Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng giang ngắn gọn

Lớp: Lớp 11
Môn: Ngữ Văn

Tràng giang là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận nói riêng và thơ ca lãng mạn 1932-1945 nói chung. Bài thơ “Tràng giang” được trích trong tập “Lửa thiêng”. Trong bài viết này, Hoatieu xin chia sẻ đến các bạn học sinh mẫu dàn ý phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận, kèm theo bài văn mẫu chi tiết nhằm giúp các bạn hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng sâu sắc của thi phẩm.

Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, nổi bật với nỗi buồn man mác, cảm thức về cái tôi lạc lõng trước vũ trụ bao la, cùng nghệ thuật sử dụng hình ảnh giàu tính tạo hình và chất cổ điển. Qua dàn ý và bài văn mẫu này, học sinh sẽ được định hướng rõ ràng trong việc phân tích cấu trúc bài thơ, khám phá vẻ đẹp ngôn từ và hình ảnh nghệ thuật, từ đó có thể tự tin triển khai một bài viết cảm thụ văn học sâu sắc và hiệu quả. Mời các bạn cùng tham khảo!

1. Dàn ý phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang

Dàn ý phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang

2. Cấu tứ của bài thơ Tràng giang

Cấu tứ và hình ảnh được dùng trong bài thơ được các tác giả sắp xếp một cách linh hoạt. Cách bố trí khôn khéo sẽ giúp nhà thơ truyền tải cảm xúc dễ dàng, tạo nên sự thành công. Huy Cận là cái tên không thể bỏ qua khi nhắc đến những nhà thơ thực sự thành công về cấu tứ, tiêu biểu là tác phẩm Tràng Giang.

Với không không gian sóng đôi, nhan đề không chỉ dừng lại là tên của bài thơ, mà còn thể hiện mạch cảm xúc lan tỏa. Những làn sóng liên tục dập dìu trong lòng của tác giả, khiến những suy nghĩ liên tục kéo đến.

Trong tác phẩm, tác giả sử dụng những từ trực tiếp tả nước như “nước”, “con nước”. Sau đó, Huy Cận kết hợp hình ảnh gián tiếp tượng hình “cồn nhỏ”, “bờ xanh”, “bãi vàng”, “sóng gợn”,… Sự kết hợp này một lần nữa khẳng định cấu tứ bài thơ rất quan trọng. Nếu thiếu những từ chỉ nước sẽ làm mất đi “chất riêng” của Tràng Giang.

Ý độ nghệ thuật của bài thơ đã tạo cảm hứng để người đọc hòa mình vào cảnh thiên nhiên, trải lòng và cảm nhận những cảm xúc của tác giả. Mỗi khổ thơ nói về một khung cảnh thiên nhiên, đồng thời cũng bộc lộ tâm tư, suy nghĩ của tác giả.

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Mở đầu là hình ảnh sóng gợn trên sông dài, đó cũng là nỗi buồn với bao suy tư trong lòng. Con thuyền xuôi mái nước yên ả, nhẹ nhàng nhưng cũng là nỗi buồn khó tả khi “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”.

Không còn thuyền, mặt nước càng yên tĩnh hơn, sự lẻ loi đang dần bao trùm lấy không gian. “Củi một cành khô lạc lấy dòng” như con người bé nhỏ giữa dòng đời không biết đi về đâu. Sự cô đơn một lần nữa được đẩy lên khi tác giả dùng hình ảnh “củi một cành khô” cùng với “thuyền xuôi mái nước”. Củi là hình ảnh gần gũi, quen thuộc và nhỏ bé lại được đính kèm với chiếc thuyền có tầm vóc lớn.


Từ láy “điệp điệp”, “song song” như để tăng thêm tâm trạng buồn tủi, cô độc. Cấu tứ được sử dụng làm rõ nét hình ảnh. Xuyên suốt tác phẩm, những sự vật lớn lao đi kèm với những thứ nhỏ bé và đơn sơ. Sự đối lập làm người đọc nghĩ ngay đến thân phận con người vốn nhỏ bé. Thậm chí, cuộc đời con người còn được gắn với cành củi khô lạc dòng vì chẳng biết phải đi về đâu.

Càng nghiền ngẫm sẽ càng thấy tác giả khéo léo khi mượn thiên nhiên bộc lộ nỗi buồn. Thông qua “củi một cành khô”, “bến cô liêu”, “bóng chiều sa”,… Nhà thơ vốn không cần phải nói ra, nhưng ai cũng cảm nhận được sự buồn tủi và cô đơn đang hiện diện.

Khổ thơ cuối cùng thay lời kết, tác giả nhìn thấy rất nhiều hình ảnh gợi nhớ quê hương. Chim nghiêng cánh nhỏ, chợ nặng bóng chiều, mây đùn đùn lớp lớp như quả núi bạc. Chim và mây cứ di chuyển gợi đến hình ảnh con người có số phận hẩm hiu. Đứng trước cảnh mênh mông, họ không biết phải làm gì, cứ để cuộc đời dần trôi qua.

Cũng là bài thơ có tả cảnh sông nước, nhưng cấu tứ trong Tràng Giang khác biệt hoàn toàn. Tác giả Huy Cận dùng những hình ảnh khéo léo, cấu tứ sóng đôi khiến cho bài thơ ấn tượng hơn.

3. Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang đặc sắc

Huy Cận, tên gọi quen thuộc trong làng văn hóa Việt Nam, không chỉ là nhà thơ nổi tiếng mà còn là một chiến sĩ cách mạng, người đã để lại những tác phẩm văn chất lượng cao, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của đất nước. Trong bài thơ của mình, Huy Cận đã lột tả một cách mạnh mẽ và đầy tình cảm về những thăng trầm của cuộc sống và thời đại. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh dòng sông Tràng Giang dài lâu, nơi ông tìm thấy nguồn cảm hứng và tiếng lòng của con người. Cảnh sắc hữu tình, dịu dàng nhưng đồng thời chứa đựng nhiều bí ẩn sâu sắc được nhà thơ lựa chọn làm bối cảnh cho tác phẩm của mình. Những sự vật trôi trên dòng sông, tựa như những cảm xúc và khát khao cuộc sống, tạo nên một bức tranh tâm lý sâu sắc về con người và thế giới xung quanh.

Ngôn từ của Huy Cận không chỉ đậm chất nghệ thuật mà còn mang theo một góc nhìn triết học sâu sắc về cuộc sống. Bài thơ được chạm khắc bằng những từ ngữ tinh tế, thiết tha, giúp người đọc cảm nhận được mạch cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Sự sáng tạo ngôn ngữ không chỉ nâng cao giá trị thẩm mỹ mà còn làm sâu sắc thêm nghệ thuật thể hiện ý nghĩa của tác phẩm.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Hình ảnh mở đầu của bài thơ đưa ta vào một không gian huyền bí và lãng mạn, nơi tác giả mượn hình ảnh của sóng để thể hiện tâm trạng sâu sắc của bản thân. Sóng gợn tràng giang như những nỗi buồn man mác, và dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm đậm chất trong hình tượng thơ. Bằng cách này, tác giả sử dụng sóng như một biểu tượng cho sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn, làm tăng lên gấp đôi những nỗi buồn và tạo ra một điệu nhấn riêng, mang màu sắc giá trị của sự sống con người.


Hình ảnh thơ lan tỏa chất lãng mạn, thu hút người đọc vào những vòng cuốn của cảm xúc lãng mạn với những lời thơ tinh tế. Sự mộng mơ và huyền bí của hình ảnh sóng, dòng nước trôi qua những con sóng làm vỗ bờ cát tạo ra một không gian thơ mộng và đặc biệt. Hình ảnh của tràng giang, một con sông dài và những tình người rộng lớn đang bị sóng nước mênh mang làm cho tâm trạng trở nên cô đơn và thơ mộng. Tác giả thông qua hình ảnh thơ đã vẽ lên những lời thơ sâu sắc, nâng cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm và tạo nên một không khí lãng mạn, huyền bí.

Nỗi buồn mênh mang trong không gian vô tận làm cho tâm trạng trở nên mông lung và đầy ắp những cảm xúc lãng mạn. Hình ảnh thơ không chỉ thể hiện sự cô đơn mà còn là sự kỳ bí và mênh mông của cuộc sống. Cảnh trên dòng sông Trường Giang với những chiếc thuyền trôi qua những dòng nước được mô tả thông qua cụm từ "điệp điệp" và "song song", mang lại hình ảnh của một sự vật mạnh mẽ và tăng lên mức độ của nỗi buồn. Hình ảnh này không chỉ là một cảm nhận về thiên nhiên, mà còn là một biểu tượng cho sự phong phú và nghệ thuật của cuộc sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Những làn gió nhẹ vẫn vuốt nhẹ trên dòng sông, tạo nên không khí man mác và làm cho trái tim người đọc cảm nhận những tâm trạng sâu thẳm. Sóng vỗ trên rặng liễu, như những nỗi buồn dịu dàng của con người, đưa đến cho chúng ta những hình ảnh đậm đà giá trị thơ. Trong bức tranh thơ, những gió và sóng không chỉ là hiện thực vật lý mà còn là ngôn ngữ tinh tế của tâm hồn. Những cảm xúc và tình cảm man mác được lồng ghép trong từng câu thơ, tạo nên một không gian thơ mộng, nơi giá trị thơ được tạo ra không chỉ qua những hình ảnh mà còn qua cảm nhận sâu sắc về cuộc sống. Lời thơ như là một bức tranh tĩnh lặng, nơi âm nhạc của làng xa vọng qua những dòng sông, kể lên những câu chuyện chợ chiều và những nỗi buồn chầm chậm trôi đi.

Sự kết hợp của ánh sáng hiu hắt và ánh nắng từ trên cao như là một bức tranh sống động, nó không chỉ mô tả về một không gian tĩnh lặng mà còn chứa đựng những hình ảnh sâu sắc về quê hương, những bến cô liêu dẫn lối dọc theo những dòng sông dài, mỗi đường cong là một câu chuyện buồn, là một khoảnh khắc đọng lại trong tâm hồn. Giá trị thơ của lời thơ không chỉ là ở những hình ảnh đẹp mà nó tạo ra mà còn là ở sự không định hình, sự phiêu bạt và tự do trong cảm nhận và diễn đạt. Đây là một phong cách nghệ thuật độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc và mang đến cho họ trải nghiệm tâm lý sâu sắc. Hình ảnh thơ là những cung bậc riêng, những tâm trạng khác nhau, tạo nên một bức tranh thơ phong phú và đầy sức sống.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trong những câu thơ, tác giả đã truyền đạt cảm xúc về số phận lênh đênh, mơ hồ và không biết đi về đâu của con người. Hình ảnh của dòng sông và những chiếc bèo trôi dạt như những hình ảnh tượng trưng, mang đậm giá trị thơ và làm nổi bật sự không chắc chắn trong cuộc sống. Sự lững thững của những chiếc bèo trên dòng sông như là biểu tượng cho sự bất an và khám phá không ngừng của con người trong hành trình sống. Hình ảnh của bãi cát trải dài trên biển xanh và những dòng sông mát lành thể hiện sự bình yên và tĩnh lặng, tạo nên một bức tranh tự nhiên hùng vĩ. Nhưng trong bức tranh đẹp ấy, cảm xúc cô đơn và buồn bã của tác giả vẫn hiện hữu. Bãi cát và dòng sông trở thành những người bạn trung thành trong cuộc hành trình, nhưng cũng là những nhân chứng trầm lặng của những cảm xúc không dễ dàng diễn tả. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm thơ mộng với thiên nhiên và sự biểu cảm tâm hồn, mà còn là bức tranh sống động về cuộc phiêu lưu của con người trong thế giới mênh mông. Các từ ngữ sâu sắc và màu sắc thơ đã làm nổi bật những nét đẹp và đau thương của cuộc sống, tạo nên một không gian văn hóa và tâm linh độc đáo.

4. Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang hay

Huy Cận - một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong "Tràng giang", từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở.

Tìm hiểu tứ thơ trong thi phẩm Tràng giang (Huy Cận ). “ Vẻ đẹp sáng nhất của nghệ thuật là vẻ đẹp ẩn hiện. Nó cần hiện lên để hấp dẫn mời chào, lại cần ẩn để tiếp tục mời chào, hấp dẫn”( Chu Văn Sơn). Bởi vậy, một nhà văn tài năng là một con người luôn biết tạo ra sự ẩn hiện trong tác phẩm, vừa khiến người đọc dễ dàng nắm bắt, vừa thôi thúc họ phải lao vào khám phá, lật giở. Tràng giang là một thi phẩm như thế. Nhà thơ của “ Cái hồn buồn Đông á” đã tác động trực tiếp đến thế giới tâm cảm của người đọc bằng một tứ thơ độc đáo- tứ thơ Tràng giang. Sau cách mạng, Huy Cận có ngồi chiêm nghiệm lại chặng đường thơ trước 1945 của mình, ông phát biểu: Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm. Nỗi nhớ thương không biết đã với chưa Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi. Có thể nói, thơ Huy Cận trước Cách mạng bài nào cũng buồn. Nói như Hoài Thanh, “ Huy Cận đã lượm nhặt chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.” Tràng giang (in trong tập Lửa thiêng- 1940) cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.

Bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi buồn. Nỗi buồn thấm sâu trong từng hình ảnh, câu chữ. Nguyên nhân của nỗi buồn ấy chính là từ tứ thơ Tràng giang. Theo như lời Huy Cận, tứ thơ Tràng giang được hình thành vào một buổi chiều mùa thu năm 1939. Trước đó, nhà thơ thường có một thú vui đặc biệt là đi lên vùng bến Chèm để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Sông nước mênh mông, đất trời bao la đã vô tình gợi lên sự rợn ngợp trong tâm hồn nhà thơ. Một chút suy tư, một thoáng trăn trở và cuối cùng thì những dòng chữ đầu tiên khơi mở nguồn mạch cảm xúc xuất hiện. “ Tràng giang” – cái ý lớn toàn bài, tứ thơ lạ đã bắt nhịp được suy nghĩ của Huy Cận. Và hệ quả của nó chính là sự ra đời của bài thơ Tràng giang. Khi Hoàng Cầm viết Lá diêu bông, đã biết bao người cầm bút tìm hiểu: Lá diêu bông là lá gì? Trong thực tế không hề có thứ lá ấy. Lá diêu bông chỉ tồn tại trong thế giới sáng tạo của người nghệ sĩ mà thôi. Nhưng chính Lá diêu bông- một ảo ảnh không bao giờ tồn tại trong cuộc đời lại là nguyên nhân tạo nên sự hấp dẫn cho thi phẩm. Bởi trong suốt bài thơ, tứ thơ Lá diêu bông đã khiến bạn đọc phải chơi vơi, hẫng hụt, có gì đó : “ chập chờn năm tháng, bảng lảng không gian, xanh mơi mong manh màu kỉ niệm…”. Như vậy, có thể khẳng định rằng, thành công của bài thơ phụ thuộc rất nhiều vào tứ thơ. Trở lại bài thơ Tràng giang, Huy Cận đã chọn tứ thơ Tràng giang- vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan toả, chảy tràn trong từng câu chữ. Tràng giang có nghĩa là sông dài. Nhưng nó khác với trường giang ở chỗ nó gọi được cái rộng lớn, bao la của không gian. Bởi vậy, mà nó mới độc đáo, bởi vậy mà nó mới khêu gợi được cả xúc cảm, cả ấn tượng của độc giả từ cái bắt nhịp đầu tiên vào tác phẩm. Tứ thơ Tràng giang xuất hiện không trực tiếp trong lời đề từ: “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.” Tràng là dài, giang là sông.

Nghĩa của từ Tràng giang được nhắc lại đầy đủ trong lời đề từ. Đó vừa là cảm xúc (Bâng khuâng – nhớ) trước thiên nhiên bao la rộng lớn (trời rộng – sông dài), vừa là nỗi buồn phảng phất được gợi lên bởi sự xa cách, chia ly giữa trời và sông (trời rộng nhớ sông dài). Để rồi từ lời đề từ này, mạch cảm xúc của bài thơ cứ chảy tràn, chảy miết theo nhịp cuộn của sông nước mênh mang. Để nói về tầm quan trọng của tứ thơ Tràng giang, có ý kiến cho rằng thử bỏ tất cả những chữ có liên quan đến sông nước mênh mông. Chắc chắn, bài thơ sẽ sụp đổ. Nó sẽ không còn là Tràng giang nữa bởi ý đồ nghệ thuật và ý đồ tư tưởng của nhà thơ đã không tồn tại. Tràng giang đã trở thành một cái cớ để giúp Huy Cận tự tin, thăng hoa trong từng bức tranh miêu tả cảnh vật. Bài thơ có bốn khổ, viết theo thể thất ngôn trường thiên. Mỗi khổ thơ là một sự khám phá của tác giả về thiên nhiên và vũ trụ, về cái nhịp nhàng, lặng lẽ của thế giới bên trong con người: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Con thuyền xuôi mái nước song song. Tràng giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sóng buồn điệp điệp, qua dòng khơi nước song song, cảm giác buồn gửi lại trong vần điệu, trong những từ ngữ gợi hình, trong không gian của vũ trụ mênh mông. Xuân Diệu nói: “Bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ Mới.” Cổ điển trong tứ thơ, trong nhan đề, trong lời đề từ, và cổ điển trong cả đề tài về sông nước. Tứ thơ tràng giang không chỉ dừng lại ở đó. Người ta nhắc nhiều đến hình ảnh “củi một cành khô”. Bên những cái đã thành truyền thống, mang tầm vóc lớn là sông, là thuyền, bỗng dưng xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa, mang đậm chất hiện thực, thô ráp của đời thường. Nói như Xuân Diệu, đó là sự chân thực đến mức sống sót. Nói như Hà Minh Đức, hình ảnh cành củi khô chính là thân phận của cỏ cây đã mấy lần thương đau, khô héo, mấy lần trôi dạt. Cái hay của thi phẩm chính là ở sự kết hợp độc đáo này. Bùi Công Hùng khi “ Bàn thêm về tứ thơ” có khẳng định rằng: “Tứ thơ là linh hồn, là cốt tuỷ của bài thơ, là cái phần tinh túy có khi không rõ hình hài nhưng có sức lay động tâm hồn.” Huy Cận đã rất tài tình khi chọn được tứ thơ Tràng giang. Nó vừa có không khí đường thi, cổ kính của phương Đông, vừa có hơi thở mới lạ độc đáo của thơ Mới. Bởi vậy, đã ba phần tư thế kỉ trôi qua kể từ khi bài thơ ra đời, Tràng giang từng song hành với rất nhiều thi phẩm hay của nhiều xu hướng, trào lưu nghệ thuật khác nhau, song giá trị của nó thì vẫn không hề bị suy giảm, vẫn trường tồn trong suy nghĩ và cảm nhận của độc giả. Tứ thơ Tràng giang trước hết gợi cho người đọc một bức tranh về thiên nhiên. Thiên nhiên trải dài, xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đối lập. Một bên là những hình ảnh cao lớn, rộng dài bao la kì vĩ mang chiều vũ trụ: sông dài, trời rộng, mây cao, núi bạc, bờ xanh, bãi vàng… Một bên là những hình ảnh, sự vật nhỏ bé đơn sơ, trơ trọi, trôi nổi vật vờ: con thuyền, cồn nhỏ, bèo dạt…Hệ thống hình ảnh đối lập này đã tạo nên sự liên tưởng về thân phận con người nhỏ bé, bơ vơ, bất lực, buông xuôi, không định hướng như bèo dạt hàng nối hàng không biết đi về đâu, như một cành củi khô lạc mấy dòng.. Huy Cận rất tài tình khi chọn tứ là Tràng giang chứ không phải trường giang. Dù cả hai từ này nghĩa đều giống nhau. Tràng giang - với sự láy lại 2 lần của vần ang, vô hình chung đã làm kéo dài ngữ điệu, gợi lên một cảm giác mênh mang khó tả. Cái cảm giác ấy có tên là nỗi buồn.Nỗi buồn choáng ngợp câu chữ, choáng cả thời gian, không gian, và choáng cả cảnh vật “buồn điệp điệp”, “ sầu trăm ngả”, “ bến cô liêu”…Giữa cảnh sông nước mênh mang, không có con đò, không có chiếc cầu để gợi lên chút hi vọng về một bến bờ khác, giúp vượt thoát khỏi thực tại. Không gian tuyệt đối tĩnh lặng. Sóng gợn nhẹ, bờ bãi lặng lẽ,chỉ có thứ âm thanh từ kí ức xa xăm dội về tâm tưởng thành niềm khát khao, thành một câu hỏi day dứt:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều?

Khổ cuối của bài thơ là một câu kết hay. Hay bởi nó lạ. Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang “nghiêng cánh nhỏ”. Mây lớp lớp đùn lên như những “núi bạc”. Cảnh tượng tráng lệ. Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la, với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả nỗi buồn cô đơn. Hoàng hôn phủ mờ tràng giang. Con nước làm xúc động lòng quê. Thôi Hiệu 13 thế kỷ trước, đứng trên lầu Hoàng Hạc, nhìn sông Hán Dương, cũng thổn thức: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Với Huy Cận, chiều nay trên Tràng giang, nỗi buồn nhớ quê nhà nhiều lần nhân lên thấm thía: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang. Xuân Diệu đánh giá: Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, qua đó dọn đường cho tình yêu giang san Tổ quốc. Để làm được điều này, khi đọc tiếp cận với bài thơ, người ta không thể không đề cập đến tứ thơ Trang giang - Một tứ thơ vừa cũ vừa mới, vừa quen mà vừa lạ….

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn. 

Đánh giá bài viết
44 90.814
Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng giang ngắn gọn
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
Đóng
Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm