Liên hệ mở rộng bài Chí phèo

Chí phèo là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn học của Nam Cao. Truyện ngắn Chí phèo đã được Nam Cao tái hiện lại hình ảnh nông thôn của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ một số gợi ý về liên hệ mở rộng bài Chí phèo cũng như Chí phèo liên hệ với tác phẩm nào? Lời bình về tác phẩm Chí Phèo để các bạn học sinh có thêm tài liệu tham khảo và vận dụng vào bài làm của mình.

1. Mở rộng, liên hệ Chí Phèo và Vợ nhặt

 Mở rộng, liên hệ Chí Phèo

Độc đáo của Nam Cao – Kim Lân trong đề tài về người nông dân

Trong văn xuôi Việt Nam trước CM8, phản ánh hiện thực đã trở thành một thánh địa của dòng văn học hiện thực phê phán. Trên mảnh đất ấy, đề tài người nông dân cơ cực, làng quê tù đọng được khai thác tưởng chừng ở mức thấu triệt với tên tuổi: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan …và các tác phẩm rung động trên văn đàn một thời “Tắt Đèn”; Bước đường cùng”… thế mà sau những cây bút đàn anh này, Nam Cao và Kim Lân cũng trên mảnh đất xưa cũ ấy đã dựng dậy những ngôi lầu nghệ thuật của mình đứng vững giữa lòng người, thách thức với thời gian đó là “Chí Phèo” và “Vợ Nhặt”; Phải chăng sự độc đáo sáng tạo của các nhà văn đã kết tinh lên thành tựu đó.

I- CÁCH KHÁM PHÁ RIÊNG VỀ SỐ PHẬN CẢNH NGỘ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN:

1-Quan niệm:

Sinh thời Nam Cao Luôn coi trọng hoạt động sáng tạo trong nghệ thuật “Văn chương không cần đến sự khéo tay,Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi hứng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có”. Nam Cao đã sống và viết theo quan niệm ấy mà Chí Phèo là một minh chứng. Còn Kim Lân từ bản thảo sau CM8 ngót hơn 10 năm trăn trở nhà văn mới vừa lòng buông dấu chấm cuối cùng cho truyện ngắn Vợ Nhặt xem thế cũng đủ biết sự nhọc nhằn của Kim Lân. Quan niệm viết của Nam Cao đã có tiếng nói chung sự độc đáo và sáng tạo và sự thật chính điều ấy đã tạo nên thành công của mỗi tác phẩm có thể hiện được dấu ấn sáng tạo cá thể rất rõ ràng dù cùng chung viết về một đề tài.

2- Phân tích đối chứng của hai tác phẩm

Dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước CM8 thường khai thác một khía cạnh phổ biến về đề tài người nông dân đó là tình cảnh bi thảm của họ. Cho đến tận bây giờ VN vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu, các nhà tâm lý nhân chủng học khẳng định: Trong mỗi con người Việt Nam dù ở tầng lớp nào cũng có một người nông dân. Nói như vậy nghĩa là những vấn đề nông dân là những vấn đề phổ biến và nhà văn luôn hiểu về vấn đề đó một cách sâu sắc nhất. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản tạo nên những trang viết truyện ngắn về người nông dân :Trần Tiêu, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố …Tìm chọn đề tài nghười nông dân, để thể hiện khác biệt, với Nam Cao và Kim Lân những nhà văn lớp sau, rõ ràng là đương đầu với một thách thức lớn .

Đọc Tắt Đèn của Ngô Tất Tố người đọc tiếp cận với một không gian ngột ngạt oi bức, nỗi khổ đè nặng trên đôi vai gầy yếu, nỗi đau xé lòng chị Dậu dường như đã thành nỗi đau tột cùng. Nhưng khi nghe tiếng chửi tục tĩu, khuôn mặt đầy vết sẹo bước chân chuyệnh choạng ngật ngưỡng của Chí Phèo bước đi trên những dòng văn của Nam Cao ta mới thấy rằng đó mới là kẻ khốn cùng ở nông dân Việt Nam ngày trước. Tình cảm của Chí Phèo khác hẳn với các nhân vật trước đó, cũng là người nông dân canh điền khoẻ mạnh và trung thực nhưng bị vu oan biến Chí Phèo thành một tên lưu manh mất hết nhân tính lẫn nhân hình. Cảnh ngộ ấy, các tác phảm hiện thực phê phán chưa đề cập khai thác được.Với nó, Nam Cao không chỉ lột trần sự thật đau khổ của người nông dân vừa nêu được một quy luật xuất hiện trong làng xã Việt Nam trước CM8: hiện tượng người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hoá. Tình cảnh ấy của Chí Phèo đã làm cho số phận người nông dân trung thực rơi xuống vực thẳm của bi kịch.

Trước kia là nỗi khổ chị Dậu phải bán con hay bán chó để cứu chồng, tồn tại; Xem thế cũng là trắng tay tưởng như không thể còn bòn kiếm gì hơn; nhưng Chí Phèo còn tìm thêm thứ tài sản quý giá nhất của mình là nhân tính, là linh hồn. Chị Dậu dù xác xơ nghèo nhưng vẫn còn là một con người còn Chí khi bán linh hồn của mình thì thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Bắt đầu từ đây, những bi kịch đau đớn nhất như những cơn dông bão ập xuống quất vào số phận của Chí Phèo. Chí Phèo khi đã mất cả nhân hình và nhân tính thì mất hết tất cả. Chí không chấp nhận trở lại làm người với lý lịch đầy bất hảo bộ mặt sứt sẹo, hành động côn đồ, Chí Phèo đã làm cho cả làng Vũ Đại ngoài thị Nở không một ai tôn trọng . Không còn một chút lương tâm nào hết, vì vậy Chí Phèo bị cả làng Vũ Đại chối bỏ và sa vào tấn bi kịch đau đớn nhất bị từ chối làm người.

Phát hiện ra nỗi khổ tột cùng của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến và thể hiện nó trên trang viết qua khám phá bi kịch nội tâm Chí Phèo Nam Cao đã khẳng định được tuyên ngôn của mình, tìm được chỗ đứng cho tác phẩm đó là sự khám phá sáng tạo và có cái riêng của tác phẩm với phong cách đặc sắc mang tên Nam Cao và nhân vật Chí Phèo tạo ra sức ám ảnh không kém hiện tượng nhân vật chị Dậu trong Tắt Đèn được coi là kinh điển của văn học hiện thực phê phán đương thời.

b-So với Nam Cao, Kim Lân khi viết Vợ Nhặt còn ở bước sau nữa thời gian sẽ là vô nghĩa nếu người viết không đủ năng lực để khám phá sáng tạo, Kim Lân đã không như vậy.

b1. Nhân vật người nông dân của Kim Lân cũng là những nhân vật đói nghèo nhưng cái đói nghèo ở đây được đặt trong một bối cảnh khủng khiếp nạn đói 1945 làm hơn 2 triệu người chết đói. Bối cảnh đó làm cho con người bộc lộ đầy đủ cá tính và giá trị của mình .

Nhân vật nông dân đầu tiên xuất hiện là Tràng. Ở thời điểm ấy., Tràng, người nông dân dân nghèo ngụ cư như một nhánh cây khô trước cơn bão đói “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp” còn cô gái vợ Tràng tiều tuỵ, đói khổ chấp nhận theo không Tràng về làm vợ với 4 bát bánh đúc. Bà cụ Tứ suốt kiếp đói nghèo tủi phận với cả trong mơ cũng không dám nghĩ tới cưới vợ cho con, bà nghĩ về tương lai đầu u ám chỉ có một chút le lói niềm tin.

* Khám phá chi tiết ấy và đưa vào truyện, Kim Lân đã khẳng định sự sáng tạo của mình: điểm sáng tạo ở đây là nêu nên giá trị của người nông dân trong nạn đói, giá của họ rẻ rúng quá! Con chó nhà chị Dậu còn được vài hào, còn con người ở đây thì như cọng rơm nát vứt đầu đường xó chợ, con người trong truyện là những sinh linh bé nhỏ yếu ớt chậm bước về nghĩa địa.

Các tác phẩm hiện thực phê phán có nói về cái chết, nhưng ít có tác phẩm nào tái hiện được cái chết ám ảnh như Kim Lân trong Vợ Nhặt. Cả thế giới xóm ngụ cư nặng mùi tử khí, tiếng khóc ai oán nhà có người chết bao kín không gian và thời gian. Nhân vật trong hiện thực phê phán khát khao bớt cảnh khổ còn ở đây “khó ai có thể tin mình sống nổi“. Chí Phèo trong lúc tỉnh còn khát khao một tổ ấm còn mẹ con Tràng không dám tin có một hạnh phúc trong tay. Cái chết quả thực là một bi thương, ngòi bút Kim Lân đã đạt đến điều đó và tạo nên cái riêng cho mình.

Tuy nhiên sự khám phá của Kim Lân không chỉ dừng ở đó, ông còn tìm thấy sức mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những sinh linh bé nhỏ. Tràng lấy vợ, một câu chuyện dở khóc dở cười nhưng sau sự kiện bi hài ấy con người và thế giới của riêng Tràng thay đổi: vợ hiền thảo hơn, Tràng phục sinh. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám mây u ám. Tình yêu thương đã khiến cho ba sinh linh nhỏ bé và mái nhà của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc, trong thời khắc quyết định số phận, phải chăng họ đã chụm lại sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu
Và niềm tin đó là điều các tác phẩm trước đó chưa đề cập: Chị Dậu, Chí Phèo mới chỉ vẫy vùng trong đơn độc. Chính vì thế tình thuỷ chung của chị Dậu vô nghĩa, tình yêu của Chí Phèo trở thành hận thù và cuối truyện nhòe trang máu đỏ..

II – Sự khác nhau về cách kết thúc-Nguyên nhân -ý nghĩa :

1- Cách kết thúc.

Chí Phèo bị cả xã hội Vũ Đại từ chối khinh rẻ. Và đau đớn vô cùng khi chính Chí Phèo bị ngay cả người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn là Thị Nở từ bỏ, thời khắc ấy Chí Phèo lại uống rượu; Nhưng kỳ lạ thay Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh. Chí Phèo đã quyết định cầm dao đi tìm và giết kẻ đã gây ra bất hạnh cho mình. Bá Kiến chết, Chí phèo tự tử, còn Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong óc nghĩ ngay đến chiếc lò gạch bỏ quên.
Sau đêm tân hôn khi cảm nhận vị đắng chát của miếng chè khoán trong bữa cơm đạm bạc ngày đó trong óc Tràng hiện hình ảnh những người đi phá kho thóc Nhật vơí lá cờ đỏ tung bay .
Đó là cách kết thúc của hai truyện ngắn Vợ Nhặt và Chí Phèo, số phận nhân vật đã đến hồi cáo chung một bi kịch đầy máu và uất hạn, với cách kết thúc đầu cuối tương ứng Nam Cao đã mở ra một bi kịch của tương lai; Còn Vợ Nhặt nhân vật đứng trên bờ vực thẳm cái chết, chấp nhận một bi kịch của hiện tại, nhưng truyện không khép lại ở đó mà mở ra một tương lai mới hứa hẹn sự đổi đời.

2- Nguyên nhân:

Truyện ngắn Chí Phèo viết vào năm 1938 đây là thời điểm CM8 chưa thành công. Các nhà văn tri thức Tiểu tư sản ít người cảm nhận được sự thành công của CM. Hầu hết đều trăn trở băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” trong bối cảnh nước mất nhà tan. Nam Cao là nhà văn tiến bộ theo khuynh hướng phản ánh hiện thực cố nhiên thế giới quan của ông có điểm dừng nhất đình do vậy nhân vật của ông vùng vẫy không không lối thoát: Lang Rận, Lão Hạc, Thứ… trong các tác phảm của ông đều có chung sự cùng quẫn ấy. Chỉ có sau này, khi Nam Cao đi theo kháng chiến và thay đổi phong cách sáng tác thì nhân vật của ông mới tìm con đường đi đúng, một lối thoát mà ở thời điểm ông đang là cây bút hiện thực phê phán không sao tìm nổi.
Ngược lại,.Vợ Nhặt viết sau CM8 và mãi 1945 mới hoàn thành đây là thời điểm Kim Lân tước bỏ toàn bộ quan niệm sáng tác cũ, ông đã là nhà văn CM, thế giơí quan của ông là thế giới quan của thời đại mới, dưới ánh sáng của Đảng; mặt khác phương pháp sáng tác của dòng văn học Cách mạng Việt Nam hiện đại đã khẳng định rất rõ ràng hướng viết cho các ngòi bút. Bởi vậy, nhân vật của ông không sa vào các bi kịch thông lệ và chấm dứt số phận ở những trang kết thúc. Ngược lại, ngòi bút nhà văn CM toả ra ánh sáng dẫn dường cho nhân vật bước tiếp trên chặng trần thế hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.

3 – ý nghĩa:

Trước hết, cách kết thúc đều phản ánh một cách trung thực những hiện thực đã xảy ra đối với các nhân vật, phù hợp tính chất bước phát triển của số phận nhân vật, song mỗi cách kết thúc đều mang những giá trị riêng. Với cách kết thúc dữ dội trong Chí Phèo, Nam Cao đã sáng tạo nên nhân vật nô lệ thức tỉnh đứng lên đòi quyền làm người, đồng thời cũng dự báo sự thật đó là mâu thuẫn trong nông dân và địa chủ đã phát triển tới mức báo động. Nó đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Kim Lân dùng cách kết thúc mở, lại là đề cao phẩm chất ham sống, tinh thần chống lại định mệnh của người nông dân. Mặc dù ngòi bút của Ông không miêu tả cảnh gia đình Tràng đi theo CM, nhưng logic của cuộc sống đã khẳng định đó là con đường tất yếu họ phải đi và như vậy …

III- Đặc sắc về tư tưởng nhân đạo

1- Trong quan niệm về nghệ thuật của Nam Cao

Ông cho rằng văn chương phải nhằm mục đích: “Ca tụng lòng thương tình bác ái công bình”. Tất nhiên, văn học hiện thực phê phán cũng sáng tác trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo;song Nam Cao vẫn tự tạo ra sự độc đáo cho chính mình trên bình diện này. Khi thể hiện giá trị nhân đạo các tác phẩm hiện thực phê phán thường đề cập sự cảm thông và và phát hiện phẩm chát tốt đẹp của người nông dân. Chí Phèo bị nhà tù thực dân và thủ đoạn tàn bạo của Bá Kiến trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Nam Cao vẫn tin trong đáy sâu thẳm tâm hồn đen độc của con quỷ ấy vẫn tồn tại bản chất lương thiện của người nông dân lao động mà không thể sức mạnh nào tiêu diệt được. Cho đến khi gặp thị Nở, mối tình chân thực của người đàn bà khốn khổ này mới có thể làm cho thức dậy cái chất con người của anh ta, hương vị tình yêu quyện trong bát cháo hành của Thị Nở đã gọi được linh hồn thuần hậu của Chí Phèo trở về trong suốt thời gian u mê bởi bùa quỷ dữ – Đó chính là cái nhìn nhân đạo độc đáo của Nam Cao

2 – Kim Lân khi viết Vợ Nhặt

Kim Lân đã nói rõ ý đồ sáng tạo của mình, tâm sự của nhân vật chính là ý nghĩa nhân bản của truyện ngắn này ” trong sự đói túng quay quắt trong bất cứ hoàn cảnh khốn cùng nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết cái thảm đạm mà vui để mà hy vọng“. Chính vì thế mà giá trị lớn nhất và cao nhất không phải là giá trị hiện thực là bản cáo trạng mà là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng một chất thơ của hồn người. Ánh sáng của tình người toả ra hào quàng đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động. Mặt khác kết thúc mở với dòng suy nghĩ của Tràng là cách kết thúc mà tất cả các truyện hiện thực phê phán không đạt đến.Ý nghĩa nhân văn tạo ra nằm ngay trong chính nhân vật đó. Đấy là một thế giới mới vẫy gọi, nó rất gần thân thuộc cũng là một làng quê Việt Nam đoàn người nông dân đói, cũng là con đê làng với cái tên quê kiểng: “đê sộp“. Điều quan trọng ở đây cần nhấn mạnh, đó là thế giới cả hạnh phúc ấm lo thực sự mà nhân dân làm chủ đời mình . Tràng và gia đình anh hiển nhiên sẽ lựa chọn sống hay là chết? và con đường lựa chọn của anh rất rõ .

Vạch con đường cho nhân vật không chỉ biểu hiện giá trị nhân đạo đơn thuần, mà giá thị nhân đạo của dòng văn học cách mạng Kim Lân tiếp thu nó để tạo nên sự độc đáo của mình.

2. Lời bình về tác phẩm Chí Phèo

1. Chí Phèo say hay tỉnh?

Có người đã cố chứng minh rằng Chí Phèo tỉnh, Chí Phèo không say! Là nói cực đoan thôi! Bởi Chí Phèo hoàn toàn tỉnh thì vô lí, Chí Phèo hoàn toàn say thì vô nghĩa. Sự độc đáo của hình tượng Chí Phèo chính là trạng thái say – tỉnh bất phân. Đó không hẳn là các mặt tách bạch của mâu thuẫn: bên ngoài – bên trong, bề mặt – bề sâu. Mà cái say – tỉnh nằm ngay ở ranh giới giữa các “bề” đó. Thế nên, lúc điên rồ nhất cũng là lúc tỉnh nhất.

Còn gì điên rồ hơn cách chửi của Chí Phèo ? Nhưng hãy xem các đối tượng bị chửi cứ dần thu hẹp lại: từ xa xôi không đâu nhất, đến đụng chạm sát sạt nhất là Trời, rồi Đời, rồi làng Vũ Đại, cuối cùng là những “đứa chết mẹ nào không chửi nhau với hắn”, sẽ thấy cái logic của một tâm lí tỉnh táo. Tỉnh táo ngay trong đau khổ cùng cực. Rồi xem tiếp cái cách Nam Cao “bào chữa” cho Chí Phèo : “Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Khổ cho hắn và khổ cho người, hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi…”. Đau khổ vì bị tẩy chay, bị loại khỏi thế giới người, hắn bức xúc và cần giải toả. Nếu hát được, đau khổ sẽ vợi bớt. Nhưng trời đâu phú cho Chí Phèo năng khiếu thanh nhạc! Vậy chửi là một kiểu hát của Chí Phèo chứ sao? Bài hát lộn ngược của một linh hồn méo mó và đau khổ. Vả chăng, cũng cần phân biệt cái tỉnh của một người nghiêm chỉnh, của một lương tri, khác với trạng thái tỉnh như là tan cơn say của một tên côn đồ, lưu manh.

Cuộc đời Chí Phèo có thể chia thành hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở cũng có hai chặng nhỏ mà mốc phân định là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một người lương thiện thành một tên lưu manh. Sau khi ra tù về làng, các thế lực như Bá Kiến đã làm nốt công đoạn cuối cùng của việc tha hoá Chí Phèo: biến một tên lưu manh thành một con quỉ dữ. Từ đó, Nam Cao mô tả đời hắn như một cơn say dài, mênh mông bất tận, “và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời”. Thị Nở thực sự là một bước ngoặt lớn trong đời hắn, mà trước nhất là, trong tâm lí Chí Phèo. Tuy chỉ có năm ngày ngắn ngủi, nhưng đó thực sự là một quãng đời khác: Chí được sống rồi chết như một con người.

Cũng không phải gặp thị Nở là có ngay sự thức tỉnh sâu xa. Nam Cao tỏ ra rất am hiểu cái diễn biến biện chứng của tâm lí. Ông đã miêu tả nó theo một yêu cầu hiện thực nghiêm ngặt. Quả thực, cuộc chung chạ đêm trước với Thị Nở đêm trước mới đánh thức dậy cái phần bản năng của một gã đàn ông. Và một cuộc chung đụng có lẽ cũng chỉ là được có thế. Phải đến sáng hôm sau được hưởng sự chăm sóc mộc mạc và chân thành của Thị Nở thì trong Chí Phèo mới có sự thức tỉnh cần thiết: bản chất lương thiện của một người nông dân bị vùi lấp đã trỗi dậy, lương tri đã trở về.
Nhưng lương tri trở về lại nhanh chóng đẩy bi kịch tha hóa của Chí Phèo đến hồi chót của nó.

2. Thị Nở là ai?

Câu hỏi có vẻ thừa! Nhưng muốn trả lời câu hỏi có vẻ thừa đó, lại phải đặt Thị Nở vào trong tương quan với tất cả những nhân vật quan trọng nhất của làng Vũ Đại. Nghĩa là phải xem xét cấu trúc hình tượng của tác phẩm.

Thực ra vấn đề Chí Phèo là vấn đề nhân tính. Cực điểm của sự tha hoá ở Chí Phèo là đã huỷ hoại cả nhân hình lẫn nhân tính, nghĩa là bán đi cả bộ mặt người lẫn linh hồn người để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hình tượng Chí Phèo là biểu hiện cho tính người đã bị huỷ hoại, vùi lấp. Thủ phạm là Bá Kiến. Tham gia cùng quá trình đẩy Chí Phèo đến cùng quẫn, bế tắc tuyệt vọng còn có 1 lực lượng khác, không kém phần tàn bạo: định kiến. Bà cô Thị Nở hiện diện trong tác phẩm như là là cái loa phát ngôn cho định kiến của làng. Còn Thị Nở? Đó là hiện thân của tình người. Chỉ có tình người mới cứu được tính người. Tình người là một sức mạnh. Nhưng tình người cũng thật mong manh. Đối diện với một định kiến hà khắc, tình người rất có thể sẽ tiêu tan. Cái quan hệ Thị Nở – Chí Phèo – bà cô dường như đã nói lên cái tương quan ấy.Không phải ngẫu nhiên Nam Cao mô tả Chí Phèo có quan hệ với hai người đàn bà. Với bà Ba – hẳn là xinh vào hạng nhất làng Vũ Đại – Chí không được hưởng một chút tình yêu nào. Hành vi của bà Ba gọi Chí lên bóp chân, về thực chất, là hành vi bóc lột – Bóc lột cái phần trai trẻ ở Chí Phèo, mà bấy giờ lão Bá đã cạn. Chí Phèo chỉ được xem như một thứ nô lệ thôi. Còn với thị Nở – người đàn bà xấu nhất làng Vũ Đại, Chí Phèo được hưởng tình người. Tình người mạc, đơn sơ chỉ còn sót lại duy nhất ở Thị Nở?

Nhiều người cứ phê phán Nam Cao là tự nhiên chủ nghĩa, là quá trớn khi mô tả thị Nở xấu đến ma chê quỷ hờn. Nhưng xét ở bình diện nghệ thuật, Thị càng xấu, tác phẩm càng hay. Dĩ nhiên hay không phải vì xấu. Thị Nở xấu đến tột bậc mà vẫn không lấy được, thì bi kịch mới càng sâu sắc. Đâu phải vô cớ mà Nam Cao trút vào Thị Nở tất cả những nét mỉa mai nhất của hoá công dành cho một người đàn bà. Thị xấu, nghèo, lại dở hơi, lại con nhà có mả hủi! Tất cả những thứ ấy đã biến Thị Nở thành một thứ phế thải, vô giá trị. Nhưng ở cái con người vô giá trị ấy lại có một thứ tài sản vô giá: tình người. Đây là một dụng ý của Nam Cao.

3. Bát cháo hành – sự kì diệu của tình người

Xét cho cùng, biểu hiện lớn nhất của tình người của Thị Nở là bát cháo hành. Và đây là một chi tiết thiên tài của Nam Cao. Việc Thị Nở chăm sóc cho khi bị cảm gió ngoài vườn, thực ra, chỉ là cử chỉ của một lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng trong cái thế giới ngày càng vô tình, tha hóa của làng Vũ Đại, đây là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí nhận được kể từ ngày về làng. Vì thế nó quý giá, nó mới làm cảm động Chí Phèo sâu xa đến thế. Gửi niềm tin vào lòng tốt bình thường, Nam cao đã tỏ rõ tầm cỡ của một nhà văn nhân đạo lớn. Bởi cái mà nhân loại thiếu không phải một lòng tốt xa vời và hư ảo của một ông thánh, cũng không phải lòng tốt suông của những nhà lập thuyết viển vông: “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”, lời nói đó đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong tác phẩm của Rơmác. Chỉ cần mỗi con người mang cho nhau một lòng tốt bình thường là đủ để cả hành tinh này tốt đẹp rồi.

Cháo hành là thứ cháo xoàng xĩnh. Lại được nấu bởi bàn tay của Thị Nở thì chắc là … ấy thế mà đến này, khi sang đến cái dốc bên kia của cuộc đời, Chí mới lần đầu tiên được hưởng. Chí Phèo ý thức được sự hiếm hoi muộn màng đó. Và hắn nhận ra đó là hương vị của tình người. Kề bát cháo hành lên miệng, hắn đã khóc. Nam Cao đã tả bằng những lời văn bè ngoài lạnh lùng mà bên trong đầy thương cảm xót xa: “ Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình như ươn ướt”. May mà Chí Phèo vẫn còn những giọt nước mắt ấy. Nếu không còn khả năng khóc, Chí Phèo không còn khả năng lương thiện, nghĩa là lương tri đã chết hẳn trong con người Chí. Nam Cao tin vào nước mắt của con người. Với Nam Cao, nước mắt là biểu hiện của tính người. Sự thức tỉnh của các nhân vật Nam Cao đều cũng với giọt nước mắt là bằng nước mắt. Sống trong xã hội Vũ Đại héo khô tình người, giọt nước mắt trong Chí Phèo tưởng đã khô cạn, tiêu tan. Hóa ra chưa hẳn. Nó chỉ bị vùi lấp trong sâu thẳm lòng Chí, nó vẫn còn cháy len lỏi, âm thầm và trong suốt. Vậy là tình người đã được thức tỉnh, đã hồi sinh tính người trong Chí. Vừa chạm đến tình người thì cái lốt quỷ dữ của Chí dường như đã được trút bỏ, con người lương thiện đã hiện nguyên bản tướng. Đó chẳng phải là sự kì diệu của bát cháo hành, kì diệu của tình người hay sao?

4. Bút lực sung mãn của Nam Cao

Chí Phèo là một kiệt tác, được viết bằng một bút lực sung mãn và rất đều tay. Nhưng nếu cần chọn một đoạn nào đặc sắc nhất trong đó để kết tụ được đậm nhất những tinh hoa của ngòi bút Nam Cao, thì hẳn phải là đoạn diễn tả những biến đổi bên trong Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến khi xách dao đến Bá Kiến.

Từ khi về làng, Chí Phèo được Nam Cao mô tả ở trạng thái tỉnh ra có hai lần. Và hễ tỉnh ra là buồn. Cho nên, khi Chí buồn, đó là lúc Chí Phèo nhân tính nhất. Bởi tỉnh ra, Chí mới nhìn thẳng vào thân phận mình mà nhận ra tất cả sự thê thảm của nó. Ở vào tuổi Chí (sang cái dốc bên kia của cuộc đời), một người ở nông thôn đã phải làm xong những đầu việc lớn nhất của một kiếp người. Có nghề nghiệp, có nhà cửa, có gia thất, nếu may mắn thì đã có cháu rồi… Đằng này, Chí là con số không. Thậm chí còn không được là số không. Chí là con số âm – bởi Chí còn không được coi là người! Hỏi làm sao mà không buồn được? Lần thứ nhất, Chí tỉnh ra vào buổi sáng nghe tiếng chim hót, nghe tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chơ trao đổi việc mua bán vải, … Tỉnh ra để mà hi vọng. Hi vọng trở lại lương thiện, hi vọng Thị Nở sẽ như chiếc cầu nối, sẽ như người bảo lãnh cho mình. Lần thứ hai, tỉnh ra để mà tuyệt vọng. Cái tình người ở thị Nở đã bị cái định kiến ở bà cô giết chết một cách phũ phàng. Thị nở là người duy nhất tách ra khỏi cái làng Vũ Đại. Tình người mong manh đã bị định kiến thôn tính. Nỗ lực cuối cùng của Chí Phèo nhằm níu giữ Thị Nở lại phía mình đã bị gặt phắt một cách vô tình mà phúc phàng (Hắn đuổi theo Thị, nắm lấy. Thị gạt ra, lại giúp thêm cho một cái). Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi về phía làng Vũ Đại. Đau đớn cùng cực, Chí mang rượu ra uống. Lần này khác tất cả mọi lần, càng uống lại càng tỉnh ra. Hắn ôm mặt khóc rưng rức! Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu bằng nước mắt và kết thúc cũng là nước mắt.

Những trạng thái tâm lí được Nam Cao tai hiện sống động, đầy thuyết phục với tất cả diễn biến tinh vi nhất. Bằng cả độc thoại nội tâm bên trong, bằng cả lời nói mỉa mai trực tiếp của người kể chuyện, bằng cả lối dùng ngoại hiện , … Tuy nhiên, thiên tài nhất vẫn là ở việc dùng chi tiết. Ở đây tôi muốn nói đến chi tiết hơi cháo hành.

5. Vết cứa hằn sâu trong tâm linh

Hơi cháo hành là biến thể của bát cháo hành. “Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thấy thoang thoảng hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức”.

Vào cái lúc tuyệt vọng nhất hơi cháo hành lại cứ hiện ra. Hiện ra để đẩy hắn sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Sang cái dốc bên kia của cuộc đời rồi mới được ăn cháo hành. Muộn mằn, nhưng còn là cháo có hành, tuy được nấu bởi bàn tay Thị Nở…, nhưng còn hơn không. Đã tưởng đời mình từ nay đã có hơi cháo hành của riêng mình rồi. Nào ngờ Chí không có quyền được hưởng. Cuộc đời lại cướp nốt! Mất Thị Nở, Chí mất luôn hơi cháo hành vĩnh viễn. Hơi cháo hành là sự níu giữ cuối cùng của Chí đối với cuộc đời này. Mất hơi cháo hành là cái mất cuối cùng của Chí. Nhưng tại sao nó lại thoang thoảng hiện lên vào lúc này? Để trêu ngươi, để chọc tức Chí Phèo! Nó cứ chờn vờn đâu đó. Ngỡ chỉ cần kiễng chân, nhoài người là có thể chộp lại được, lại cầm giữ được trong lòng bàn tay. Nhưng không. Nó đã tuột ra, vĩnh viễn tuột ra ngoài tầm tay rồi! Nó thoang tháng hiện lên để làm đau Chí Phèo, để đẩy bi kịch Chí Phèo đến cùng cực. Hơi cháo hành là sự bám víu cuối cùng. Là hết chẳng còn gì để mất. Lòng Chí đã tan hoang tận cùng tuyệt vọng Chí đã chuyển sang tột cùng căm uất. và Chí đã xách dao đi…

Chẳng có gì mong mang, vô nghĩa như hơi cháo hành. Vậy mà qua tấm lòng nhân hậu sâu thẳm của Nam Cao, hơi cháo hành nhỏ nhoi mờ nhạt ấy đã hằn lên như một vết cứa, vết xước trong tâm linh của con người. Đó chỉ có thể là bút lực của một thiên tài.

6. Nhân vật Tự Lãng

Trong cái xã hội Vũ Đại đó, vẫn tồn tại một nhân vật mà người đọc chỉ coi như “dân ngụ cư” sống nhờ, sống gá vào bên lề dòng chảy của mạch truyện. ấy là Tự Lãng – một thầy cúng kiêm hoạn lợn ! Có phải lão chỉ như một kẻ dạt vào câu chuyện, chẳng có địa vị nào đối với tư tưởng tác phẩm ? Lão chỉ sống một “đời thừa” ? Nhất định không. Bỏ rơi Tự Lãng vào quên lãng thật oan ức cho lão. Chúng ta hay nói đến Nam Thọ, Binh Chức như những tiền thân “trực hệ” của Chí Phèo, mà quên rằng : Tự Lãng cũng là một tiền thân khác của Chí. Chẳng phải thế sao ? Trong Chí Phèo, thấy có cả Binh Chức, Năm Thọ lẫn Tự Lãng – cả tên đầu bò lẫn kẻ đau khổ. Thực ra trong cái làng Vũ Đại của nghệ thuật Nam Cao, Tự Lãng gần với lão Hạc hơn, xét về loại hình. Cả hai đều bị dồn đẩy vào một tuổi già cô độc, trơ trọi, khốn cùng. Nhưng trước sau, lão Hạc vẫn là lão Hạc. Còn Tự Lãng đã đầu hàng số phận và dường như đã đặt những bước đầu tiên vào con đường tha hoá. Cột mốc đầu tiên của con đường ấy là rượu. Lúc này, rượu hãy còn là người bạn câm lặng nhưng tin cậy duy nhất. Chỉ có rượu biết cảm thông, chia sẻ đau khổ cùng lão. Về điểm này, có thể xem Tự Lãng là hình ảnh của Chí Phèo ở cái bước đau khổ đang xui khiến Chí tìm đến rượu – nghĩa là cái bước tiền tha hoá, đúng hơn, chớm tha hoá. Thế nên, rượu đã giúp Chí Phèo nhận ra ở Tự Lãng một tri kỉ. Đối với Chí Phèo, tất cả những kẻ uống rượu đều là bạn, “đều hay hay”.

Phải nói rằng, trang mô tả cuộc đối ẩm của đôi tri kỉ cuồng này xứng đáng thuộc vào những trang độc đáo nhất mà văn chương có thể viết về rượu. Đó là khúc hoan ca ngộ nghĩnh và kì dị dành cho những tửu đồ. Rượu đã giúp Chí quên đi một việc ác để làm điều thiện cho lão Tự. Rượu cũng biến một kẻ hoạn lợn thành một triết nhân vừa ngọng nghịu vừa sắc sảo của chủ nghĩa hư vô. Bên dưới bầu trời đầy trăng của của làng Vũ Đại có hai kẻ đang ngụp lặn trong rượu, trong trăng, cũng là hai kẻ vật vã trong đời. Hai nạn nhân khác nhau : một kẻ là nạn nhân của số phận, một kẻ là nạn nhân của xã hội. Từ tương phản này, có thể thấy những ý nghĩa riêng của hình tượng Tự Lãng. Trên cái cây tư tưởng của tác phẩm, Tự Lãng và Chí Phèo là hai nhánh vừa song song vừa kế tiếp. ở Tự Lãng, khát vọng sống đã tắt. “Ai chết cũng thành cái mả”, “cái mả tất”, ấy là triết lí về sự vô nghĩa của kiếp người. Không thiết sống, lão đã tự đầu độc mình bằng rượu và triết lí hư vô để chết mòn. Nghĩa là đã tuyệt vọng một cách hoàn toàn tỉnh táo. Còn ở Chí Phèo, khát vọng sống chưa tắt hẳn. Sau khi đã tỉnh, thì phần người trong Chí quyết không thể chết chìm trong rượu. Tự Lãng hỏi “Người ta đứng lên bằng cái gì ?”, đâu phải lời ngớ ngẩn của rượu. Đó thực sự là một triết – lí – líu lưỡi của một kẻ tỉnh đời. Bị ném vào giữa đau khổ, lão đang muốn tìm cách đứng lên đấy chứ, nhưng lão đã bị rượu đánh gục. Còn Chí Phèo, sau khi đã tỉnh ngộ, thì rượu cũng bất lực, không làm hắn tê liệt u tối được nữa. Chí Phèo sẽ ném vào cái xã hội ấy triết lí ghê gớm của mình : “Ai cho tao lương thiện ? Làm sao có thể mất được những vết mảnh chai trên mặt này ?”. Vậy đấy, cả Tự Lãng và Chí Phèo đều là vấn đề quyền làm người. Họ đều thèm được sống, sống có ý nghĩa. Nhưng các thế lực cả bên dưới và bên trên cái gầm trời Vũ Đại đó đã chà đạp và cướp đi quyền sống của họ. Họ phải chết, mỗi người một cách. Thế nên, Tự Lãng đâu phải nhân vật hài kịch. Lão là bi kịch. Lão là tiếng nói phụ hoạ với Chí Phèo, giúp Nam Cao phê phán gay gắt hoàn cảnh Vũ Đại.

7. Ngả mũ trước ngôn từ của Nam Cao

Một trong những điểm “đáng sợ” của thiên tài Nam Cao khiến ai cũng phải ngả mũ là ngôn từ. Ông không chỉ am hiểu ngôn ngữ đời sống một cách chung chung mà còn nắm vững dạng thức sống của từng loại ngôn ngữ.

Chọn Chí Phèo làm nhân vật trung tâm, Nam Cao tự đặt mình trước một thách thức lớn. Nó đòi hỏi ông phải am tường cả một phức hợp tâm lí – tính cách: một nông dân, một lưu manh, một kẻ say, một người tỉnh, một đầu óc có vẻ tê liệt, một ứng xử đầy lắt léo toan tính… Khi nhân vật cất lời, nó phải hiện ra đủ vành đủ vẻ như thế, từ khẩu khí đến từ vựng, từ cú pháp đến tu từ, phong cách, từ hiển ngôn đến hàm ngôn… Đáp ứng được đủ thứ thế, ngôn ngữ thực sự trở thành một kiến trúc đa tầng, phức tạp song vẫn tự nhiên. Lẩy ra một đoạn bất kì trong các đối thoại Chí Phèo – Bá Kiến, đều thấy ngay ma lực của nó.

“Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt con đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù; bẩm có thế, con có dám nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm, quả đi ở tù sướng quá. đi ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù…”. Phải, đây cũng là đoạn thoại thuộc về bút lực một thiên tài.

Lần này, Chí đến, thực chất, để đòi đất. Muốn sống được, bất cứ ai cũng cần hai điều kiện tối thiểu : nhà ở và việc làm. Những thứ này phải lấy từ lão Bá. Nhưng đến xin hẳn hoi, chắc hỏng. Đó là cách của kẻ yếu. Đừng hòng lão nhả ra. Phải chơi rắn theo lối của kẻ mạnh thì hắn mới kiềng mặt, mới được việc. Vậy, phải mượn chén. Đoạn thoại đúng là rất Chí Phèo. Khẩu khí đây chính là miệng lưỡi chung của đám đầu gấu Năm Thọ, Binh Chức đã dùng ăn nói với Bá Kiến: vừa say vừa tỉnh, vừa nghiêm chỉnh vừa chất chưởng, vừa trực diện vừa bóng gió, vừa xin xỏ vừa dọa dẫm, vừa ám chỉ vừa cà khịa… Nghe cứ nửa nạc nửa mỡ, cứ nhơn nhơn. Nó tạo ra ít nhất hai tầng nghĩa : bên trên, cuộc đối thoại phải đạo giữa “con” (Chí Phèo) và “cụ” (Bá Kiến) ; bên dưới, cuộc đối đầu gay cấn giữa hai kẻ thù, mà rõ ra là, nạn nhân với thủ phạm. Muốn thấu được tính đa tầng của kiến trúc ngôn ngữ phức tạp đó, người đọc phải bóc tách, cắt lớp. Câu vào đầu: “Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt con đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù”, đâu chỉ là lời đà đặn phân bua về cái lí do xin xỏ. Nó còn là lời vạch mặt chỉ trán và tuyên chiến : tao biết thằng nào đã đẩy tao vào tù rồi, chính mày! Và tao cũng nói cho mày biết, cái thủ đoạn đê hèn là đẩy những thằng như tao vào tù, giờ vô nghĩa, tao cóc sợ. Mày hết võ rồi ! ý hàm ngôn thế, thì quá tỉnh còn gì ! Thế nhưng lời vẫn rất say. Bề ngoài, tầng hiển ngôn, nghe chả là cái luận điệu ngược đời của một thằng say hay sao ! Lập luận ngang ngược : “đi ở tù sướng quá”, mà lại đầy logic: ở tù, không phải lo nhà ; cơm tù là thứ cơm mạt hạng, nhưng vẫn là có cơm. Còn bây giờ về làng “một thước cắm dùi không có”(không có nhà đất), “chẳng làm gì nên ăn”(không có việc làm). Sống sao được ! Nói thế thì còn say ở chỗ nào ! Nhưng Chí định “đầu đơn”vào tù sao ? Dại gì ! Hắn sẽ gây án, “sẽ đâm chết dăm ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Thì thằng đầu tiên, mà có thể thằng duy nhất, là cụ Bá. ý là, nếu mày không nhả nhà đất ra, tao sẽ giết, rồi vào tù cũng cam lòng.

Đấy, tôi đã làm cái việc “giải mã” thông điệp của Chí Phèo. Nhưng làm sau Bá Kiến đến mấy chục năm. Tôi thì phải bóc tách, cắt lớp dần, mới thấy được cái kiến trúc ngôn ngữ ma lực của Nam Cao (nó có một cái gì rất gần cái lối “tảng băng trôi” được biết đến sau này của Hêminguê – nhà văn thiên tài Mỹ). Còn lão Bá thì “giải cấu trúc” cực nhanh, đọc vị ra ngay lập tức cái “mạch ngầm văn bản” của Chí Phèo. Rồi cũng tức khắc tương kế tựu kế. Mà có cần phải viện đến tí ti lý thuyết ngôn ngữ học nào đâu! Tài thật, tài thật, tài đến thế là cùng…

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 4.640
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm