tìm ra nguyên nhân để giúp đỡ các em trở lại trường.
  • Dưới sự nỗ lực của người thầy đồng thời cùng sự phấn đấu quyết tâm hết mình của trò nên đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Điều đó mang lại cho tôi niềm hạnh phúc sung sướng. Tôi đã quyết định chọn chuyên đề này và xin ghi lại đây những kinh nghiệm nhỏ bé mà tôi đã thực hiện trong năm học này và đạt kết quả tương đối khả quan. Mong rằng những kinh nghiệm này phần nào giúp ích cho các đồng nghiệp nhất là các em học sinh.

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:

a. Thuận lợi:

  • Được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường, ngay từ đầu năm học tôi đã được phân công chủ nhiệm lớp 12/9 với sĩ số là 39 học sinh trong đó các em đều ở xa đến từ các xã như ...............
  • Được sự chỉ đạo quan tâm thường xuyên của các ban ngành, đặc biệt của Ban giám hiệu nhà trường kết hợp với sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp.

b. Khó khăn:

  • Còn một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình, vì vậy nên họ chưa kiểm tra nhắc nhở con em họ học tập.
  • Ý thức tự học của các em chưa cao.
  • Phần lớn học sinh trong lớp là con em nông dân nên ngoài việc học các em còn phải phụ giúp gia đình làm nương, thu hoạch mùa.
  • Do quan niệm của một số phụ huynh, học sinh học xong ra trường khó xin việc.
  • Học sinh bị thành phần xấu lôi kéo và các em đang độ tuổi dậy thì biết yêu đương trai gái.

2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HỌC SINH NGHỈ, BỎ HỌC:

a. Do khó khăn trong quá trình học tập:

  • Đối với học sinh THPT, mục đích dạy học là giúp các em nắm được kỹ năng cơ bản như: hiểu, biết và vận dung. Thế nhưng nhiều học sinh không thực hiện được và gặp trở ngại trong học tập. Từ đó, mang lại sự chán nản, mất tự tin và cuối cùng là nghỉ, bỏ học.

Điều này được biểu hiện như:

  • Một số học sinh gặp khó khăn trong việc tiếp thu bài như giáo viên giảng bài em không hiểu vấn đề phần đông là học sinh đồng bào dân tộc thiểu số hay học sinh khuyết tật nên làm cho các em tự ti, mặc cảm khi phải đứng trả bài trước bạn bè và đã tỏ ra sợ sệt, e dè.
  • Một số học sinh gặp trở ngại trong việc làm bài tập ,học bài ở nhà, những trục trặc trong việc lưu giữ kiến thức trong trí nhớ. Từ đó, những bà tập, những bài học trở thành sự khó khăn, vất vả trong môn học và những bài kiểm tra đã trở thành bức rào ngăn cách đối với các em.
  • Một số học sinh tỏ ra tự ti khi bạn bè trêu ghẹo vì thường xuyên bị điểm thấp và dẫn đến cảm thấy mình thua kém bạn bè, sự mặc cảm ngày càng gia tăng.

b. Do sự tự ti, mặc cảm vì bệnh hay một khuyết tật:

Trong thực tế, một số học sinh có sự trục trặc trong phát triển của cơ thể hay là học sinh dân tộc thiểu số. Em cảm thấy mình không được diễm phúc như các bạn, sự mặc cảm đó ngày càng tăng cao khiến em tách rời mình với các bạn. Sự tách rời mình ra tập thể dẫn đến em cảm thấy lẻ loi, đơn độc và cũng từ đó em cảm thấy mình không thích nghi với môi trường hiện tại là lớp học, nhà trường dẫn đến việc nghỉ, bỏ học sẽ diễn ra.

c. Do hoàn cảnh gia đình: Gia đình là yếu tố rất cần thiết cho sự phát triển của các em. Kinh nghiệm cho thấy các em sống trong một gia đình mà các thành viên gắn bó chặt chẽ với nhau, đặc biệt là mối quan hệ ổn định giữa cha và mẹ dễ tạo cho học sinh thuận lợi trong học tập. Nhưng cũng có những vấn đề ngược lại với những học sinh sống trong một gia đình có sự bất hòa giữa cha và mẹ (cha mẹ li than, li hôn). Điều đáng buồn là ngày nay theo nhịp sống của nền kinh tế thị trường, do bận rộn nhiều công việc. Các bậc cha mẹ ít có thời gian gắn bó, chăm sóc con mình trong học tập. Hoặc có trường hợp học sinh sống trong một gia cảnh khó khăn, cha mẹ thường xuyên đau yếu.

  • Từ những thực tế trên dẫn đến cho trẻ bị tê liệt về mặt cảm xúc tinh thần, có hành vi nông nổi, thái hóa, nói dối,rộm cắp… những hành vi đó không phù hợp với môi trường giáo dục của nhà trường và tất nhiên các em cảm thấy mình bị cô lập, mất lòng tin và chuyện nghỉ, bỏ học là tất yếu.

d. Tác động của môi trường, xã hội:

Hình ảnh một học sinh khi lớn lên, thành công trong học tập là niềm vui chung của các bậc cha mẹ, cho xã hội. Thế nhưng, theo sự phát triển của nền kinh tế thời mở cửa và sự phát triển của giới truyền thông (sách, báo, phim ảnh), một số học sinh theo sự hiếu kỳ đã học theo cách nói, cách làm mà những gì mình đã biết …Các em muốn thể hiện cái “tôi” của mình theo model thời đại, phát sinh tính ương ngạnh, thiếu lễ phép, bất cần nhằm đáp ứng nhu cầu nhất thời. Sự tác động của môi trường xã hội làm cho các em cảm thấy vui hơn, thích hơn. Từ đó việc nghỉ, bỏ học là không tránh khỏi.

*Ngoài các nguyên nhân trên còn có nguyên nhân là hiện nay các em trong độ tuổi dậy thì biết để ý bạn khác giới, thích yêu đương làm người lớn, cập kè trai gái, lơ đãng việc học không tiếp thu được bài thua kém bạn bè, chán học dẫn đến bỏ học là tấc yếu.

Từ những nguyên nhân trên, bản thân tôi đã mạnh dạn đề ra và áp dụng các biện pháp đó là:

IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

1. Giúp học sinh khắc phục khó khăn trong học tập:

-Thường xuyên đi 15 phút đầu giờ kiểm tra những em học sinh nào chưa làm được bài tập ở nhà yêu cầu cán sự bộ môn lên bảng giải hướng dẫn lại bài tập đó.

  • Bản than là giáo viên giảng dạy môn vật lý trong giờ sinh hoạt lớp tranh thủ thời gian hướng dẫn học sinh làm thêm bài tập và phân công học sinh khá hỗ trợ những em yếu, kém.
  • Giáo viên hướng dẫn học sinh về cách học bài ,cách nhận dạng kiến thức, củng cố kiến thức bằng cách ôn luyện theo mỗi ngày. Quan tâm đặc biệt đến các em, hướng dẫn những học sinh khá, giỏi cùng học với các em. Hoặc trực tiếp cùng gia đình phối hợp hướng dẫn các em học ở nhà, ở trường. Đồng thời động viên, tuyên dương kịp thời những em có tiến bộ rõ nét, khuyến khích cho điểm 10 các em có sự phấn đấu cao.

2. Thoát khỏi sự tự ti, mặc cảm:

  • Lúc này vai trò của giáo viên hết sức quan trọng đối với học sinh. Người thầy có thể là cha mẹ hoặc là người bạn và sự “Đóng góp”này giúp cho các em vượt qua khó khăn. Chính vì vậy, mỗi người thầy là người tương tác với các em trong việc học tập, sinh hoạt và cốt yếu là luôn cân bằng giữa tư cách là người giữ kỷ cương, là người bạn tâm tình mỗi khi các em cần sự giúp đỡ. Do vậy, mỗi lời hỏi thăm, mỗi cử chỉ chăm sóc của thầy (cô) sẽ giúp các em thoát khỏi mọi tự ti, mặc cảm.

3. Quan tâm đến học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn:

  • Trong gia đình, bên cạnh việc người mẹ chăm sóc con chu đáo, tươm tất để học sinh có điều kiện đến trường thì vai trò người cha cũng không kém phần quan trọng trong việc dạy dỗ và phát triển cùa học sinh. Do vậy, các bậc cha mẹ phải có hình thức nuôi dạy phù hợp, dành nhiều thời gian hơn và hãy sẵn lòng quan tâm, thương yêu, dưỡng dục cho tất cả con cái của mình và nhất là những đứa con cá biệt, thiểu năng.
  • Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, người giáo viên cần phát huy sự trợ giúp của tập thể lớp, cùng động viên cả lớp quan tâm đóng góp một phần công sức của mình giúp bạn vượt qua hoàn cảnh khó khăn, thông qua việc giáo viên đề ra thực hiện tinh thần “Lá lành đùm lá rách” hay“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Đồng thời giáo viên cần tham mưu với Ban giám hiệu,công đoàn, phối hợp với đoàn thanh niêni xét, tặng học bổng cho các em. Lúc đó sự tương tác giữa gia đình, nhà trường là nguồn động viên giúp các em hòa nhập mình vào việc học tập và ngày một tốt hơn.

4. Tác động của môi trường, xã hội:

  • Có nhiều học sinh bộc phát nhân cách của mình một cách nhanh chóng mà bề ngoài khó nhận biết.
  • Ở trường, việc học tập của các em có đấu hiệu của một sự khủng hoảng như: học không vào, cúp cua (trốn học) và dị ứng với thầy cô giáo, nhất là sự nổi lên rầm rộ của phong trào chơi Game đang diễn ra phổ biến.
  • Ở nhà các em làm cho cha mẹ phải trăn trở, lo lắng, quậy phá quá mức hay lơ đễnh không thèm để ý bất cứ chuyện gì cả.
  • Đối với những trường hợp trên, giáo viên cần linh động các biện pháp giải quyết, bảo đảm mối quan hệ gắn bó giữa gia đình, nhà trường, tăng cường biện pháp thuyết phục mà không chê trách, răn đe, quở phạt. Để hướng các em hòa nhập cùng tập thể lớp, có thể phân công các em đảm trách một nhiệm vụ nào đó trong lớp hay ghi tên, động viên các em tham gia vào đội tuyển của các môn thể thao hay các phong trào khác trong hoạt động nhà trường. Từ đó, sự say mê trong nhiệm vụ mới, được sự tin yêu của bạn bè, được sự thương mến của thầy, cô sẽ giúp em vượt qua mọi thị hiếu do môi trường tác động.
  • Mặt khác, đối với những em có mặc cảm do có sự khác biệt về thành phần dân tộc (Kinh, codong, xedang …) hoặc do chưa thích nghi với môi trường như: chuyển trường, lưu ban thì lúc này vai trò của giáo viên rất quan trọng, những cử chỉ, giọng nói của giáo viên tạo nên sự gần gũi giữa hai mối quan hệ là rất cần thiết. Một lời hỏi thăm là bản thân giáo viên đã tạo cho học sinh một sự tin tưởng, dễ gần, lòng cảm mến của học sinh đối với giáo viên, giúp các em xóa đi những mặc cảm, tự ti để hòa nhập với tập thể tốt hơn và ý định chán nản, bỏ học, nghỉ học sẽ dễ dàng xóa đi trong đầu các em.
  • Đối với học sinh khi học tập sa sút liên quang đến chuyện tình cảm trai gái,lúc này giáo viên là người rất quang trọng tạo cho các em một niềm tin nên gặp riêng tâm sự tìm ra nguyên nhân và giải thích cho các em hiểu được vấn đề học tập bây giờ là quang trọng nhất.
  • Ngoài ra: để ngăn ngừa, khắc phục và phát huy sự thành công của nghệ thuật thuyết phục học sinh trở lại trường, lớp sau khi nghỉ, bỏ học thì bản thân giáo viên cần kết hợp chặt chẽ nhiều mặt khác như:

Bố trí chỗ ngồi thuận lợi, quan tâm và dành nhiều thời gian trò chuyện tiếp xúc với các em. Đồng thời, luôn tạo ra các tình huống mà từng học sinh đều có thể thể hiện mình trong đó, còn giáo viên thì cổ vũ, khuyến khích mọi thành công của các em dù là những thành công rất khiêm tốn.

Phối hợp với Đoàn Thanh niên, Công đoàn trong nhà trường để có sự hỗ trợ và thường xuyên trao đổi với phụ huynh về kế hoạch giáo dục, thuyết phục các em (điện thoại trực tiếp hoặc gửi tin nhắn).

Hướng những em định nghỉ, bỏ học cùng tham gia các phong trào nhà trường nhằm mục đích động viên.

Hợp tác với những cán bộ lớp gương mẫu lập ra “Đôi bạn cùng tiến”và đề ra những hình thức thi đua khen thưởng để khích lệ tinh thần học tập của các em.

V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Từ những việc làm trong năm học này, với kết quả đạt được trong quá trình thực hiện, tôi cảm thấy bản thân mình cần phải cố gắng hơn nữa để giúp học sinh bớt nghỉ học, có hứng thú đến trường, đến lớp nhiều hơn. Bản thân phải không ngừng học tập ở bạn bè đồng nghiệp để công tác chủ nhiệm của mình đạt chất lượng cao hơn. Đồng thời với những gì đạt được tôi rút ra một số biện pháp sau:

  • Bản thân giáo viên luôn đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và tạo cơ hội cho học sinh được tham gia tiếp xúc với mọi người, tham gia hoạt động và học tập với các bạn để được lĩnh hội những kiến thức văn hóa, hình thành những kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi.
  • Giáo viên và các bạn học sinh trong lớp hợp tác với học sinh gặp những khó khăn thì quá trình hòa nhập của các em sẽ thuận lợi hơn và kết quả học tập, các hoạt động khác của các em sẽ được nâng cao hơn.
  • Sự sôi nổi, vui vẻ trong giờ học luôn đem đến cho học sinh những cảm giác thoải mái, đồng thời tạo điều kiện để giúp giáo viên đưa học sinh vào hoạt động trong giờ học một cách tự nhiên mà không phải khó khăn.
  • Khi thất bại cũng không nản lòng, dù vấp phải khó khăn trở ngại cũng không bi quan, tin ở học trò, yêu thương các em thực sự, đem hết khả năng và lòng nhiệt huyết của mình để giảng dạy, tự phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
  • Việc lựa chọn nội dung và bố trí thời gian cho các tiết học cá nhân cho học sinh gặp khó khăn trong học phải được sắp xếp, vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với những khó khăn điều kiện từng lớp.
  • Sự động viên thật là quan trọng đối với chúng ta, nhất là đối với lứa tuổi học sinh TH. Do vậy, là thầy cô giáo càng không thể quên rằng một chức năng không thể thiếu được trong các chức năng của nghề giáo là động viên, khuyến khích học sinh.
  • Tham mưu với các cấp chính quyền địa phương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động tới gia đình học sinh, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng trong toàn xã hội để học sinh đi học chuyên cần.
  • Huy động các nguồn lực giúp học sinh có hoàn cảnh khó khăn, mượn sách giáo khoa, ý kiến cấp phát các chế độ ,học bổng cho các em kiệp thời ,tham gia các hoạt động thể thao vui chơi giải trí.
  • Đó là những suy nghĩ, công việc của tôi đã thực hiện trong năm học này, đây chưa phải là kinh nghiệm mới mẻ và cũng chưa phải là một biện pháp chuẩn mực lắm nhưng nó đã tác động rất lớn đến kết quả của các em. Tôi hy vọng rằng nó cũng phần nào giúp ích cho các bạn đồng nghiệp trong công tác chủ nhiệm lớp của mình.

Những biện pháp trên đây cũng còn nhiều hạn chế, rất mong các anh, chị đồng nghiệp vui lòng góp ý bổ sung để chuyên đề của tôi ngày càng hoàn thiện hơn và có tác dụng tích cực đến công tác chủ nhiệm của lớp mình.

Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm
Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm

2. Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp

Ngoài một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm phía trên, Hoatieu xin chia sẻ thêm Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp. Mời các bạn tham khảo.

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

I. Lí do chọn đề tài

Công tác chủ nhiệm là công tác quan trọng ở tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục phổ thông hiện nay. Người giáo viên chủ nhiệm ngoài việc tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập còn phải thường xuyên quan tâm, theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong giờ sinh hoạt tập thể, sinh hoạt ngoại khóa, … và cả các hoạt động học tập ở nhà của học sinh.

Ở bậc Tiểu học, giáo viên chủ nhiệm giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hình thành những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và một số những kĩ năng liên quan, tạo tiền đề cho học sinh học tập tốt những cấp học sau này. Bởi vậy, nếu không nhiệt tình, sáng tạo, liên tục đổi mới các biện pháp giáo dục để nâng cao chất lượng chủ nhiệm thì người giáo viên không thể làm tốt vai trò to lớn của mình.

Mỗi một năm học mới, mỗi một lớp học sinh mới lại đặt ra những khó khăn thử thách mới cho người giáo viên trong việc giảng dạy, quản lí, duy trì và nâng cao thành tích học tập cho những học sinh của mình. Đặc biệt với những học sinh đầu cấp, khi mà các em còn bỡ ngỡ, rụt rè, chưa làm quen với môi trường mới, bạn mới, hoạt động học tập mới …thì công tác chủ nhiệm trở thành một thử thách thực sự với thầy, cô giáo. Làm sao để từ những học sinh chỉ quen vui chơi, quen đùa nghịch thực hiện tốt nền nếp lớp học, làm quen với chữ cái con số, tạo cho các em ý thức học tập. Tạo được nền vững chắc, thì những năm sau này việc học tập của các em mới gặt hái được những thành công lớn.

Bản thân là giáo viên chủ nhiệm lớp 1. Lớp đầu cấp Tiểu học tôi luôn ý thức được việc xây dựng cho học sinh lớp mình những bước đệm quan trọng để các em có thể duy trì và sử dụng trong suốt những năm tháng sau này. Mỗi một năm học qua đi tôi đều tổng kết và đúc rút những kinh nghiệm quý báu trong công tác chủ nhiệm lớp để làm bài học cho mình, chia sẻ với đông đảo các bạn đồng nghiệp nhằm giúp cho hoạt động chủ nhiệm của khối, của trường ngày một tốt hơn. Đó chính là lí do tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm  “Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp 1”.

II. Mục đích nghiên cứu

Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn:

- Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết thành kinh nghiệm của bản thân.

- Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong công tác chủ nhiệm lớp.

- Nhận được những lời góp‎ ‎ý, nhận xét của hội đồng xét duyệt và từ các bạn đồng nghiệp để tôi phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.

- Góp phần nâng cao công tác chủ nhiệm, công tác chủ nhiệm là nhiệm vụ đầu tiên trong công tác giáo dục học sinh. Giáo viên cần nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp và của từng học sinh. Kết quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu, chương trình, kế hoạch năm học để xác định nội dung phù hợp với đặc điểm của lớp.

III. Đối tượng nghiên cứu

Sáng kiến kinh nghiệm của tôi được áp dụng vào lớp 1A6.

IV. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:

- Thu thập tài liệu ở tivi, báo, đài, mạng xã hội những vấn đề liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp ở bậc Tiểu học.

- Đọc, nghiên cứu, tóm tắt các quan điểm về công tác chủ nhiệm.

- Đề xuất một số quan điểm của bản thân trong công tác chủ nhiệm.

4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp khảo sát: khảo sát thông qua hồ sơ, qua phụ huynh, qua học sinh trong lớp.

4.3. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm

- Đối tượng thực nghiệm: Học sinh lớp 1A6.

- Tiến hành thực nghiệm:

+ Thu thập thông tin, điều tra bước đầu tình hình lớp

+ Đề ra biện pháp

+ Áp dụng biện pháp

+ Tổng kết đánh giá hiệu quả của các biện pháp áp dụng

+ Rút ra kinh nghiệm, bài học.

V. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu

- Phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 1A6.

- Kế hoạch nghiên cứu: Tôi tiến hành nghiên cứu trên học sinh lớp tôi bắt đầu từ năm học đến hết tháng 3 năm 20......

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Cơ sở lí luận

Tiểu học là bậc nền tảng, là nền móng cho hệ thống giáo dục, đặt cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh sau này. Đối với học sinh tiểu học, hoạt động trong nhà trường là chủ đạo, nhà trường là nơi tổ chức các hoạt động chuyên biệt, là nơi giáo dục trẻ theo mục tiêu giáo dục của bậc học. Bởi vậy nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống của trẻ, là nơi trẻ bộc lộ khả năng, năng lực, nhân cách một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.

Để đảm bảo được nhiệm vụ trồng người thì mỗi giáo viên phải có nhiệm vụ đào tạo nên những con người có đức, có tài cho xã hội. Bởi thế nhiệm vụ của mỗi giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tự nhiên, xã hội mà còn phải xây dựng và hình thành cho các em ý thức tự chủ, tinh thần trách nhiệm cao, những phẩm chất đạo đức của một con người ngay từ nhỏ… Nói cách khác, giáo viên vừa dạy chữ, vừa dạy cách làm người cho các em khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Từ nhận thức trên, người giáo viên chủ nhiệm lớp, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm cấp Tiểu học đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo học sinh theo mục đích giáo dục toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm vừa là thầy, vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Người giáo viên chủ nhiệm cấp Tiểu học cần làm tốt công việc của mình để thúc đẩy, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở bậc Tiểu học, nền móng của các bậc học ở các cấp học cao hơn.

II. Thực trạng ban đầu

Đầu năm học, tôi được Ban giám hiệu phân công chủ nhiệm lớp 1A6. Được sự quan tâm của Phòng giáo dục của Ban giám hiệu mà trường lớp khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ. Nhưng bên cạnh đó tôi nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn như sau:

1. Thuận lợi:

+ 100% các con đi học đúng độ tuổi quy định.

+ Phần lớn các em đều đã qua học trường mầm non .

+ Các gia đình đều quan tâm chuẩn bị đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập cho con em mình.

+ Lớp học được trang bị đầy đủ bàn ghế đúng chuẩn, có hệ thống đèn chiếu sáng, bảng chống loá, máy chiếu, máy tính…

2. Khó khăn:

+ Các em học sinh mới chuyển từ mẫu giáo lên còn rụt rè nhút nhát, chưa có ý thức cao trong việc thực hiện nề nếp, tổ chức, kỷ luật.

+ Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình hết sức đặc biệt, cần được sự quan tâm của các thầy cô và bạn bè.

+ Một số học sinh sức khoẻ yếu, một vài học sinh có những biểu hiện tăng động giảm chú ý, gây ảnh hưởng đến kết quả học tập và rèn luyện của chính bản thân học sinh đó, đồng thời cũng tác động không nhỏ tới hoạt động chung của lớp.

Từ thực tế lớp học tôi đã lên kế hoạch và chuẩn bị những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng công tác tác chủ nhiệm ở lớp và trong khối.

III. Các biện pháp thực hiện

1. Biện pháp 1: Giáo viên chủ nhiệm lớp cần rèn đức, luyện tài đáp ứng yêu cầu của giáo dục trọng thời kỳ mới.

Giáo viên chủ nhiệm lớp luôn trau dồi về đạo đức, tự học, tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, rèn đức, luyện tài để tạo niềm tin nơi học sinh và là tấm gương sáng cho học sinh

* Mục đích:

Xác định những công việc mà giáo viên chủ nhiệm lớp phải làm để trau dồi về đạo đức, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, rèn đức, luyện tài, tạo niềm tin nơi học sinh và là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.

* Cách tiến hành

Để phù hợp với giai đoạn hiện nay cần đổi mới nội dung, phương pháp và kĩ năng thực hiện công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên như sau:

- Nắm được mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu lớp học, kế hoạch nhiệm vụ giáo dục dạy học của năm học.

- Cần nắm vững phương pháp, nghệ thuật sư phạm.

- Hiểu được đặc điểm tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh tiểu học.

- Biết tổ chức quản lí việc học tập của học sinh nhằm hình thành tích cực, tự lập, tự giác hoàn thành nhiệm vụ.

- Có kế hoạch nghiên cứu đặc điểm gia đình và đặc điểm của từng học sinh của lớp chủ nhiệm.

- Cần năng động, sáng tạo, luôn cập nhật thông tin thường xuyên để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng giai đoạn hiện nay.

- Yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công việc. Thương yêu học sinh như chính con em của mình.

- Làm việc có kế hoạch để phối kết hợp giữa gia đình với các hoạt động của trường tạo sự đồng bộ nhịp nhàng trong quá trình giáo dục học sinh.

- Tạo cơ hội cho trẻ có cơ hội nói, suy nghĩ, nhu cầu, bộc lộ cảm xúc...Từ đó có biện pháp tạo mối quan hệ giữa Gia đình – Nhà trường - Xã hội.

2. Biện pháp 2: Khảo sát và nắm vững đặc điểm của từng học sinh trong lớp.

* Mục đích:

Tìm hiểu, điều tra, khảo sát và nắm vững đặc điểm của từng học sinh trong lớp từ đó có những nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và giáo dục cho phù hợp.

* Cách tiến hành:

- Ngay từ đầu năm học, trong buổi gặp gỡ đầu tiên với học sinh, tôi dành thời gian nhất định để tìm hiểu và làm quen với tất cả học sinh trong lớp. Bản thân ra mắt các em bằng những lời giới thiệu hấp dẫn về tên, tuổi, đặc điểm sở thích của mình. Có thể tạo ấn tượng cho các em bằng trang phục, lời nói, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, bằng cách đọc một bài thơ, một bài vè, kể một câu chuyện hay hát một bài hát … Riêng với học sinh lớp 1A6 của mình tôi giới thiệu bản thân bằng cách dùng phấn màu vẽ hình mình một cách ngộ nghĩnh sau đó giới thiệu với các em tên, tuổi, sở thích của mình. Rất nhiều học sinh ban đầu còn rụt rè, bỡ ngỡ nhưng sau màn chào hỏi của cô đã rất hào hứng tham gia giới thiệu về mình và giới thiệu các bạn mình quen biết trong lớp. Qua cách giới thiệu này, phần nào giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được đặc điểm tính cách của từng em: hiền lành, nhút nhát, hay nhanh nhẹn, hoạt bát từ đó có những nhận định ban đầu về học sinh.

- Cũng trong những buổi học đầu tiên, tôi phát phiếu điều tra để tìm hiểu về lý lịch của học sinh, công việc này giúp tôi thuận tiện trong quá trình công tác. Phiếu điều tra gồm các nội dung:

+ Họ và tên học sinh:………………………

+ Ngày tháng năm sinh:……………………

+ Là con thứ mấy……..trong số:…………

+ Họ tên cha:………………………………

Nghề nghiệp:………….Số điện thoại:……

+ Họ tên mẹ:…………………………………

Nghề nghiệp:…………….Số điện thoại:……

+ Hoàn cảnh gia đình:………………………

…………………………………………….........

+ Đặc điểm của học sinh (sức khoẻ, tính tình, sở thích, hạn chế…)

……………………………………………..........

+ Bố mẹ có ưu điểm và còn gặp khó khăn gì trong việc giáo dục và hướng dẫn con chuẩn bị bài ở nhà.

……………………………………………..........

+ Mong muốn và yêu cầu của cha mẹ đối với nhà trường cũng như đối với giáo viên chủ nhiệm.

……………………………………………..........

- Ngoài lời giới thiệu của học sinh, phiếu cung cấp thông tin của phụ huynh học sinh, trong quá trình công tác chủ nhiệm, đặc biệt 2 tuần đầu của năm học tôi luôn gần gũi với các em, lắng nghe các em trò chuyện, nhận xét đánh giá về mình, về bạn, về cách hiểu biết với thế giới xung quanh, tôi luôn quan sát để ý các cử chỉ, lời nói, hành động của các em bộc lộ qua các hoạt động học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể cũng như trong các quan hệ giao tiếp, ứng xử với bạn bè với thầy cô và với những người khác. Những trường hợp đặc biệt tôi phải dò hỏi để nắm bắt được hoàn cảnh cũng như đặc điểm của gia đình cũng như của học sinh. Từ đó có những định hướng đánh giá ban đầu để phân loại học sinh thành các nhóm:

+ Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn (về kinh tế, về tình cảm, về sự quan tâm chăm sóc của gia đình…): ...................

+ Học sinh sức khoẻ yếu: ..........................

+ Học sinh có những năng lực đặc biệt:............................

+ Học sinh còn chậm chạp trong tư duy: ..........................

- Dựa vào cách làm trên, tôi đã nắm bắt được hoàn cảnh gia đình của từng học sinh với những thuận lợi, khó khăn và đặc biệt là tính cách cùng với những ưu điểm, nhược điểm của các em trong học tập để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh.

3. Biện pháp 3: Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ lớp

* Mục đích:

Mục đích là chỉ ra các việc nên làm để xây dựng và đào tạo được đội ngũ cán bộ lớp có năng lực, chủ động, sáng tạo, hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong công tác chủ nhiệm.

* Cách tiến hành:

Việc lựa chọn đội ngũ cán bộ và hướng dẫn các em cách làm việc là một việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và đoàn kết tập thể học sinh trong lớp. Để có một tập thể lớp vững mạnh thì phải lựa chọn được đúng đắn đội ngũ cán bộ lớp tích cực, đáng tin cậy là việc cần làm đầu tiên. Chính vì vậy từ đầu năm, qua buổi tiếp xúc ban đầu bằng việc tự giới thiệu về bản thân của các em kết hợp với việc thử giao viên, trò chuyện với tập thể lớp để biết được nhận xét khách quan của các em, tôi đã xây dựng được đội ngũ cán bộ lớp nhiệt tình, sôi nổi có trách nhiệm với công việc đáng tin cậy.

VD: Khi chọn lớp trưởng tôi chọn em .................... là một học sinh có đầu óc quan sát tổng hợp được mọi vấn đề, mọi hoạt động của lớp, học tập tốt để tạo uy tín với cả lớp. Nhưng khi chọn lớp phó tôi lại đi sâu chọn một em có năng lực đặc biệt về một mặt: Em học giỏi là lớp phó học tập (.............) một em tháo vát, chăm chỉ lao động, biết sắp xếp mọi công việc thì làm lớp phó phụ trách lao động (em ....................).

- Sau khi lựa chọn và giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp, tôi luôn tôn trọng công việc của các em nhưng vẫn luôn giám sát để định hướng đúng đắn cho các em đồng thời cũng trao đổi bình đẳng với các em để tìm hiểu tinh hình, thái độ của của các em.

- Để củng cố uy tín của các em trước tập thể lớp, tôi luôn để cho các em tự đưa ra ý kiến của mình trong mọi vấn đề, đặt ra những yêu cầu để tập thể cán bộ lớp bàn bạc, trao đổi tìm ra hướng đi và đưa ra trước tập thể lớp để thông qua tập thể học sinh.

- Cuối cùng tôi lên kế hoạch bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ lớp. Tuy nhiên khi hướng dẫn các cán bộ lớp cách làm việc, tôi luôn yêu cầu các em học sinh xác định vai trò, vị trí của mình trong lớp (tôi cho các em biết các em chính là tấm gương cho các bạn khác trong lớp học tập. Nếu các em học giỏi, chăm ngoan thì các em mới có thể khiến cho các bạn trong lớp mình tin tưởng và nghe theo ý kiến của mình. Nói cách khác lớp học có nề nếp hay không phụ thuộc một phần vào các em).

Đây là các học sinh có sức học tương đối tốt, học đều các môn, chữ viết rõ ràng, nhanh nhẹn, có tinh thần trách nhiệm.

Lựa chọn các em có thể đạt các yêu cầu cơ bản sau:

- Có sức học vững, đạo đức tốt.

- Có uy tín lớn đối với các bạn

- Mạnh dạn, nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc được giao.

Cụ thể:

+ Lớp trưởng:................ Em này là một học sinh mạnh dạn, thích tham gia vào các phong trào chung, nhiệt tình với hoạt động của lớp. Đồng thời em là một học sinh có sức học tốt, ngoan ngoàn. Ngoài ra em có khả năng khuấy động phong trào của lớp và có khả năng quan sát tốt.

+ Lớp phó học tập:...................– là một học sinh chữ viết sạch sẽ, học chắc các môn, ngoan ngoãn, được các bạn trong lớp yêu quý, tín nhiệm, thường xuyên quan tâm giúp đỡ các bạn yếu hơn mình.

+ Lớp phó lao động: Em .................. Đây là một học sinh năng nổ, nhiệt tình, học chắc và đều các môn, có ý thức với công việc chung của tập thể.

+ Quản ca:............... Đây là một học sinh có năng khiếu âm nhạc, năng nổ, tích cực tham gia các phong trào của trường và lớp, sức học tốt.

+ 4 Tổ trưởng

Em: .................. (Tổ trưởng tổ 1)

.......................... (Tổ trưởng tổ 2)

.......................... (Tổ trưởng tổ 3)

.......................... (Tổ trưởng tổ 4)

Đây là các học sinh có sức học tương đối tốt, học đều các môn, chữ viết rõ ràng, nhanh nhẹn, có tinh thần trách nhiệm.

- Huấn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

+ Tôi đưa ra phương pháp làm việc phù hợp với từng cán bộ lớp và hướng dẫn các em cách làm việc theo dõi thi đua lẫn nhau để kích thích các em ganh đua nhau giữ gìn kỉ luật chung của lớp cũng như ý thức học tập.

+ Phát sổ theo dõi thành viên của tổ mình thường xuyên.Sổ theo dõi như sau:

STT

Họ và tên học sinh

Học tập

Kỉ luật

Đồ dùng

Tốt

Chưa tốt

+ Thời gian đầu năm học khi học sinh chưa đọc và viết tốt, tôi để các em dùng mặt cười (với những bạn hoàn thành tốt), dùng mặt buồn (với những bạn chưa hoàn thành) để tiện theo dõi việc học tập và thực hiện nền nếp của các bạn.

- Sau đó tôi phân công việc làm phù hợp với khả năng của từng em.

- Sau khi các em đã quen việc, để phát huy tính chủ động, tự quản và tinh thần tập thể của các em, tôi tổ chức giờ sinh hoạt tổng kết và đề ra các biện pháp thiết thực nhất để hoàn thành tốt các nội dung thi đua của Đội, của nhà trường (Lúc đầu tôi hướng dẫn cán bộ lớp tập điều hành giờ sinh hoạt lớp với nội dung ngắn gọn, đơn giản mà tôi đã vạch sẵn cho các em.)

- Mặt khác khi học sinh lớp tôi đã có nề nếp tương đối ổn định, để rèn nếp tự quản, tinh thần tập thể cho các em, tôi đã giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp tự quản lý, tự điều hành, tự giải quyết mọi công việc của lớp nhất là khi không có mặt giáo viên chủ nhiệm. Sau đó tôi kiểm tra và đánh giá công việc của các em (Tôi tiến hành công việc này sau khi lớp tôi đã có nề nếp tương đối ổn định).

VD: Vào đầu giờ truy bài buổi sáng, em ............ lớp trưởng lên điều khiển các bạn ôn và chuẩn bị bài mới cho ngày học. Lớp trưởng cho các bạn đọc đồng thanh các bài tập đọc, ghi nhớ môn Toán…theo nhóm, theo tổ, theo dãy, cá nhân...

* Kết quả: Học sinh đọc bài sôi nổi và tự tin trước khi vào tiết học vì đã được cùng các bạn ôn bài. Các bạn đọc yếu, kém, ghi nhớ chậm được các bạn giúp đỡ luyện đọc cá nhân. Từ đó tạo cho học sinh có được ý tự giác, đoàn kết trong lớp.

4. Biện pháp 4: Rèn nề nếp

* Mục đích:

Mục đích là chỉ ra các việc nên làm để xây dựng nề nếp học sinh, góp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh.

* Cách tiến hành:

- Đây là công tác đóng vai trò quan trọng, có thể quyết định đến học tập và mọi phong trào của lớp vì lớp học có trật tự, có nề nếp tốt thì học sinh mới chú ý nghe giảng và hiểu bài được. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc giúp học sinh lĩnh hội hết các kiến thức của tiết học.

Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã cho các em học sinh học Nội quy học sinh và yêu cầu các em tìm hiểu cụ thể, chi tiết từng mục một, phân tích kỹ để các em hiểu nội quy đó vì các em còn quá nhỏ, nếu giáo viên chỉ nêu qua thì học sinh không thể hiểu hết được yêu cầu của Nội quy.

NỘI QUY HỌC SINH

A. Kỉ luật, nề nếp

1. Đi học đúng giờ, nghe hiệu lệnh trống xếp hàng tập thể dục. Nghỉ học phải xin phép giáo viên chủ nhiệm.

2. Duy trì nếp chào hỏi, lễ phép với cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường.

3. Không mang tiền, đồ chơi, trang sức đến trường.

4. Lớp học phải sạch sẽ trong suốt buổi học, bàn ghế phải ngay ngắn, không có học sinh xả rác bừa bãi.

5. Không đùa nghịch, chạy nhảy đá bóng trong lớp, trên hành lang và trên cầu thang.

6. Mặc đồng phục, di dép quai hậu theo đúng quy định của nhà trường.

7. Không tự tiện sử dụng đồ của người khác.

8. Thường xuyên cắt móng tay.

9. Giờ ngủ xếp dép gọn gàng.

10. Giờ ăn: ngồi ăn đúng quy định, ăn hết suất, không nói chuyện khi ăn.

B. Học tập

1. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, sách vở trước khi đến lớp.

2. Có ý thức tự giác, trung thực trong học tập

3. Giữ trật tự trong giờ học, sinh hoạt tập thể.

4. Làm bài đầy đủ theo đúng yêu cầu thầy cô giáo.

C. Lao động, vệ sinh

1. Giữ vệ sinh chung, vứt rác đúng nơi quy định.

2. Rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh

3. Đi vệ sinh nhớ xả nước sạch sẽ.

4. Xếp gọn ngăn bàn, nhặt rác trước khi ra về.

- Trong quá trình lên lớp, học sinh phải trật tự thì giáo viên mới giảng, tuyệt đối không có tình trạng thầy nói, trò nói. Tuy nhiên, trong công tác này luôn phải nghiêm khắc nhưng cũng cần phải nhẹ nhàng với các em, học ra học, chơi ra chơi.

- Ngay từ đầu năm, tôi đã đưa ra các yêu cầu thi đua giữa các tổ và các cá nhân ngay từ buổi học đầu tiên để các em cùng thi đua, phấn đấu.

- Phiếu khen thưởng tháng có trang trí cho đẹp mắt. Dành cho những bạn xuất sắc nhất của lớp trong tháng. Những học sinh đó có thể là:

+ Học sinh đạt nhiều thành tích tốt trong học tập.

+ Học sinh có sự cố gắng, vươn lên trong học tập .

+ Học sinh có thành tích nổi bật trong tháng đó.

+ Học sinh có ý thức, tinh thần trách nhiệm với bản thân, với tập thể lớp.

+ Cán bộ lớp hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình.

* Kết quả: Học sinh thích thú và rất hãnh diện khi được nhận phiếu khen tháng. Các em ý thức được niềm vinh dự ấy có được bởi sự cố gắng của bản thân.

- Luôn duy trì đều đặn hoạt động thi đua giữa các tổ, các cá nhân, có khen chê kịp thời nhưng lấy tiêu chí khen, động viên là chính.

- Tôi đã thiết lập sổ Nhật ký giáo viên chủ nhiệm. Nhật ký giáo viên chủ nhiệm khác với Sổ công tác chủ nhiệm. Nhật ký chủ nhiệm để ghi về từng học sinh ưu nhược điểm, tính cách, sự tiến bộ, suy nghĩ, tình cảm của giáo viên đối với các em, những kỉ niệm, những hiện tượng của học sinh. Nhật ký chủ nhiệm giúp giáo viên có nguồn tư liệu đánh giá khoa học về học sinh, là tư liệu nghiên cứu về tâm lý học.

- Tôi thiết lập Sổ nhật ký chuyên môn. Trong cuốn sổ này tôi ghi lại những việc cần làm của tháng, của tuần, có điều chỉnh thường xuyên khi gặp những tình huống phát sinh trong quá trình dạy học. Cuối mỗi ngày, mỗi tuần tôi đều tổng kết đánh giá và có điều chỉnh kịp thời để giúp học sinh lớp mình tiếp thu bài một cách tốt nhất.

- Phân loại học sinh để có biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng, luôn ưu tiên đến các học sinh yếu trong lớp, dành cho các em này những câu hỏi đơn giản để các em cảm thấy tự tin khi phát biểu ý kiến.

- Tôi cũng luôn tạo ra trong lớp một không khí thi đua học tập tốt, sôi nổi trong mọi tiết dạy.

- Duy trì phong trào thi đua, phong trào Đôi bạn cùng tiến.

Ví dụ:

Đôi bạn .... – ....

Đôi bạn ..... – .…

- Khi xếp chỗ ngồi, tôi luôn chú ý xếp xen kẽ đôi bạn cùng tiến HS kém với HS khá, giỏi để các em tự giúp đỡ nhau trong học tập, cuối tuần luôn có bình bầu đôi bạn nào tiến bộ nhất trong tuần đó.

- Hướng dẫn học sinh nắm được các kí hiệu trên bảng, cách giơ tay phát biểu, cách sắp xếp đồ dùng học tập, cách đứng trả lời, ... từ đó rèn cho HS tác phong nhanh nhẹn trong mọi hoạt động.

- Duy trì nề nếp truy bài đầu giờ và kiểm tra bài của nhau trong các tiết dạy giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian và hướng các em vào mục tiêu tự đánh giá kết quả của mình.

- Luôn có kế hoạch kèm cặp các em yếu kém, thường xuyên gọi các em nhút nhát để các em tự tin và bạo dạn hơn.

- Phát động phong trào thi đua học tập giữa các tổ, nhóm, cá nhân có tiến hành tổng kết tuyên dương, khen thưởng nhằm khuyến khích tinh thần học tập tiến bộ của các em..

5. Biện pháp 5: Phối kết hợp với các lực lượng, các tổ chức đoàn thể trong công tác chủ nhiệm

* Mục đích:

Mục đích là chỉ ra tầm quan trọng và cách phối kết hợp với các lực lượng các tổ chức đoàn thể để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm.

* Cách tiến hành:

- Phối kết hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh:

Ở trường ngoài việc học trên lớp thì các em còn tham gia nhiều hoạt động của tổ chức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động của Đội các em mạnh dạn tự tin hơn và các hoạt động này giúp các em hình thành các phẩm chất đạo đức đáng quý như: Tính đoàn kết, lòng nhân ái, tinh thần tập thể, sự nhường nhịn, sự năng động...

Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với tổng phụ trách Đội, với Ban chỉ huy liên đội của nhà trường, với các anh chị phụ trách Sao nhi đồng. Bản thân mình cũng là một phụ trách sao nhi đồng của lớp, cần nắm vững các phương hướng, các chương trình hoạt động cũng như các điều lệ, các nội dung hoạt động của sao nhi đồng để tổ chức hướng dẫn theo các hoạt động của Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường. Cần bám sát các chủ điểm, các hoạt động của từng tháng để theo dõi nhắc nhở các em thực hiện tốt. Sau mỗi hoạt động cần tổng kết, tuyên dương khen thưởng kịp thời để động viên khích lệ các em.

- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh của lớp

Nhà trường – Gia đình – Xã hội là ba môi trường giáo dục, cần phối hợp chặt chẽ với nhau. Ai cũng biết nhà trường là môi trường giáo dục tốt nhất, có đủ các điều kiện, phương tiện tốt nhất để thực hiện giáo dục toàn diện cho các em. Tuy nhiên gia đình cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập và rèn luyện của từng cá nhân và học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong hoạt động học tập và giáo dục.

Ngay từ đầu năm học giáo viên thông qua cha mẹ học sinh để nắm bắt được đặc điểm của từng cá nhân học sinh, nắm bắt được hoàn cảnh của gia đình các em có tác động tích cực hay tiêu cực đến tâm sinh lí, đến chiều hướng phát triển của học sinh. Nếu gia đình ảnh hưởng tích cực tới học sinh, tôi luôn khích lệ để cha mẹ, phụ huynh học sinh quan tâm hơn, nhiệt tình hơn trong công tác phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, với nhà trường. Nếu gia đình ảnh hưởng tới chiều hướng tiêu cực, tôi nhẹ nhàng khéo léo trao đổi, góp ý chân thành để cha mẹ, phụ huynh học sinh hiểu được vai trò, trách nhiệm của mình với sự phát triển của con trẻ, đồng thời biết được những phương pháp, hình thức hợp lý có tác dụng giúp con trẻ học tập, tu dưỡng rèn luyện tốt hơn.

Để cha mẹ học sinh phối kết hợp hiệu quả với giáo viên chủ nhiệm lớp, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đã tuyên truyền và đưa ra những yêu cầu mà phụ huynh cần thực hiện ở nhà như kiểm tra việc chuẩn bị đầy đủ sách vở đồ dùng học tập của con em, bố trí góc học tập khoa học, thời gian biểu hợp lí, thường xuyên kiểm tra việc học tập ở nhà của con em, hướng dẫn con em những phần thực hành ứng dụng, nhắc nhở con em đi học đúng giờ, mặc đồng phục đúng quy định của nhà trường, để ý uốn nắn, sửa chữa dạy bảo cho các con từ lời nói, cử chỉ đến cách ứng xử với ông bà cha mẹ, người thân trong gia đình, với thầy cô, bạn bè, với hàng xóm ...

Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên trao đổi về tình hình cũng như kết quả học tập và rèn luyện cũng như học sinh trên lớp để phụ huynh nắm bắt được, chia vui với những thành tích các con đạt được, đồng thời uốn nắn sửa chữa những thiếu sót sai lệch cho các em. Cụ thể cuối mỗi tuần với những học sinh hoàn thành tốt nội dung học tập tôi khen ngợi và tuyên dương, với những học sinh hoàn thành chưa tốt hoặc có những biến đổi nhất định trong việc thực hiện các nền nếp lớp học tôi sẽ ghi phiếu nhận xét gửi trực tiếp về gia đình để bố mẹ biết và phối hợp giáo dục học sinh.

Cuối mỗi tháng tôi cho các em làm một bài khảo sát tổng hợp trong tháng, chữa lỗi, ghi nhận xét và gửi về gia đình, qua đó giúp gia đình biết được kết quả học cũng như những việc mà học sinh làm được, chưa làm được để có giải pháp giúp đỡ kịp thời.

Trên đây là mẫu SKKN: Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm 2024. Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
10 21.377
SKKN: Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh trong công tác chủ nhiệm 2024
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
1 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
  • 🖼️
    Trinh

    làm sao để tải bài này về?


    Thích Phản hồi 04/02/23
    • 🖼️
      Ban Quản Trị HoaTieu.vn

      Hoa Tiêu đã cập nhật file tải rồi bạn ấn Tải về là được nhé ạ.

      Thích Phản hồi 06/02/23
Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm