Những trường hợp người lao động phải bồi thường thiệt hại về tài sản 2024?

Thông thường thì rất ít trường hợp người lao động phải bồi thường thiệt hại về tài sản. Tuy nhiên, không phải cứ ít thì không có trường hợp nào bị bồi thường thiệt hại. Vậy, trong trường hợp nào thì người lao động phải bồi thường thiệt hại về tài sản? Bài viết này Hoatieu.vn sẽ chia sẻ cho bạn.

1. Người lao động là gì?

Theo quy định tại Điều 3 Bộ luật lao động 2019 thì người lao động được hiểu như sau:

1. Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động.

Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp quy định tại Mục 1 Chương XI của Bộ luật này.

Như vậy, người lao động là những người làm việc cho doanh nghiệp và được trả lương theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành.

2. Bồi thường thiệt hại là gì?

Bồi thường thiệt hại là việc của một cá nhân thể hiện trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút.

Những trường hợp người lao động phải bồi thường thiệt hại về tài sản 2021

3. Người lao động phải bồi thường thiệt hại khi nào?

Trách nhiệm vật chất trong luật lao động là một trách nhiệm pháp lý quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động do hành vi vi phạm kỷ luật lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm của người lao động gây ra trong quá trình lao động.

Các trường hợp bồi thường thiệt hại tùy thuộc vào tình trạng tài sản bị hư hỏng hay bị mất mà có mức bồi thường khác nhau. Tuy nhiên, mức bồi thường của người lao động không được vượt quá tổng số giá trị thiệt hại trực tiếp mà họ đã gây ra. Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Lao động 2019 thì bồi thường thiệt hại về tài sản gồm có hai trường hợp như sau:

3.1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Ta có thể thấy, pháp luật không quy định cụ thể hành vi làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị, hành vi khác gây thiệt hại về tài sản của người sử dụng lao động, không quy định mức bồi thường là bao nhiêu, cách bồi thường như thế nào mà pháp luật chỉ trao quyền cho người sử dụng lao động quyết định và quy định trước trong nội quy lao động.

Riêng trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiếu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì pháp luật quy định mức bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hàng tháng vào tiền lương của mình với mức không quá 30% tiền lương tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập.

Còn mức bồi thường và cách thức bồi thường trong trường hợp cụ thể do người sử dụng lao động quy định trong nội quy lao động hoặc quyết định sau khi tiến hành xử lý bồi thường thiệt hại vật chất.

3.2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, làm mất các tài sản khác do doanh nghiệp giao hoặc tiêu hao vật tư vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường;

Trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.

Tại trường hợp này, ta có thể hiểu như sau:

Một là, người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì pháp luật cho phép người sử dụng lao động được lựa chọn yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường.

Theo đó, cách thức bồi thường và mức bồi thường do người sử dụng lao động quy định trong nội quy lao động. Trên thực tế, không có nội quy lao động của bất cứ đơn vị sử dụng lao động nào quy định bồi thường thiệt hại “một phần” mà đều quy định “bồi thường toàn bộ thiệt hại theo thời giá thị trường”. Vì xuất phát từ quyền đối với tài sản cũng như xuất phát từ mục đích bảo đảm và tăng cường kỷ luật lao động trong đơn vị, cho nên quy định này mang tính hình thức, không phù hợp với thực tiễn.

Hai là, trường hợp giữa hai bên ký hợp đồng trách nhiệm thì người lao động phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm.

Thực chất đây là việc bồi thường thiệt hại về tài sản theo sự cam kết, thực hiện trách nhiệm dân sự. Khi người sử dụng lao động giao cho người lao động bảo quản, sử dụng tài sản có giá trị tương đối lớn thì pháp luật lao động cho phép hai bên ký hợp đồng trách nhiệm nhằm tăng cường trách nhiệm của người lao động trong việc bảo vệ tài sản của người sử dụng lao động và làm căn cứ để bồi thường nếu người lao động gây thiệt hại. Vì vậy, việc bồi thường thiệt hại này hoàn toàn do các bên thỏa thuận trong hợp đồng trách nhiệm.

Ba là, trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn… thì người lao động không phải bồi thường.

Bản chất thì quy định này hợp lý bởi trường hợp đó là trường hợp bất khả kháng và người lao động không có lỗi. Vì thế không có căn cứ hay không có lý do chính đáng nào để buộc họ phải bồi thường vì trách nhiệm quá với sự kiểm soát của họ. Tuy nhiên, việc Bộ luật Lao động quy định trường hợp này ở khoản 2 Điều 129 này lại không hợp lý bởi dễ gây ra cách hiểu rằng lý do bất khả kháng mà người lao động không phải bồi thường chỉ đặt ra cho các trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 129 mà không áp dụng cho các trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 129. Vì vậy, nên tách trường hợp này thành một điều khoản riêng để vừa có cách hiểu thống nhất từ đó giúp các đơn vị sử dụng lao động áp dụng hiệu quả trên thực tiễn, tránh những bất cập và hiểu nhầm về sau.

3.3. Vi phạm thỏa thuận về bí mật kinh doanh, công nghệ

Theo khoản 2 Điều 21 Bộ luật Lao động năm 2019, khi giao kết hợp đồng lao động, nếu công việc của người lao động có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, công nghệ của công ty thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về các nội dung liên quan đến việc bảo vệ bí mật đó.

Căn cứ khoản 2 Điều 4 Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH , thỏa thuận về bảo vệ bí mật kinh doanh, công nghệ có thể gồm những nội dung chủ yếu sau:

a) Danh mục bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ;

b) Phạm vi sử dụng bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ;

c) Thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ;

d) Phương thức bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ;

đ) Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động trong thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ;

e) Xử lý vi phạm thỏa thuận bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ.

Nếu người lao động vi phạm thỏa thuận, công ty có quyền xử lý vi phạm và yêu cầu người lao động bồi thường theo thỏa thuận

Mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp này cũng phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động.

3.4. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Theo Điều 35 Bộ luật Lao động 2019, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải đảm bảo có lý do luật định hoặc đã báo trước đúng thời hạn cho người sử dụng lao động biết.

Trường hợp nghỉ ngang, người lao động sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.

Khi đó, người lao động sẽ phải bồi thường cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 40 Bộ luật Lao động năm 2019 như sau:

- Bồi thường nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

- Bồi thường thêm 01 khoản tiền lương theo hợp đồng lao động tương ứng với những ngày không báo trước.

- Hoàn trả chi phí đào tạo nếu trong quá trình làm việc được cử đi học nghề, đào tạo nghề từ kinh phí của người sử dụng lao động.

Ngoài việc phải bồi thường, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật cũng gặp phải thiệt thòi khi không được nhận trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp.

Mời các bạn tham khảo thêm một số bài viết hữu ích khác như: Hợp đồng lao động, Mẫu thỏa ước lao động tập thể từ chuyên mục Hỏi đáp pháp luật của trang Hoatieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 123
0 Bình luận
Sắp xếp theo